MỤC LỤC:
A. Lời nói đầu . 1
B. Nội dung. 3
I/ Tính tất yếu về nhân tố đảm bảo tính định hướng XHCN. . .3
1) Khái quát về kinh tế thị trường (KTTT) ở nước ta . 3
2) Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng là nền kinh tế mở, hội nhập .8
3) Phân biệt về KTTT định hướng XHCN ở nước ta với KTTT TBCN. .9
4) Nhữnh nhân tố đảm bảo tính định hướng XHCN ở nước ta. . 12
II/ Thực trạng về những nhân tố dảm bảo tính định hướng XHCN ở nước ta. . 17
1) Về vai trò của nhà nước 17
2) Về thực trạng của thành phần kinh tế nhà nước .20
C. Kết luận. . 27
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1681 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng về những nhân tố dảm bảo tính định hướng XHCN ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ quốc tế nhưng vẫn giữ được độc lập, tự chủ và bảo vệ được lợi ích quốc gia, độc lập trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
(1) Tạp chí cộng sản số 20 (tháng 10 năm 2004) – trang 28
Trong thời gian tới cần tiếp tục mở rộng đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại có bước đi thích hợp hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới, phải đẩy mạnh xuất khẩu coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại, chủ động và tích cực thâm nhập thị trường thế giới chú trọng htị trường các trung tâm kinh tế thế giới, mở rộng thị phần trên các thị trường quên thuộc, tranh thủ mọi cơ hội để mở ra các thị trường mới cải thiện môi trường đầu tư và bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.
3. Phân biệt kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta với kinh tế thị trường TBCN.
Từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay là một bước tiến dài trên con đường nhận thức về mô hình kinh tế mà Việt Nam hướng tới- mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nếu cách đây 16 năm trên bình diện lý luận về mô hình kinh tế vẫn còn phân biệt giữa kế hoạch là đăc trưng só một và quan hệ thị trường là đặc trưng số hai của cơ chế kinh tế mới thì hiện nay tư tưởng nhất quán là xây dựng nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Sự thành công về kinh tế của 16 năm qua cũng làm dịu đi những phản ứng của một số nhà lý luận kinh tế phương Tây về định hướng XHCN mà Việt Nam lựa chọn.
Vậy giữa mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN mà Việt Nam lựa chọn có gì khác các mô hình kinh tế thị trường phổ biến trên thế giới hiện nay.
Trước hết, về mặt lý luận chúng ta thừa nhận rằng hàng hoá, thị trường phải gắn liền với các phạm trù cung- cầu, giá cả, giá trị lợi nhuận, cạnh tranh… phản ánh các mối quan hệ chung của cơ chế thị trưòng, phản ánh tổng thể các quan hệ giữa con người với con người phát sinh trong quá trình sản xuất - phân phối - trao đổi và tiêu dùng. Hàng hoá là hàng hoá, giá cả là giá cả… chúng không nói lên đặc trưng gì về chính trị xã hội. Mặt khác chúng ta lại thấy rằng các thuật ngữ và pham trù trên đây luôn tồn tại gắn liền với một nền kinh tế hiện thực của mỗi dân tộc trên một vùng lãnh thổ cụ thể.
Vì mỗi nước khác nhau có trình độ kinh tế, kết cấu xã hội, phong tục tập quán khác nhau nên cũng có mô hình kinh tế khác nhau, vừa phản ánh các quan hệ chung bản chất, vừa phản ánh các quan hệ đặc thù trong từng phương thức sản xuất và sự phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế.
Tóm lại, không có một mô hình thị trường nào là bản sao của mô hình kinh tế thị trường khác và trong chừng mực nhất định khi nền kinh tế được điều khiển đến các mục tiêu mong muốn như: tăng trưởng bền vững, cân bằng và hiệu quả XHCN…
Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt nam vừa mang những cái phổ biến của mô hình thị trường nói chung và các đặc thù của mô hình trong kinh tế thị trường định hướng XHCN nói riêng sau đây:
Thứ nhất, nền kinh tế chịu tác động hàng ngày hàng giờ của các quy luật kinh tế khách quan như: quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… chứ không phải là những quy luật mang tính hình thức như trong mô hình kinh tế cũ.
