MỤC LỤC
Trang
Phần I: Giới thiệu đề tài 1
Phần II: Nội dung 3
Chương 1: Một số lý luận chung về quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường. 3
1.1. Lý luận về quy luật giá trị: 3
1.1.1. Khái niệm về quy luật giá trị: 3
1.1.2. Yêu cầu của quy luật giá trị: 3
1.2. Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị: 4
1.3. Vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá: 8
1.3.1. Quy luật giá trị điều tiết nền sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá: 8
1.3.2. Quy luật giá trị kích thích sự phát triển sức sản xuất: 10
1.3.3. Thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và sự phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu, người nghèo: 11
Chương 2: Thực trạng về sự vận dụng quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế ở nước ta thời gian qua. 13
2.1. Tác dụng của quy luật giá trị dưới CNXH: 13
2.2. Thực trạng kinh tế Việt Nam: 16
2.3. Những thành tựu về kinh tế và hạn chế: 18
2.3.1. Thành tựu về kinh tế: 18
2.3.2. Hạn chế: 21
Chương 3: Những giải pháp nhằm vận dụng tốt quy luật giá trị ở nước ta trong thời gian tới. 24
3.1. Giải quyết mâu thuẩn giữa quy luật giá trị và quy luật phát triển: 24
3.2. Xây dựng cơ chế giá: 24
3.3. Tăng cường khả năng hội nhập kinh tế: 25
3.4. Xây dựng nền kinh tế tri thức: 26
3.5. Đào tạo nguồn nhân lực, chống tham nhũng: 27
Phần III: Kết luận 29
Tài liệu tham khảo 30
31 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1697 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng về sự vận dụng quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế ở nước ta thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, nay chỉ cần có 6 giờ là đủ. Ngay trong hiện tượng giá trị là biểu hiện của lao động xã hội nằm trong bản thân các sản phẩm tư nhân, cũng đã chứa đựng sẵn cái khả năng có sự chênh lệch giữa lao động ấy với lao động cá nhân nằm trong bản thân sản phẩm. Cho nên, nếu một người sản xuất tư nhân tiếp tục sản xuất theo phương pháp cũ, trong khi đó phương thức sản xuất xã hội ngày càng tiến bộ, thì người ấy càng nhận thấy sự chênh lệch đó là qúa rõ rệt. Hiện tượng đó cũng sẽ diễn ra, khi mà toàn bộ các nhà tư nhân làm một loại hàng hoá nhất định nào đó đã sản xuất ra một khối lượng vượt qua nhu cầu xã hội. Ngay trong hiện tượng là giá trị của một thứ hàng hoá chỉ có thể biểu hiện bằng một thứ hàng hoá khác và chỉ có thể thực hiện được bằng cách thông qua sự trao đổi lấy thứ hàng hoá khác này mà thôi, cũng đã chứa đựng sẵn cái khả năng là sự trao đổi không phải tuyệt đối cứ nhất định là thực hiện được, hay ít ra thì sự trao đổi ấy cũng không thực hiện được đúng với giá trị.
Muốn đứng vững và thắng trong cạnh tranh, mỗi người sản xuất đều luôn luôn tìm cách rút xuống đến mức tối thiểu hao phí lao động cá biệt. Muốn vậy, họ phải luôn luôn tìm cách cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Vì thế, trong nền kinh tế hàng hoá, lực lượng sản xuất được kích thích và phát triển nhanh hơn nhiều so với trong nền kinh tế tự cấp, tự túc. Tuy nhiên, không nên lý tưởng hoá ưu điểm này của quy luật giá trị và kinh tế hàng hóa. Quy luật giá trị, một mặt, yêu cầu phải chú ý hạ thấp mức hao phí lao động ca biệt, tức là yêu cầu có sự tiết kiệm lao động, nhưng mặt khác, do chạy theo sản xuất những hàng hoá có giá cả cao, cho nên tạo ra tình trạng có một loại hàng hoá nào đó được xuất quá nhiều, dẫn đến hiện tượng dư thừa, làm lãng phí lao động xã hội.
