Đề tài Thực trạng về ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất của công nghiệp hoá chất ở Việt Nam những năm gần đây

- Luật pháp: Các quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường trong phát triển bền vững đã được thể chế hoá bằng các công cụ chính sách và pháp luật cụ thể. Từ năm 1991, kế hoạch quốc gia về môi trường phát triển lâu bền ( 1991- 2000 ) đã được thông qua và thực hiện. Hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường đã được phát triển khi luật Bảo vệ môi trường được thông qua năm 1993. Dự thảo luật Bảo vệ môi trường sửa đổi đang trình Quốc Hội thông qua đã đưa vào các quy định mới về gỉam thiểu, tái sử dụng, tái chế chất thải rắn đô thị và công nghiệp nhằm cải thiện tình hình quản lý chất thải ở nứơc ta.

doc31 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 3718 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng về ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất của công nghiệp hoá chất ở Việt Nam những năm gần đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trọng có ảnh hưởng to lớn đối với sự phát triển của công nghiệp, nông nghiệp và đời sống nhân dân. Vì vậy, ngành công nghiệp này cần nhận được sự quan tâm thích đáng của Nhà Nước và các cơ quan hữu quan, tạo điều kiện cho ngành phát triển toàn diện, thực hiện tốt vai trò của mình. II.2. Vấn đề ô nhiễm chất thải rắn đặt ra cho ngành hoá chất ở nước ta Tuy đóng vai trò vô cùng quan trọng như đã trình bày ở trên, nhưng công nghiệp hoá chất lại là ngành công nghiệp có mức gây ô nhiễm lớn nhất. Ngành hoá chất sử dụng nhiều loại vật tư nguyên liệu độc hại (chì, clo, SO2...) nếu không được quan tâm đúng mức, hoạt động sản xuất, kinh doanh và tiêu thụ các sản phẩm hoá chất có khả năng gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Hầu hết các loại chất thải trong quá trình sản xuất hoá chất đều rất độc hại, gây nguy hiểm cho môi trường tự nhiên và con người không chỉ trong hiện tại mà ảnh hưởng của nó còn tồn tại rất lâu dài. Cũng như những ngành công nghiệp khác, sản phẩm của ngành hoá chất sau khi được sử dụng còn tồn dư trong tự nhiên ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Điều này càng nguy hại khi ở Việt Nam, ý thức của người sử dụng chưa cao dẫn đến việc lạm dụng các sản phẩm hoá chất. Một số vấn đề môi trường gặp phải trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hoá chất là: ô nhiễm môi trường do chất thải rắn, ô nhiễm không khí, ô nhiễm do hoá chất tồn dư trong môi trường.... trong khuôn khổ đề tài, chỉ đề cập tới ô nhiễm môi trường do chất thải rắn. Trong quá trình sản xuất, công nghiệp hoá chất đã thải vào môi trường những loại chất thải rắn như: Xỉ than: hình thành từ quá trình đốt than để thu khí sản xuất NH3 và sản xuất điện. Thành phần chủ yếu của xỉ than là silic oxit, sắt oxit, CaO và than chưa cháy. Xỉ lò: được hình thành từ quá trình dản xuất phốt pho vàng có thành phần chủ yếu là silic oxit, nhôm oxit, CaO và flo. Photphogip: là chất thải của quá trình sản xuất axit photphoric theo phương pháp ướt ở nhà máy DAP. Cứ sản xuất một tấn axit photphoric thì tạo ra năm tấn photphogip. Thành phần chủ yếu của photphogip là CaSO4 và các tạp chất. Đá thải: là chất thải của quá trình khai thác quặng phốt phát và quặng bô xít. Đá thải nói chung có hình dạng thô, hoặc