Thứ hai, cơ chế thị trường là cơ chế kinh tế tất yếu vì chỉ thông qua cơ chế thị trường mới liên kết được các nhà sản xuất riêng lẻ vào hoạt động kinh tế của quốc gia, cạnh tranh là yếu tố tất yếu để tồn tại của doanh nghiệp.
Thứ ba, mỗi đơn vị kinh doanh là một chủ thể tự do, tự chủ kinh doanh theo pháp luật.
Thứ tư, kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong việc làm sống động thị trường.
Thư năm, trong nền kinh tế thị trường tiền tệ đóng vai trò quan trọng. Đồng tiền được phát huy đầy đủ các chức năng của mình (chức năng lưu thông, thước đo giá trị, phương tiện cất giữ, phương tiện thanh toán, tiền tệ thế giới) đồng tiền quốc gia từng bước hoà nhập vào đồng tiền thế giới.
Thứ sáu, thị trường bao gồm thị trường hàng hoá dịch vụ và thị trường các yếu tố sản xuất
Thứ bẩy, thị trường quốc gia là một thể thống nhất không thể chia cắt theo ranh giới hành chính, thị trường quốc gia từng bước hòa nhập vào thị trường khu vực và quốc tế.
.Thứ tám, nhà nước điều khiển thị trường thông qua hệ thống luật lệ và chính sách, trong đo luật thương mại được xem như luật chơi cơ bản của thị trường. Bên cạnh những đặc điểm chung của một nền kinh tế thị trường, kinh tế thị trường định hướng XHCN có những điểm rất đặc trưng, khác với các nền kinh tế thị trường TBCN. Cụ thể:
Mục tiêu cơ bản của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN đó là: phát triển kinh tế để đạt tới một xã hội công bằng, văn minh dân chủ và giầu mạnh.
Nếu như nền kinh tế tự do TBCN phục vụ lợi ích của các nhà tư bản xây dựng cơ sở cho CNTB bảo vệ và phát triển CNTB thì kinh tế thị trường định hướng XHCN lấy lợi ích và phúc lợi toàn dân làm mục tiêu; phát triển kinh tế thị trường để phát triển lực lượng sản xuất xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. Kinh tế thị trường bản thân nó là nội lực tự thúc đẩy tiến trình kinh tế- xã hội. Đến lượt mình chúng ta dùng cơ chế đó kích thích sản xuất khuyến khích tinh thần năng động sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy CNH- HĐH, xây dựng một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc từng bước thực hiện lý tưởng XHCN.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN là một kiểu tổ chức, một kiểu vận hành kinh tế mà một mặt luôn tuân theo quy luật kinh tế thị trường mặt khác dựa trên cơ sở bản chất và nguyên tắc của CNXH, thể hiện trên cả ba mặt cơ bản của một nền kinh tế – xã hội: sở hữu, quản lý và phân phối.
Về chế độ sở hữu: trong thị trường TBCN tồn tại chủ yếu chế độ sử hữu tư nhân TBCN về TLSX còn sở hữu của nền kinh tế định hướng XHCN là đa dạng hoá các hình thức sở hữu trên cơ sở chế độ công hữu về TLSX chủ yếu.
Về tổ chức quản lý: Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau, nhưng tất cả đều do nhà nước quản lý, kinh tế nhà nước luôn luôn là thành phần kinh tế chủ đạo hướng các thành phần kinh tế khác tới mục tiêu XHCN. Bất kỳ một chế độ quản lý nào dù trực tiếp hay gián tiếp đều có sự quản lý của nhà nước nhưng nền kinh tế định hướng XHCN được quản lý bằng nhà nước XHCN nhà nước của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản VN. Đối với thị trường TBCN giữ vai trò quản lý là nhà nước TBCN.
Về chế độ phân phối: kinh tế thị trường TBCN phân phối theo tư bản phục vụ lợi ích tối đa của nhà tư bản. Phù hợp với nền kinh tế định hướng XHCN trong giai đoạn hiện đại chúng ta thực hiện phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu cùng với một số hình thức khác với mục đích vừa khuyến khích lao động vừa đảm bảo phúc lợi cơ bản cho nhân dân nhằm từng bước nâng cao chất lượng cuộc sống.
Với những nội dung và đặc trưng cơ bản nêu trên, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà Đảng ta xây dựng là nền kinh tế vận hành theo hướng nhân văn hoá bản chất cũng như tất cả các quan hệ KT- XH nhằm phát triển một xã hội đảm bảo các tiêu chí tiến bộ và nhân đạo. Thực chất đó là tiến tới một xã hội phát triển dựa trên cơ sở một nền sản xuất đại công nghiệp xoá bỏ chế độ TBCN thiết lập chế độ công hữu về TLSX và thực hiên một nền kinh tế có kế hoạch, một xã hội phân phối theo lao động thực hiện công bằng và bình đẳng đối với mọi người, một xã hội giải phóng con người khỏi mọi áp bức bóc lột có điều kiện phát triển toàn diện hài hoà và phát huy tối đa mọi tiềm năng bản chất người, tạo ra một xã hội có chất lượng sống cao và phát triển hài hoà tất cả các mặt của cuộc sống.
4. Những nhân tố đảm bảo định hướng XHCN ở nước ta.
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường mới đầu hình thành còn sơ khai còn ở trình độ thấp, các loại thị trường chưa hình thành đầy đủ đồng bộ. Mặt khác kinh tế thị trường ở nước ta mang tính định hướng XHCN nó khác với thị trường TBCN. Do vậy một mặt ra sức thúc đẩy kinh tế một mặt chúng ta phải giữ vững định hướng XHCN đó là:
a. Sự lãnh đạo của ĐCS và vai trò quản lý của nhà nước XHCN.
ĐCS cùng với sự quản lý của nhà nước là nhân tố quan trọng đảm bảo định hướng XHCN vì:
- ĐCS và nhà nước XHCN là những thành tố cơ bản của hệ thống chính trị của kiến thúc thượng tầng. “Không có ĐCS và nhà nước XHCN quản lý thì không thể có kinh tế thị trường định hướng XHCN mà đó sẽ chỉ là kinh tế thị trường TBCN”(1)..
- Kinh tế thị trường vốn có xu hướng tự phát TBCN. Chỉ có ĐCS lãnh đạo bằng đường lối chủ trương đúng đắn phù hợp với sự quản lý của nhà nước bằng chính sách, pháp luật, bằng các công cụ quản lý vĩ mô (tài chính, tín dụng, kế hoạch, quy hoạch…) mới hạn chế được tính tự phát TBCN đảm bảo được định hướng XHCN cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước,
(1) Tạp chí cộng sản số 31 (tháng 11 năm 2003) trang 15.
thực hiện được sự kết hợp giữa kế hoạch và thị trường giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong mỗi bước phát triển.
- Kinh tế thị trường vốn có hai mặt: tích cực và tiêu cực. Mặt trái của kinh tế thị trường mâu thuẫn với bản chất của CNXH. Vì vậy sự lãnh đạo của ĐCS và quản lý của nhà nước sẽ phát huy được mặt tich cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
- ĐCS và nhà nước XHCN là những lực lượng lãnh đạo và quản lý xã hội. Những lực lượng này có khả năng nhận thức và vận dụng những quy luật kinh tế khách quan chuyển hoá chúng thành đường lối, chính sách, pháp luật… để tổ chức thực hiện các mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Với nhiệm vụ quan trọng của mình, nhà nước XHCN có vai trò sau:
Một là: nhà nước đảm bảo sự ổn định chính trị kinh tế và xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế vì: ổn định chính trị xã hội là điều kiện cần thiết để phát triển kinh tế. Nhà nước còn phải tạo ra hành lang luật pháp cho hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra các điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và hoạt động thị trường, đặt ra những quy luật chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn khổ pháp luật mà nhà nước thiết lập có tác động sâu sắc tới các hành vi của các chủ thể kinh tế, điều chỉnh hành vi kinh tế của họ.