1.3.3. Thực hiện sự bình tuyển tự nhiên và sự phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu, người nghèo:
Trong cuộc cạnh tranh chạy theo giá trị, lao động cá biệt của mỗi người sản xuất có thể không nhất trí với lao động xã hội cần thiết. Những người làm tốt, làm giỏi có hao phí lao động cá biệt thấp hơn hao phí lao động xã hội cần thiết, nhờ đó phát tài, làm giàu, mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở rộng thêm quy mô sản xuất, mở rộng doanh nghiệp của mình. Bên cạnh đó, người làm ăn kém cỏi, không gặp may, hao phí lao động cá biệt cao hơn hao phí lao động xã hội cần thiết nên họ bị lỗ vốn, thậm chí đi đến phá sản. Như vậy quy luật giá trị có ý nghĩa bình tuyển, đánh giá người sản xuất. Nó mang lại phần thưởng cho những người làm tốt, làm giỏi và hình phạt cho những người làm kém cỏi. Về phương diện này thì quy luật giá trị bảo đảm sự bình đẳng đối với người sản xuất.
Tuy nhiên, không một tấm huân chương nào lại không có mặt trái của nó. Ngay trong qua trình thực hiện sự bình tuyển tự nhiên đối với người sản xuất, quy luật giá trị đã phân hoá người sản xuất thành kẻ giàu, người nghèo. Mỗi một người đều sản xuất riêng biệt, cho lợi ích riêng của mình, không phụ thuộc vào các nhà sản xuất khác; họ sản xuất cho thị trường, nhưng dĩ nhiên không một người nào trong bọn họ lại biết được dung lượng của thị trường. Mối quan hệ như vậy giữa những người sản xuất riêng rẽ, sản xuất cho thị trường chung thì gọi là cạnh tranh. Dĩ nhiên, trong những điều kiện ấy sự thăng bằng giữa sản xuất và tiêu dùng( giữa số cung và số cầu) chỉ có được sau nhiều lần biến động. Người sản xuất khéo léo hơn, tháo vát hơn, và có sức lục hơn, sẽ ngày càng lớn mạnh nhờ những sự biến động đó; còn người yếu ớt và vụng về thì bị sự biến động đó đè bẹp. Một vài người trở nên giàu có, còn quần chúng thì trở nên nghèo đói, đó là kết quả không tránh khỏi của quy luật cạnh tranh. Kết cục là những người sản xuất bị phá sản mất hết tính chất độc lập về kinh tế của họ đi và trở thành công nhân làm thuê trong công xưởng đã mở rộng của đối thủ tốt số của họ. Lịch sử phát triển của sản xuất hàng hoá giản đơn trong xã hội phong kiến dần dần sinh ra quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Quan hệ giữa kẻ giàu - người nghèo, quan hệ giữa chủ - thợ, quan hệ giữa tư sản – vô sản là quan hệ đối kháng về lợi ích kinh tế. Sự đối kháng đó tất yếu dẫn đến cuộc đấu tranh giữa những người nghèo chống lại kẻ giàu, người thợ chống lại chủ, vô sản chống lại tư sản. Đó là một trong những khuyết tật của nền kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường.
Chương 2
Thực trạng về sự vận dụng quy luật giá trị và vai trò của nó trong nền kinh tế ở nước ta thời gian qua.
2.1. Tác dụng của quy luật giá trị dưới CNXH:
Một số quy luật kinh tế, kể cả quy luật giá trị đang phát huy tác dụng ở nước ta, ở đâu có hàng hoá và sản xuất hàng hoá thì quy luật giá trị nhất định tồn tại. Trong nước ta quy luật giá trị trước hết phát huy tác dụng đối với lưu thông hàng hoá, sự trao đổi hàng hoá bằng mua và bán, và đặc biệt đối với sự trao đổi những hành hoá tiêu dùng cá nhân. Trong lĩnh vực ấy, quy luật giá trị tất nhiên vẫn có tác dụng điều tiết trong một chừng mực nào đó. Tuy nhiên phạm vi của quy luật giá trị không chỉ hạn chế trong lưu thông hàng hoá mà còn đối với sản xuất nữa. Tuy không có tác dụng điều tiết trong nền sản xuất xã hội chủ nghĩa nhưng nó vẫn ảnh hưởng đến sản xuất. Trong nền sản xuất nước ta, những sản phẩm tiêu dùng cần thiết để bù đắp cho sự tổn phí sức lao động trong quá trình sản xuất, đều được sản xuất và tiêu thụ, với tư cách là hàng hoá do quy luật giá trị chi phối. Chính ở đấy, quy luật giá trị ảnh hưởng đến sản xuất. Do đó, trong các xí nghiệp của chúng ta khi hạch toán kinh tế, tiền lãi, giá thành, giá cả, v.v… đều có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy, chúng ta không thể không tính đến quy luật giá trị. Trong những điều kiện hiện nay, điều đó có ý nghĩa giáo dục những cán bộ lãnh đạo ngành công nghiệp nước ta tiến hành sản xuất một cách hợp lý và khép họ cào kỷ luật. Từ đó, tạo điều kiện cho họ học hỏi được cách tính toán tiềm năng sản xuất để từ đó có phương án, quyết định sản xuất có hiệu quả và đạt lợi nhuận cao. Đó là điển hình thực tế giúp cho các cán bộ lãnh đạo ngành công nghiệp nước ta trở thàng người lãnh đạo thực sự của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn phát triển hiện nay.