được đập nhỏ ở các kích thước khác nhau. Bùn thải: là chất thải của quá trình tuyển quặng apatit và quặng bô xít ( bùn phốt phát, bùn nhôm ), chất thải này ở dạng huyền phù, có hàm lượng chất rắn thấp, được lắng trong các hồ tuần hoàn. thành phần chủ yếu của bùn photphat là silic oxit, sắt oxit, còn trong bùn nhôm là nhôm oxit, sắt oxit, silic oxit. Dự kiến đến năm 2010 lượng chất thải rắn được sinh ra trong các quá trình sản xuất hoá chất như sau: ( bảng 3 )(7) Chất thải Lượng thải ( tấn/ năm ) Xỉ than 300.000 Xỉ lò 120.000 Photphogip 1.000.000 Đá thải 400.000 Bùn thải 1.800.000 Đến năm 2010, dự báo tổng lượng chất thải rắn này sẽ vào khoảng 3,7 đến 4 triệu tấn. Đây là mối hiểm hoạ tiềm tàng và có xu hướng gia tăng. Việc xử lý chất thải rắn vẫn còn ở mức rất thô sơ ( Theo thống kê, hiện nay gần 100% chất thải rắn sinh ra từ các quá trình sản xuất hoá chất là bị thải bỏ ), gây ra nhiều vấn đề môi trường cho các cư dân quanh vùng và ảnh hưởng đến nguồn nước ngầm. II.3. Một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng ô nhiễm trong quá trình sản xuất của công nghiệp hoá chất. Trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, vấn đề ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất công nghiệp nói chung và hoạt động sản xuất hoá chất nói riêng là một thách thức rất lớn mà chúng ta phải vượt qua. Có rất nhiêu nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên bao gồm những nguyên nhân chung và do đặc điểm của ngành hoá chất. Những nguyên nhân chung: Trình độ công nghệ sử dụng trong quá trình sản xuất công nghiệp nói chung và công nghiệp hoá chất nói riêng và trình độ công nghệ xử lý chất thải ở nước ta còn rất lạc hậu, gây lãng phí tài nguyên và ô nhiễm môi trường, lượng chất thải chưa được xử lý tốt. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu công nghiệp từ các ngành truyền thống sang các ngành công nghiệp nặng, công nghiệp hoá chất làm tăng lượng chất thải độc hại vào môi trường. Bộ máy quản lý và năng lực quản lý môi trường chưa đáp ứng nhu cầu, vừa thiếu về lực lượng, vừa yếu về năng lực. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường lạc hậu, nguồn lực của Nhà Nước và các doanh nghiệp đều bị hạn chế. Mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm với yêu cầu bảo vệ môi trường chưa được xử lý đang là thách thức lớn trong bảo vệ môi trường. Nguyên nhân do đặc điểm của ngành: Đặc điểm nổi bật của ngành hoá chất là sử dụng nhiều loại vật tư nguyên liệu độc hại ( chì, axit, clo, SO2... ) vì vậy, mức độ ô nhiễm trong quá trình sản xuất hoá chất cao hơn nhiều so với nhiều ngành công nghiệp khác. Do việc phân bố các nhà máy hoá chất chưa hợp lý, nhiều nhà maý được xây dựng gần khu dân cư nên chất thải hoá chất ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân. Do ý thức bảo vệ môi trường của nhiều doanh nghiệp hoá chất chưa cao, chưa quan tâm đầu tư thích đáng cho công nghệ xử lý chất thải. Trên đây là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng ô nhiễm môi trường trong công nghiệp hoá chất. Muốn giải quyết triệt để và hiệu quả vấn đề môi trường, cần phải tập trung từ những nguyên nhân cơ bản nêu trên. III/ Một số giải pháp giảm thiểu ô nhiễm môi trường trong hoạt động sản xuất của công nghiệp hoá chất. III.1. Những giải pháp vĩ mô bảo vệ môi trường và giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của công nghiệp đến môi trường. Để bảo vệ môi trường, giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của chất thải công nghiệp, đặc biệt là chất thải công nghiệp hoá chất đến môi trường, cần phải có một hệ thống các giải pháp bao gồm chính sách, luật pháp, thể chế, và phải xác định những mục tiêu cụ thể cần phấn đấu đạt được trong những khoảng thời gian nhất định. Những giải pháp này cần được thực hiện đồng bộ để đem lại hiệu quả cao nhất, đạt được những mục tiêu đã đề ra. Về chính sách, luật pháp, thể chế: - Chính sách: Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã nêu rõ: “ Phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.” trên tinh thần đó, Nghị quyết số 41- NQ/TW của Bộ chính trị đã khẳng định quan điểm chỉ đạo xuyên suốt về bảo vệ môi trường, theo đó, bảo vệ môi trường phải được gắn kết chặt chẽ, hài hoà với phát triển kinh tế và bảo đảm công bằng xã hội. Luật pháp: Các quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường trong phát triển bền vững đã được thể chế hoá bằng các công cụ chính sách và pháp luật cụ thể. Từ năm 1991, kế hoạch quốc gia về môi trường phát triển lâu bền ( 1991- 2000 ) đã được thông qua và thực hiện. Hệ thống pháp luật về bảo vệ môi trường đã được phát triển khi luật Bảo vệ môi trường được thông qua năm 1993. Dự thảo luật Bảo vệ môi trường sửa đổi đang trình Quốc Hội thông qua đã đưa vào các quy định mới về gỉam thiểu, tái sử dụng, tái chế chất thải rắn đô thị và công nghiệp nhằm cải thiện tình hình quản lý chất thải ở nứơc ta. Thể chế: Hệ thống quản lý Nhà Nước về bảo vệ môi trường bắt đầu được thànhlập từ năm 1992 với Bộ Khoa Học, Công nghệ và Môi trường chịu trách nhiệm quản lý về Nhà Nước về bảo vệ môi trường cấp trung ương,và các sở Khoa Học, Công nghệ và môi trường ở cấp tỉnh, thành phố. Năm 2002, cùng với việc thành lập Bộ Tài nguyên và Môi trường, hệ thông quản lý Nhà Nước về bảo vệ môi trường được phát triển đến cấp huyện và cấp xã ở một số địa phương. Các bộ ngành cũng đã hình thành các đơn vị chuyên trách quản lý môi trường của ngành mình. Một số tổng công ty lớn cũng đã thành lập các phòng, ban hay bộ phận chuyên trách về quản lý môi trường. Công cụ kinh tế quản lý ô nhiễm môi trường: Giao quyền sở hữu khu vực thải ( thuyết Coase ): phương pháp này cho rằng, bằng cách xác định quyền sở hữu rõ ràng khu vực thải, dù người bị ô nhiễm hoặc người gây ô nhiễm có quyền sở hữu khu vực thải cũng sẽ bàn bạc giải quyết vấn đề ônh nhiễm một cách hiệu quả nhất trên góc độ kinh tế môi trường. Thuế ô nhiễm ( thuế Pigou ): Được dùng khi cơ chế thị trường hoạt động tương đối tốt. Thuế ô nhiễm sẽ dần đi vào giá cả hàng hoá. Chuẩn mức thải: Đây là công cụ thường được sử dụng để quản lý ô nhiễm, đặc biệt với những chất thải độc hại. Nó khuyến khích các cơ sở nghiên cứu các công nghệ giảm thải hiệu qủa hơn. Giấy phép xả thải có thể chuyển nhượng: hình thành một thị trường giấy phép, các cơ sở có lượng chất thải lớn có thể mua lại giấy phép xả thải của những cơ sở có lượng chất thải ít hơn. Như vậy, tổng lượng chất thải ra môi trường được kiểm soát. Trong dài hạn các doanh nghiệp muốn giảm chi phí phải đầu tư nghiên cứu công nghệ sử lý chất thải hiệu quả hơn. Chính sách trợ cấp giảm thải cho các hãng gây ô nhiễm: Các hãng nhận trợ cấp sẽ giảm lượng chất thải theo quy định để nhận lợi do trợ cấp đem lại, chính sách này chỉ có tác dụng trong ngắn hạn. Những công cụ kinh tế trên đây đều có những mặt tích cực và hạn chế riêng, và chỉ phù hợp trong từng trường hợp cụ thể, vì vậy việc áp dụng chúng cần có sự cân nhắc kỹ càng cả hai mặt đó sao cho hiệu quả mang lại cho môi trường là cao nhất và lâu dài nhất. Mục tiêu bảo vệ môi trường trong công nghiệp được thể hiện rõ thông qua chiến lược quốc gia bảo vệ môi trường giai đoạn 2001- 2010 được Chính phủ thông qua, trong đó mục tiêu cao nhất của chiến lược là “Giảm thiểu tác động tiêu cực tới môi trường của ngành công nghiệp”. Mục tiêu tổng thể của chiến lược bảo vệ môi trường của ngành công nghiệp là: đến năm 2020 tạo dựng được năng lực và thể chế cần thiết cho phép tự kiểm soát và thực hiện phòng ngừa chủ động, tăng cường hiệu quả khai thác và sử dụgn tài nguyên đạt các tiêu chuẩn môi trường đề ra. Mục tiêu cụ thể đến năm 2010:(8) Hình thành thể chế về quản lý và bảo vệ môi trường ngành công nghiệp trong đó lấy doanh nghiệp là mục tiêu trọng tâm. Lồng ghép các điều chỉnh phân bố công nghiệp, các cân nhắc về môi trường trong các quy định ( quy chế ngành ) và chính sách phát triển công nghiệp nhằm giảm thiểu chất thải, khuyến khích xu hướng phát triển bền vững. Thực hiện sản xuất sạch hơn tại 79% số cơ sở sản xuất công nghiệp chủ chốt, gắn sản xuất sạch hơn với nâng cao năng lực cạnh tranh theo hướng thận thiện và hội nhập. Đến năm 2010, 50% các cơ sở sản xuất công nghiệp được cấp chứng chỉ ISO 14000, SA8000, HACCP. Thực hiện việc di dời 100% các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, thuộc danh sách theo quyết định 64 của Thủ Tướng Chính phủ. Đến năm 2020 xử lý về cơ bản các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Phấn đấu 100% các khu công nghiệp có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Mục tiêu đến 2020: Hoàn thiện thể chế quản lý và bảo vệ môi trường, đặc biệt là thể chế tài chính nhằm đưa hạch toán môi trường vào chi phí sản xuất. Đến năm 2020, 100% sản phẩm công nghiệp xuất khẩu và 50% tiêu dùng trong nước đạt nhãn hiệu xanh. 100% cơ sở sản xuất công nghiệp áp dụng sản xuất sạch hơn; 100% các cụm công nghiệpcó hệ thống sử lý nước thải và quản lý thống nhất; phục hồi trên 50% các khu vực khai thác khoáng sản. Đến năm 2020, 80% các cơ sở công nghiệp đạt chứng chỉ ISO 14000; cải thiện đáng kể mức tiêu thụ năng lượng và nguyên liệu tính trên đầu sản phẩm; điều chỉnh cơ cấu công nghiệp theo hướng thân thiện và hội nhập. Để thực hiện được các chiến lược nêu trên, cần có các giải phápnhư: giải pháp quy hoạch: xây dựng và điều chỉnh các quyhoạch về phân bố công nghiệp theo vùng nhằm phát huy lợi thế môi trường. Định hướng theo ba khu vực chủ đạo: Đồng bằng châu thổ sông Hồng, miền Trung và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên. Giải pháp tăng cường sức ép đối với các doanh nghiệp bằng những chế tài. Giải pháp thông tin. Các chính sách hỗ trợ về tài chính, nghiên cứu công nghệ, môi trường, chuyển giao và hỗ trợ công nghệ. Phát triển dịch vụ tư vấn nghiên cứu. III.2. Các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm chât thải rắn trong hoạt động sản xuất của công nghiệp hoá chất. Với những đặc trưng riêng của ngành, công nghiệp hoá chất không chỉ chấp hành những