Hai là: nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều tiết cho các hoạt động kinh tế để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường tăng trưởng ổn định. Nhà nước xây dựng các chiến lược và quy hoạch phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn dắt nền kinh tế- xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Nền kinh tế thị trường khó tránh khỏi những chấn động bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế và lạm phát. Nhà nước phải xây dựng chính sách tài chính và tiền tệ để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô tạo điều kiện cho phát triển kinh tế.
Ba là: nhà nước đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Các doanh nghiệp vì lợi ích hẹp hòi của mình có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội gây ô nhiễm môi trường của con người. Vì vậy nhà nước phải thực hiện các biện pháp nhằm ngăn chặn những tác động bên ngoài dể nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội. Sự xuất hiện độc quyền cũng làm giảm hiệu quả của nền kinh tế. Vì vậy nhà nước có nhiệm vụ rất cơ bản là bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền nhằm nâng cao tính hiệu quả của nền kinh tế.
Bốn là: nhà nước phải hạn chế, khắc phục các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường thực hiện công bằng xã hội. Sự tác động của cơ chế thị trường có thể mang lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng nó không tự động mang lại các giá trị mà xã hội cố gắng vươn tới, không tự động mang lại sự phân phối công bằng trong thu nhập. Nhà nước thực hiện phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và công bằng xã hội. Điều này thể hiện rõ nhất tính định hướng xã hội của nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Nội dung quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN Việt Nam bao gồm:
Một là: quyết định chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế phụ thuộc trước hết vào đường lối và chiếh lược phát triển kinh tế. Để xây dựng chiến lược đúng, có căn cứ khoa học cần phân tích đúng thực trạng kinh tế- xã hội xây dựng rõ mục tiêu phát triển, lựa chọn phương án tối ưu. Muốn vậy cần thực hiện dân chủ hoá, khoa học hoá, thể chế hoá quyết sách.
Hai là: kế hoạch. Kế hoạch nói ở đây là kế hoạch thực hiện mục tiêu của quyết định chiến lược, nó là sự triển khai và cụ thể hoá quyết định chiến lược, kế hoạch xây dựng mục tiêu dài hạn, trung hạn và ngắn hạn, nêu ra các biện pháp và phương thức thực hiện các mục tiêu đó.
Ba là: tổ chức. Tổ chức là một nội dung của quản lý nhằm đảm bảo thực hiện kế hoạch đã định. Nó bao gồm việc bố trí hợp lý cơ cấu, xác định rõ các chức năng và quyền hạn, trách nhiệm của các tổ chức và dựa vào yêu cầu cụ thể của các cơ cấu để lựa chọn và bố trí cán bộ thích hợp.
Bốn là: chỉ huy và phối hợp. Nền kinh tế là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều chủ thể khác nhau vì thế để cho nền kinh tế hoạt động bình thường có hiệu quả cần có sự chỉ huy thống nhất. Để có thể chỉ huy thống nhất nền kinh tế phải có cơ quan quản lý thống nhất, cơ quan đó có quyền lực, có đầy đủ thông tin về các mặt để điều hoà phối hợp các hoạt động của nền sản xuất xã hội giải phóng kịp thời các vấn đề nảy sinh để đảm bảo cân bằng tổng thể của nền kinh tế.
Năm là: khuyến khích và trừng phạt. Bằng các đòn bẩy kinh tế và động viên về tinh thần, khuyến khích mọi tổ chức kinh tế hoạt động theo định hướng của kế hoạch, cố gắng thực hiện nhiệm vụ của kế hoạch. Muốn vậy phải có chế độ thưởng phạt rõ ràng, hoạt động theo định hướng kế hoạch làm lợi cho nền kinh tế thì được khuyến khích, ngược lại, không làm theo đúng kế hoạch làm hại thì phải ngăn chặn và trừng phạt.