Thực tế là quy luật giá trị dưới xã hội chủ nghĩa không có tác dụng rộng rãi như dưới chế độ tư bản. Dưới chế độ kinh tế nước ta, quy luật giá trị bị thu hẹp phạm vi hoạt động. Chắc chắn là tình trạng không còn chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nữa, và việc xã hội hoá những tư liệu sản xuất đó ở thành thị khiến cho phạm vi tác dụng của quy luật giá trị và trình độ ảnh hưởng của nó đến sản xuất nhất định bị hạn chế. Chúng ta cũng thấy rằng trong chế độ kinh tế nước ta hiện nay, quy luật giá trị không thể điều tiết tỷ lệ phân phối lao động giữa các ngành sản xuất khác nhau. Minh chứng rõ nhất là nước ta tập trung phát triển công nghiệp nặng hơn là phát triển công nghiệp nhẹ, mà lợi nhuận do công nghiệp nặng mang lại lời ít hơn công nghiệp nhẹ, có khi còn không có lãi nữa. Các xí nghiệp công nghiệp nặng nước ta lại không đóng cửa khi hiện tại không có lãi, công nhân của các ngành này không đạt hiệu quả như mong muốn và thay vào đó là mở các xí nghiệp công nghiệp nhẹ làm ăn có lãi hơn nhiều, công nhân làm việc với hiệu quả đạt yêu cầu. Nếu chúng ta làm theo phương pháp chuyển sang hoạt động công nghiệp nhẹ để đạt được lợi nhuận thì chúng ta không phải ưu tiên chế tạo tư liệu sản xuất mà ưu tiên chế tạo vật phẩm tiêu dùng. Nghĩa là cản bước tiến không ngừng của nền kinh tế quốc dân vì nếu không đồng thời bảo đảm việc ưu tiên chế tạo tư liệu sản xuất thì không thể nào thực hiện được bước tiến không ngừng được của nền kinh tế quốc dân.
Quy luật giá trị có một tác dụng điều tiết đối với giá cả “ những tư liệu sản xuất ” do ngành nông nghiệp làm ra và bán cho nhà nước theo giá mua. Trong trường hợp này “ các tư liệu sản xuất ” là nguyên liệu. Nông nghiệp không sản xuất ra những “tư liệu sản xuất ” mà sản xuất ra một trong những tư liệu sản xuất: nguyên liệu. Chúng ta không thể coi một bộ phận của tư liệu sản xuất và toàn bộ tư liệu sản xuất( gồm cả công cụ sản xuất) là như nhau, bởi vì bản thân nguyên liệu thì không thể tạo ra công cụ sản xuất, mặc dù có một vài nguyên liệu cần cho việc chế tạo ra công cụ sản xuất. Nhưng nếu không có công cụ sản xuất thì không thể chế tạo ra bất cứ nguyên liệu nào cả. Trong nền kinh tế quốc dân nước ta, giá cả của nguyên liệu nông nghiệp không thể lên xuống tự do được bởi vì ở nước ta nguyên liệu nông nghiệp có một giá cả ổn định, do một kế hoạch ấn định chứ không phải do giá cả “ tự do ”. Khối lượng sản xuất nguyên liệu nông nghiệp không phải được quy định một cách tự phát, cũng không phải do những yếu tố ngẫu nhiên quy định mà do kế hoạch quy định. Ngoài ra, công cụ cần thiết để chế tạo nguyên liệu nông nghiệp không tập trung trong tay các cá nhân, hay tập đoàn mà trong tay Nhà nước.