quy định của Nhà Nước về bảo vệ môi trường, mà còn nghiên cứu những giải pháp phù hợp với ngành để giảm thiểu ô nhiễm trong quá trình hoạt động sản xuất của mình. Từ những mục tiêu chiến lược trên, công nghiệp hoá chất cần tập trung vào chiến lược về nguyên liệu và công nghệ, chiến lược về chăm sóc trách nhiệm. Chiến lược về chăm sóc trách nhiệm(9) Xuất phát từ mục tiêu của tổ chức chăm sóc trách nhiệm ( RC ) và nhu cầu của ngành hoá chất về bảo vệ môi trường, cuối năm 2003, Hội hoá học Việt Nam ( CSV ) đã đề nghị Bộ Công nghiệp cho phép thành lập tổ chức này. Đến đầu năm 2004, CSV đã được Bộ Công nghiệp quyết định giao cho việc thành lập Hội đồng RC Việt Nam. Năm 2004, CSV đã thành lập Nhóm chủ chốt của Hội đồng RC Việt Nam, để tiến hành các công việc: Thành lập văn phòng của tổ chức RC. Văn phòng này có chung địa chỉ với văn phòng của CSV và chịu sự quản lý của Tổng Thư Ký Hội, đồng thời là uỷ viên thường trực của Nhóm chủ chốt. Nhóm chủ chốt đã soạn và xuất bản được bộ tài liệu giới thiệu về tổ chức RC, mục tiêu, lợi ích và nội dung hoạt động của tổ chức này. Qua đó giới thiệu tình hình hoạt động của các tổ chức RC ở các nước trong khu vực và trên thế giới. Từ tháng 10/2004 đến nay, với sự phối hợp giúp đỡ của Bộ công nghiêp, Tổng công ty hoá chất Việt Nam, tổ chức môi trường Mỹ Á ( US-AEP ), nhóm đã tổ chức những cuộc hội thảo cả ở miền Bắc và miền Nam giới thiệu nội dung và phương thức hoạt động RC ở các doanh nghiệp hoá chất. Trong thời gian tới, nhóm sẽ tiếp tục thực hiện những công việc: Dự thảo và thông qua các nguyên tắc hướng dẫn thực hiện RC. Lựa chọn và mời những doanh nghiệp hoá chất đại diện cho các lĩnh vực và thành phần kinh tế có triển vọng thực hiện chương trình RC tham gia tổ chức này. Thu thập thư cam kết tham gia thực hiện chương trình, làm cơ sở thành lập Hội đồng RC Việt Nam bao gồm những đại diện là các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực chủ yếu của ngành công nghiệp hoá chất. Thành lập và tiến hành đào tạo nhóm điều phối viên từ các công ty cam kết tham gia tổ chức RC . Xây dựng sáu code quản lý, chọn ba code liên quan đến các hoạt động trong phạm vi nhà máy để ưu tiên thực hiện trong một hoặc hai năm đầu. Các code còn lại liên quan đến cộng đồng bên ngoài nhà máy sẽ được thực hiện những năm tiếp theo. Áp dụng các code quản lý tại các công ty tham gia hội đồng RC. Đánh giá kết quả thực hiện hoạt động RC ở các đơn vị. Lập hồ sơ xin gia nhập tổ chức RC quốc tế. Những công việc trên dự kiến sẽ được hoàn thành vào đầu quý IV/2005. Giải pháp công nghệ: Giải pháp tái chế chất thải để sản xuất vật liệu xây dựng.( 10) + Xỉ than còn chứa nhiều cacbon, xỉ lò khí hoá than có hàm lượng cacbon khoảng 10%, tro bay từ các lò hơi đốt than có hàm lượng cacbon khá cao từ 15-30%. Đây là một trở ngại lớn cho việc sử dụng trực tiếp xỉ than, tuy nhiên cũng có thể sử dụng phương pháp Lytag để sản xuất vật liệu nhẹ. Đối với xỉ than đáy lò có hàm lượng cacbon thấp có thể sử dụng để sản xuất vật liệu xây dựng. + Xỉ lò sản xuất photpho vàng là vật liệu có giá trị. Có thể sản xuất nhiều loại vữa khác nhau từ các thành phần của nó. Vữa sản xuất từ xỉ lò có tính ổn định thể tích cao, có loại có khả năng chịu được môi trường ănmòn như muối sunfat và có thể được sử dụng để sản xuất gạch chịu axit. Trung tâm kỹ thuật