Để thực hiện tốt vai trò của mình nhà nước cần xây dựng các công cụ điều tiết của nhà nước XHCN ở Việt Nam như sau:
- Hệ thống pháp luật. Đây cũng là một công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước nó tạo ra khuôn khổ pháp luật cho các chủ thể kinh tế hoạt động, phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của cơ chế thị trường đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo định hướng XHCN. Hệ thống pháp luật bao trùm mọi hoạt động kinh tế- xã hội bao gồm những điều luật cơ bản về hoạt động của các doanh nghiệp, về hợp đồng kinh tế, về bảo hộ lao động, bảo hiểm xã hội, bảo vệ môi trường… các luật đó điều chỉnh hành vi của các chủ thể kinh tế buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận sự điều tiết của nhà nước.
- Kế hoạch hoá, cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là kế hoạch kết hợp với thị trường. Kế hoạch và thị trường là hai công cụ quản lý của nhà nước, chúng được kết hợp chặt chẽ với nhau. Sự điều tiết của thị trường là cơ sở phân phối các nguồn lực. Còn kế hoạch khắc phục tính tự phát của thị trường làm cho nền kinh tế phát triển theo định hướng của kế hoạch. Kế hoạch nói ở đây được hoạch định trên cơ sở của thị trường bao quat tất cả các thành phần kinh tế. tất cả các quan hệ kinh tế kể cả quan hệ thị trường.
- Chính sách tài chính và tiền tệ. Đối với nền kinh tế thị trường, nhà nước quản lý bằng các biện pháp kinh tế là chủ yếu. Những biện pháp kinh tế điều tiết vĩ mô của nhà nước chủ yếu là chính sách tài chính và chính sách tiền tệ:
Về chính sách tài chính, đặc biệt là ngân sách nhà nước có ảnh hưởng quyết định đến sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế- xã hội. Thông qua việc hình thành và sử dụng ngân sách nhà nước, nhà nước điều chỉnh phân bố các nguồn lực kinh tế, xây dựng cơ cấu hạ tầng đảm bảo công bằng trong phân phối và thực hiên các chức năng của mình. Nội dung của ngân sách bao gồm các khoản thu là thuế. Chính sách thuế đúng đắn không chỉ tạo nguồn thu ngân sách mà còn khuyến khích sản xuất, điều tiết tiêu dùng.
Về chính sách tiền tệ. Đây là công cụ quản lý vĩ mô trọng yếu, vai trò của nó trong điều tiết vĩ mô ngày càng tăng cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng XHCN. Chính sách tiền tệ phải khống chế được lượng tiền phát hành và tổng quy mô cho tín dụng. Trong chính sách tiền tệ lãi suất là công cụ quan trọng, là phương tiện điều tiết cung- cầu tiền tệ. Việc thắt chặt hay nới lỏng cung ứng tiền tệ, kiềm chế lạm phát thông qua hoạt động của hệ thống ngân sách có tác động trực tiếp tới nền kinh tế.
Một công cụ điều tiết vĩ mô quan trọng của nhà nước XHCN đó là:
b. Các lực lượng kinh tế của nhà nước.
Nhà nước quản lý nền kinh tế không chỉ bằng công cụ pháp luật kế hoạch hoá mà còn bằng lực lượng kinh tế của tập thể để chúng dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN, thúc đẩy sự phát triển kinh tế nhanh chóng và bền vững. Nhờ đó nhà nước có sức mạnh vật chất để điều tiết hướng dẫn nền kinh tế theo mục tiêu kinh tế- xã hội do kế hoạch đặt ra.
Đại hội IX của Đảng đã khẳng định: “Trong nền kinh tế nhiều thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo bảo đảm cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển ổn định và bền vững theo định hướng XHCN”(1).
Thật vậy, kinh tế nhà nước là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng (công hữu) về TLSX (sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước). Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các quỹ dự trữ quốc gia, các quỹ bảo hiểm nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và công cụ để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân.
Các doanh nghiệp nhà nước, bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế giữ vai trò chủ đạo then chốt đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế- xã hội và chấp hành pháp luật.
Việc sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước được thực hiện theo những hướng sau:
1- Xây dựng một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Khẩn trương cải thiện tình hình tài chính và lao động của các doanh nghiệp nhà nước, củng cố và hiện đại hoá một bước các tổng công ty nhà nước.
2- Thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá và đa dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp mà nhà nước không cần lắm 100%
3- Giao, bán, khoán, cho thuê … các doanh nghiệp loại nhỏ mà nhà nước không cần lắm giữ.
(1) Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản chính trị quốc gia Hà Nội, 2001.
4- Sáp nhập, giải thể, cho phá sản những doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả và không thực hiện được các biện pháp trên.
Về mặt quản lý kinh tế, nhà nước phải phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Thực hiện chế độ công ty đối với các doanh nghiệp kinh doanh dưới dạng các công ty trách nhiệm hữu hạn một chủ sở hữu là nhà nước và công ty cổ phần có vốn của nhà nước giao cho hội đồng quản trị quyền đại diện trực tiếp quyền sở hữu gắn với quyền tự chủ trong kinh doanh. Quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách với doanh nghiệp nhà nước để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả theo hướng xoá bỏ triệt để bao cấp, doanh nghiệp cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh, nộp đủ thuế và có lãi. Thực hiên tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp có cơ chế phù hợp về kiểm tra, kiểm soát, thanh tra của nhà nước với doanh nghiệp .
Tóm lại, kinh tế nhà nước có vai trò quyết định trong việc giữ vững định hướng XHCN ổn định và phát triển kinh tế chính trị- xã hội của đất nước. Doanh nghiệp nhà nước phải không ngừng được đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả, giữ vai trò then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt góp phần chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
II. Thực trạng về những nhân tố bảo đảm tính định hướng XHCN trong nền KTTT ở nước ta. Những yếu kém và giải pháp khắc phục.
1. Về vai trò của nhà nước.
a. những thàmh tích đã đạt được.
Trải qua bao nhiêu năm từ khi đổi mới đến nay ĐCS cùng với vai trò quản lý của nhà nước ngày càng khẳng định được niềm tin của mình trong nhân dân.
Cùng với sự tin tưởng đó vai trò của nhà nước đối với kinh tế cũng có sự thay đổi căn bản. Đó là quá trình chuyển nhà nước từ độc quyền sang quan hệ mới giữa nhà nước và thị trường (bàn tay hữu hình - bàn tay vô hình), giữa nhà nước và doanh nghiệp, giữa nhà nước và nhân dân trong các hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Nếu trước đây nhà nước là chủ thể của chế độ sở hữu thì hiện nay đang giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống đa sở hữu. Nếu trước đây là trực tiếp sản xuất kinh doanh thì hiện nay là thiết kế luật chơi, hỗ trợ và tạo môi trường thuận lợi cho sản xuất, kinh doanh và nếu trước đây thực hiện kế hoạch hoá trực tiếp thì hiện nay chuyển sang điều tiết bằng công cụ quản lý vĩ mô.
Nhà nước một mặt siết chặt các biện pháp kỷ luật đối với các cá nhân và thành phần tham gia kinh tế. Mặt khác lại khuyến khích tham gia kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật.
Nếu trước đây kinh tế tư nhân cá thể không được thừa nhận thì từ sau đại hội VI của Đảng, nhà nước đã thừa nhận và khuyến khích phát triển- nhà nước đã ban hành nhiều luật như luật công ty (12/1990), luật doanh nghiệp tư nhân (12/1990) nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh của các công dân Việt Nam, không hạn chế về vốn đầu tư và số lượng lao động (điều 21 hiến pháp 1992) và đối với các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư kinh doanh tại Việt Nam (Điều 25 Hiến pháp 1992).
Trong nông nghiệp, theo nghị quyết 10 của Bộ chính trị, đã thực hiện chính sách khoán và giao nộp sản phẩm. Nông dân được quyền sử dụng ruộng đất lâu dài, tự do bán sản phẩm của mình trên thị trường. Các hợp tác xã cho đơn vị hộ nông dân sản xuất. Điều này đã làm nông dân phấn khởi vì họ được sở hữu ruộng đất mà trước kia họ chỉ là người làm thuê, do đó khuyến khích họ tham gia sản xuất đạt được năng suất cao.