Do đó không thể phủ nhận rằng quy luật giá trị có tác động đến sự hình thành của giá cả các nguyên liệu nông nghiệp, rằng nó là một trong những nhân tố quyết định giá cả của nó. Ngoài ra, về chức năng của quy luật giá trị dưới chủ nghĩa xã hội trước hết cần nêu rõ vai trò của nó trong việc thực hiện các chức năng cơ bản của toàn bộ hệ thống các quy luật kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Có ba loại chức năng:
Chức năng tổ chức xã hội. Do đã khắc phục đước sự tách rời người lao động khỏi tư liệu sản xuất nên đã bảo đảm được tính chất tập thể của việc tổ chức nền sản xuất xã hội và đã hình thành một trong những nét rất quan trọng của chủ nghĩa xã hội là sự phụ thuộc lẫn nhau và sự quy định lẫn nhau giữa việc thoả mãn các lợi ích của toàn xã hội và lợi ích của từng thành viên nói riêng. Trong điều kiện đó, quy luật giá trị đóng vai quan trọng trong việc làm phong phú thêm nội sung kinh tế của các mối quan hệ giữa xã hội( mà nhà nước là người đại diện cho các lợi ích của nó) với tập thể lao động( các đơn vị kinh doanh), giữa các tập thể lao động với nhau cũng như tập thể với từng người lao động. Quy luật giá trị đã tạo cho chủ nghĩa xã hội có các công cụ kinh tế quan trọng để thực hiện, củng cố và phát triển sự xã hội hoá sản xuất trên thực tế. Sự xã hội hoá trên thực tế( khác với việc xác lập chế độ công hữu về mặt pháp lý) có nghĩa là sự tác động lẫn nhau một cách chặt chẽ và hợp lý, giữa các đơn vị kinh tế với nhau và giữa các đơn vị kinh tế ấy với các trung tâm kinh tế của đất nước, hợp tác sản xuất toàn dân, tạo cơ sở cho những người tham gia sản xuất hoạt động theo một phương hướng thống nhất và bảo đảm kết hợp tối ưu các lợi ích của xã hội, tập thể và của mỗi người lao động. Nói cách khác, nếu tuân theo quy luật giá trị vận dụng các phương pháp và tiêu chuẩn trên cơ sở quy luật đó trong việc tính toán hao phí lao động xã hội cần thiết, chúng ta có thể định hướng các kế hoạch kinh tế quốc dân, nhằm giải quyết nhiệm vụ nâng cao hiệu quả của nền sản xuất xã hội nói chung và của từng cơ sở của nền sản xuất đó.
Chức năng kích thích xã hội. Chức năng này liên quan chặt chẽ đến chức năng tổ chức xã hội. Quy luật giá trị phục vụ quá trình phân phối nhằm tính đến khối lượng và chất lượng hoạt động kinh tế và kết quả cuối cùng của những đơn vị tham gia vào nền sản xuất xã hội. Bằng việc xác định tiêu chuẩn phân phối, dựa trên sự tính toán mức đóng góp lao động của các tập thể và các thành viên của xã hội, đồng thời dựa trên tính chất cùng có lợi khi trao đổi hoạt động giữa các đơn vị kinh doanh,quy luật giá trị đã " góp phần " vào việc thực hiện sự nguyên tắc công bằng xã hội, kích thích những sự nỗ lực nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và chất lượng công tác. Nói cách khác, nếu tuân theo quy luật giá trị, vận dụng các phương pháp và tiêu chuẩn dựa trên cơ sở quy luật đó trong việc tính toán hao phí lao động xã hội cần thiết, chúng ta có thể định hướng các kế hoạch kinh tế quốc dân,nhằm giải quyết nhiệm vụ nâng cao hiệu quả kinh tế của nền sản xuất đó, làm cho tính kế hoạch toàn dân có một ý nghĩa kinh tế. Tuy nhiên,không nên giải thích điều đó tách rời các mục tiêu xã hội. Mặc dù, hiện tại vẫn tồn tại những mâu thuẫn giữa tính hiệu quả kinh tế và tính hiệu quả xã hội, nhưng điều quan trọng cần thấy dưới chủ nghĩa xã hội những tính hiệu quả đó có sự thống nhất về nguyên tắc. Sự thống nhất ấy xuất phát từ thực tế là trong điều kiện chế độ công hữu, hiệu quả kinh tế tăng lên sẽ làm tăng hiệu quả xã hội của sản xuất, mà hiệu quả này phụ thuộc vào các tiêu chuẩn xã hội, và thực hiện các mục tiêu xã hội ưu tiên.