môi trường và công nghiệp hoá chất đã sử dụng xỉ từ lò đốt lưu huỳnh và xỉ lò khí hoá than để sản xuất gạch chịu axit. Các nghiên cứu chỉ ra rằng chất lượng của sản phẩm này đảm bảo đáp ứng yêu cầu. Ngoài ra xỉ lò có thể được sử dụng sản xuất gạch lát đường, việc này đã được áp dụng trên thực tế. + Photphogip đã được viện nghiên cứu photphat của trường đại học Miami ( Mỹ ) nghiên cứu, có thể được sử dụng để sản xuất vật liệu sản xuất gạch, làm nền đường. + Đá thải nói chung không chứa các chất nguy hiểm, có thể sử dụng để san nền. Giải pháp xử lý chất thải rắn và chất thải nguy hại.(11) Đối với những chất thải rắn, chất thải nguy hại không thể tái chế, cần có những biện pháp xư lý thích hợp. + phân loại và xử lý cơ học: Đây là khâu ban đầu không thể thiếu trong quy trình xử lý chất thải. Nó làm tăng hiệu quả xử lý ở những bước tiếp theo. Các công nghệ dùng để phân loại, xử lý cơ học chất thải gồm: cắt nghiền, sàng, tuyển từ, tuyển khí nén... ví dụ: các loại chất thải có kích thước lớn phải được phân loại ngay khi tiếp nhận. Các chất thải rắn chứa chất độc hại, cần phải được đập thành những hạt nhỏ trước khi được hoà tan để xử lý hoá học. Các chất thải hữu cơ dạng rắn có kích thước lớn phải được băm và nghiền nhỏ đến kích thước nhất định rồi trộn với chất thải hữu cơ khách để đốt. + Giải pháp thiêu đốt: Là quá trình oxy hoá chất thải ở nhiệt độ cao. Công nghệ này phù hợp để xử lý chất thải công nghiệp và chất thải nguy hại hữu cơ ( cao su, nhựa, dung môi, thuốc bảo vệ thực vật... ). Một trong những hình thức của công nghệ này là tiêu huỷ chất thải bằng lò nung xi măng.(12) Những chất thải có thể đốt trong lò nung xi măng là: dung môi hữu cơ, dầu thải chứa PCB, sơn, keo dán, vecni, chất dẻo, thuốc trừ sâu có nguồn gốc hữu cơ, chất lỏng kiềm, đất nhiễm bẩn, tro công nghiệp, xỉ, bùn cặn sau xử lý nước thải... công nghệ này chỉ áp dụng với những lò nung xi măng kiểu quay hiện đại, có lắp đặt hệ thống thiết bị thiêu đốt chất thải. Nguyên lý hoạt động như sau: chất thải tập kết đến nhà máy được xử lý sơ bộ, phối trộn theo tỷ lệ thích hợp với nguyên liệu xi măng, rồi đưa vào buồng đốt. Tại buồng đốt, nhiệt độ lên tới 1.400-2.000 độ C đủ để phá huỷ hoàn toàn cấu trúc bền vững của các chất thải. Lò nung cũng tận dụng nhiệt năng từ các chất thải hữu cơ để thay thế, tiết kiệm một phần nhiên liệu. Cặn bã còn lại của chất thải sau khi thiêu đốt là CaO, SiO2, Al2O3, Fe2O3... trở thành nguyên liệu cho xi măng. Hơn thế nữa, theo PGS Nguyễn Văn Lâm, Phó giám đốc Trung tâm Tư vấn công nghệ môi trường, thuộc liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, loại lò này có thời gian lưu cháy lâu ( 6-10 giây ) nên các chất thải sẽ bị phân huỷ triệt để hơn nhiều so với lò thiêu bình thường ( chỉ có thời gian lưu cháy là 2 giây ). Khí thải có tính axit từ lò nung được tuần hoàn trở lại buồng nguyên liệu. Do tính kiềm của các nguyên lệu tại đây, khí thải sẽ được trung hoà, làm sạch phần lớn. Cũng do quá trình tương tác này, nhiệt của dòng khí thải lạnh đi đáng kể, ngăn chặn sự tạo ra các chất độc hại như doxin, furan... Thử nghiệm đốt 40 tấn thuốc bảo vệ thực vật tại công ty xi măng Holcim, Kiên Giang tháng 10/2003 cho hiệu suất 100% chất lượng xi măng không bị ảnh hưởng. Cũng theo ông Lâm, việc lắp đặt hệ thống xử lý chất thải tuy đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu lớn, nhưng thời gian thu hồi vốn ngắn, và có thể tiết kiệm đến 20- 25% nhiên liệu, 5- 10% nguyên liệu. Nó hạn chế gần như hoàn toàn ô nhiễm môi trường, mở ra hướng kết hợp giữa công nghiệp sản xuất xi măng và những ngành công nghiệp có nhu cầu xử lý rác thải, đặc biệt là công nghiệp hoá chất. + Giải pháp xử lý hoá- lý: Công nghệ xử lý hoá- lý là sử dụng các quá trình biến đổi vật lý, hoá học để làm thay đổi tính chất của chât thải nhằm mục đích giảm thiểu khả năng gây nguy hại của chất thải đối với môi trường. Công nghệ này rất hiệu quả đối với những loại chất thải như dầu, mỡ, dung môi... chỉ nên áp dụng công nghệ này trong những nhà máy quy mô lớn, công nghệ hiện đại. Một số biện pháp hoá- lý trong sử lý chất thải là: Trích ly: là quá trình tách các cấu tử ra khỏi hỗn hợp nhờ một dung môi có khả năng hoà tan chọn lọc một số chất trong hỗn hợp đó. Quá trình này thường được sử dụng dể tách hoặc thu hồi các chất hữu cơ có lẫn trong chất thải như dung môi, hoá chất bảo vệ thực vật... Sau khi trích ly, dung môi được thu hồi lại bằng cách chưng cất, sản phẩm trích ly còn lại có thể được sử dụng hoặc xử lý bằng cách khác. Chưng cất: là quá trình tách hỗn hợp chất lỏng bay hơi thành nhữn cấu tử riêng biệt dựa vào độ bay hơi khác nhau, ở những nhiệt độ sôi khác nhau của những cấu tử trong hỗn hợp bằng cách lặp đi lặp lại nhiều lần bay hơi và ngưng tụ. Chất có nhiệt độ sôi thấp hơn sẽ bay hơi trước và được tách ra khỏi hỗn hợp. Trong thực tế quá trình này thường kết hợp với quá trình trích ly để tăng cường khả năng tách sản phẩm. Kết tủa, trung hoà: dựa trên phản ứng tạo sản phẩm kết tủa lắng giữa chất bẩn hoá chất để tách kết tủa ra khỏi dung dịch. Quá trình này được áp dụng để tách kim loại nặng trong chất thải lỏng dạng hydroxit kết tủa hoặc muối không tan. Ví dụ tách Cr, Ni trong nước thải mạ điện nhờ phản ứng giữa Ca(OH)2 với các Cr3+ và Ni2+ tạo ra kết tủa Cr(OH)3, Ni(OH)2 lắng xuống, lọc tách ra đem xử lý tiếp để trở thành Cr2O3 và NiSO4 được sử dụng làm bột màu, mạ Ni. Oxy hoá- khử: là quá trình sử dụng các tác nhân oxy hoá- khử để tiến hành phản ứng oxy hoá- khử, chuyển chất thải độc hại thành chất thải không độc hoặc ít độc hại hơn. các chất oxy hóa- khử thông dụng là: Na2SO4, NaHSO4, H2, KMnO4, K2Cr2O, H2O2, O3, Cl2. Trên thực tế, quá trình oxy hóa được ứng dụng để xử lý các kim loại đa hoá trị ( Cr, Mn ) biến chúng từ mức oxy hoá cao, dễ hoà tan ( Cr6+, Mn7+ ) thành dạng oxyt bền vững, không hoà tan ( Cr3+, Mn4+ ). Ngược lại, quá trinh khử cho phép phân huỷ các chất hữu cơ nguy hại như phenol, mecraptan, thuốc bảo vệ thực vật và các cyanua thành những sản phẩm ít độc hại hơn. + Chôn lấp hợp vệ sinh: Đây là một biện pháp khá phổ biến ở các nước, thường được áp dụng khi không thể sử dụng những biện pháp nêu trên. Tuy nhiên, biện pháp này đòi hỏi phải tuân thủ nghiêm ngặt một số nguyên tắc để bảo đảm an toàn và bảo vệ môi trường như: phải thêm một số chất để hoá rắn chất thải, tăng sức bền, giảm độ hoà tan, giảm độ truyền chất thải độc hại ra môi trường; các hố chôn lấp có ít nhất hai lớp lót chống thấm, có hệ thống thu gom nước rò rỉ để xử lý,có hệ thống thóat khí, có giếng khoan để giám sát khả năng ảnh hưởng đến nước ngầm; địa điểm xây dựng bãi chôn lấp phải cách xa khu dân cư trên 5km, giao