Tháng 10/1987 nhà nước ban hành quyết định 217/HĐBT về đổi mới quản lý doanh nghiệp nhà nước. Nội dung cơ bản của nghị quyết này là nhà nước xoá bỏ tất cả các khoản bao cấp trực tiếp và trao quyền tự chủ về tài chính, về sản xuất kinh doanh cũng như trách nhiệm cho các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp hạch toán đầy đủ theo hướng lời ăn lỗ chịu. Tháng 11/1997 nhà nước cũng ban hành nghị định 338/HĐBT về thành lập và giải thể doanh nghiệp nhà nước, đưa ra chủ trương thí điểm cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp ở khu vực này.
Mặt khác Đảng và nhà nước ta khuyến khích sự liên kết giữa các thành phần kinh tế với nhau, nhất là giữa kinh tế nhà nước với các thành phần kinh tế khác vì đây chính là con đường dẫn tới xã hội hoá quan hệ sản xuất phù hợp với tiến trình xã hội hoá lực lượng sản xuất, phát huy các mặt tổng hợp của nền kinh tế nhiều thành phần. Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là một hình thức liên kết như vậy. Điều này hạn chế và kiểm soát được độc quyền kinh doanh.
b, Những hạn chế.
Từ khi đổi mới tới nay, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam từng bước được hình thành. Qua đó sự quản lý của nhà nước về kinh tế cũng đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy nhiên tất cả mới chỉ là bước đầu và còn nhiều hạn chế:
Thứ nhất: sự quản lý của nhà nước về kinh tế còn yếu kém, hiệu lực và hiệu quả quản lý chưa cao.
Thứ hai: hệ thống luật pháp chính sách chưa đồng bộ và chưa nhất quán, kỷ cương pháp luật chưa nghiêm.
Thứ ba: công tác ngân hàng còn nhiều sơ hở.
Thư tư: cải cách còn chậm, rườm rà và chưa kiên quyết, hiệu quả thấp. Tổ chức bộ máy nhà nước còn cồng kềnh trùng lặp chức năng với nhiều tầng lớp trung gian và những thủ tục hành chính phiền hà, không ít trường hợp trên và dưới, trung ương và địa phương hành động không thống nhất gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế- xã hội và làm giảm động lực phát triển.
Thứ năm: nhà nước thực hiện chưa tốt các chức năng: định hướng sự đầu tư tập trung vào một số lĩnh vực để dẫn dắt sự nỗ lực phát triển theo định hướng XHCN.
Thứ sáu: Đảng và nhà nước chưa thực sự tạo được sự tin tưởng từ phía đối tác nước ngoài khi đầu tư vào thị trường Việt Nam. Và cả những người dân muốn phát triển sản xuất.
Trên thực tế, những người này rất muốn tham gia vào thị trường nhưng họ lại chưa tin tưởng vào chính sách của Đảng và nhà nước ta, chưa yên tâm vào việc thực thi chính sách luật pháp ở các ngành các cấp, do đó còn ngần ngại trong việc bỏ vốn đầu tư phát triển kinh doanh lâu dài.
Thứ bẩy: trong đội ngũ cán bộ vẫn còn tồn tại những tư tưởng quan liêu tham ô, tham nhũng…
Những yếu kém trong sự quản lý của nhà nước là do nhiều nguyên nhân:
Một là: năng lực của đội ngũ cán bộ công chức nhà nước còn thấp so với yêu cầu của thực tiễn quản lý.
Hai là: Cán bộ và các cấp chính quyền vẫn còn can thiệp vào chức năng quản lý kinh doanh và quyền tự chủ hạch toán của doanh nghiệp.
Ba là: Tư tưởng của Đảng chưa thực sự quán triệt, tuyên truyền rộng khắp đến từng người dân. Từ đó dẫn tới những tư tưởng sai lệch của họ…
Trên cơ sở những hạn chế đã được nêu trên chúng ta cần phải có nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng về những nhân tố dảm bảo tính định hướng XHCN ở nước ta.DOC