thông vận tải thuận lợi, nền đất ổn định, mực nước ngầm thấp, thiết kế đúng quy chuẩn về kích thước, độ dốc... những chất thải đáp ứng được những chỉ tiêu theo tiêu chuẩn sẽ được phép chôn ở bãi rác công nghiệp. Hiện nay, chúng ta chưa có hệ thống tiêu chuẩn này, những có thể tham khảo hệ thống tiêu chuẩn của Nhật Bản. theo tiêu chuẩn này, chất thải rắn cần ngâm và khuấy trộn liên tục sáu giờ trong nước cất, sau đó lọc và phân tích nước dịch lọc để xác địnhmột số chỉ tiêu đặc trưng cho loại chất thải đó, rồi so sánh với tiêu chuẩn.( bảng 4 ) Bảng 4: tiêu chuẩn chôn lấp của Nhật Bản( 13 ) Stt (1) Chỉ tiêu phân tích (2) Tiêu chuẩn của Nhật Bản (3) 1 Độ ẩm < 85% 2 Dẫn xuất ankan của thuỷ ngân Thuỷ ngân và hợp chất thuỷ ngân Không phát hiện được 0,005 mg/l 3 Cadmium và hợp chất cadmium 0,3 mg/l 4 Chì và hợp chất của chì 0,3 mg/l 5 Hợp chất photpho hữu cơ 1,0 mg/l 6 Hợp chất Cr6+ 1,5 mg/l 7 Asen và hợp chất của asen 0,3 mg/l 8 Hợp chất cyanua 1 mg/l 9 PCB 0,003 mg/l 10 Triclo etylen 0,3 mg/l 11 Tetraclo etylen 0,1 mg/l 12 Diclo metan 0,2 mg/l 13 Tetra clorua cacbon 0,02 mg/l 14 1,2 diclo etan 0,04 mg/l 15 1,1 diclo etylen 0,2 mg/l 16 Cis- 1,2 diclo etylen 0,4 mg/l 17 1,1,1 triclo etan 3 mg/l (1) (2) (3) 18 1,1,2 triclo eten 0,06 mg/l 19 1,3 diclo propan 0,02 mg/l 20 Thiurium 0,06 mg/l 21 Enthiocarb 0,2 mg/l 22 Benzen 0,1 mg/l 23 Selen và hợp chất của selen 0,3 mg/l 24 Niken và hợp chất của niken 1,5 mg/l Bảng 4 ( tiếp ) - Giải pháp lâu dài của ngành chính là hướng tới công nghệ sản xuất sạch hơn. Trên thực tế, công nghệ sản xuất sạch hơn đã mang lại những lợi ích không nhỏ cho các doanh nghiệp công nghiệp, không chỉ có vậy, công nghệ sản xuất sạch hơn cũng góp phần giảm thiểu ô nhiễm, bảo vệ môi trường. Điều đó được thể hiện trong bảng 5: Bảng 5: lợi ích kinh tế và môi trường do áp dụng sản xuất sạch hơn tại các cơ sở công nghiệp.( 14 ) Các lợi ích Mức tiết kiệm/ giảm thiểu chất ô nhiễm ( % ) Tiết kiệm nước sản xuất 40-70 Tiết kiệm năng lượng 20-50 Chất thải nguy hại 50-100 Tổng chất rắn lơ lửng ( TSS ) 40- 60 Kim loại nặng trong dòng thải 20- 50 Trên đây là một số những giải pháp nhằm gỉam thiểu ô nhiễm chất thải rắn trong quá trình sản xuất của công nghiệp hoá chất. Với điều kiện hiện nay, cần ưu tiên các giải pháp tái chế nhằm làm giảm lượng chất thải rắn thải ra môi trường đồng thời đây cũng là một hình thức sử dụng triệt để nguyên liệu, đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Mặt khác, những chất thải không có khả năng tái chế đặc biệt là những chất thải độc hại, cần có biện pháp xử lý thích hợp với từng loại chất thải như đã nêu trên. trong dài hạn cần tính đến khả năng đổi mới công nghệ sản xuất sạch không chỉ để phát triển toàn ngành mà còn góp phần bảo vệ môi trường chung, nâng cao chất lượng cuộc sống. III.3. Một số đề xuất nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác bảo vệ môi trường của ngành hoá chất. Để nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác bảo vệ môi trường, cần tập trung giải quyết những vấn đề sau: Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ thân thiện với môi trường. Cần đẩ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng về ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất của công nghiệp hoá chất ở Việt Nam những năm gần đây.doc
Tài liệu liên quan