Chức năng bảo đảm xã hội. Quy luật giá trị thực hiện chức năng này không được rõ ràng nhưng dù sao nó cũng quan trọng. Việc tuân thủ các yêu cầu của quy luật này( trong sự tác động qua lại chặt chẽ với quy luật phát triển có kế hoạch, cân đối) sẽ định hướng nền sản xuất xã hội chủ nghĩa vào tiêu chuẩn hiệu quả kinh tế. Vì vậy việc đó chính là một điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất, củng cố các “ cơ sở của các nguồn ” nhằm mở rộng sự hoạt động của quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa xã hội. Đây chính là “ sự đóng góp ” chủ yếu của quy luật giá trị trong việc thực hiện chức năng bản đảm xã hội của các quan hệ xã hội chủ nghĩa. Do đòi hỏi của quy luật giá trị nên sự ngang giá trong trao đổi các hoạt động phù hợp với hao phí lao động xã hội cần thiết là cái bảo đảm xã hội cho những xí nghiệp làm ăn tốt, chống lại việc phân phối lại một cách không căn cứ nguồn vốn do họ làm ra. Sự “ cắt xén ” hoạt động của quy luật giá trị có một ý nghĩa quan trọng trong điều kiện hình thành một cơ chế kinh tế mới và “ phục vụ ” việc tuân thủ sự công bằng xã hội chủ nghĩa. Quy luật giá trị tạo cho xã hội những đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ để đạt tới những mục tiêu kế hoạch. Mặt khác, quy luật giá trị không phải là công cụ điều tiết chủ yếu của nền sản xuất xã hội chủ nghĩa. Vai trò điều tiết đó là của quy luật kinh tế cơ bản. Hơn nữa chức năng điều tiết của quy luật kinh tế cơ bản được thực hiện trước hết thông qua cơ chế của quy luật phát triển có kế hoạch, cân đối. Tác động điều tiết có tính chất quyết định đối với nền kinh tế có ý nghĩa là đề ra các mục tiêu chủ yếu cho sự phát triển kinh tế, trước hết là xác định phương hướng xã hội của nền kinh tế đó. Yêu cầu của quy luật giá trị “ tham gia ” vào qua trình điều tiết nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cụ thể là: các phạm trù giá trị sẽ giúp cho việc kiểm nghiệm căn cứ kinh tế của các quyết định kinh tế quốc dân. Việc sử dụng các phạm trù đó không phải là hoạt động tự phát mà là hoạt động tự giác, có tổ chức và phải là một bộ phận hữu cơ của quá trình chung của công việc quản lý tập trung nền kinh tế quốc dân, bao gồm cả việc xây dựng các quy tắc, điều kiện,các đòn bẩy kích thích và phạm vi quyền tự chủ kinh doanh của xí nghiệp. Trong nền kinh tế hiện nay để đạt tốc độ tăng trong sản xuất việc nâng cao chất lượng công tác và tinh thần trách nhiệm của các cơ quan cấp trên là yếu tố cơ bản. Để đạt được điều đó thì yếu tố “ môi trường ” kinh tế quốc dân rất quan trọng, nếu môi trường tốt thì sẽ đạt hiệu quả cao và ngược lại. Ngoài ra, một mặt môi trường đó phải khắc phục những hạn chế giả tạo đối với sáng kiến của các khâu quản lý; mặt khác, nó phải bảo đảm các điều kiện cần thiết để hướng các sáng kiến ấy vào việc ưu tiên thoả mãn các lợi ích xã hội.
2.2. Thực trạng kinh tế Việt Nam:
Năm 2001 trong tình hình có nhiều khó khăn hơn dự kiến, nền kinh tế Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng cao 6.8%,( chỉ kém mức độ tăng trưởng của Trung Quốc), cao hơn mức của năm 2000. Cơ cấu kinh tế theo GDP đang chuyển dịch theo chiều hướng tích cực, giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp trong GDP( tỷ trọng công nghiệp đạt 38%, dịch vụ 39% và nông, lâm, thuỷ sản chiếm 23%; so với các con số tương ứng của năm 2000 là: 36.6%, 39.1% và 24.3%). Xét về sự đóng góp của các ngành trong việc thực hiện tốc độ tăng trưởng 6.8% GDP thì khu vực công nghiệp đóng góp quan trọng chiếm 3.7%, khu vực dịch vụ đống góp 0.6%. Sự đóng góp nổi bật của ngành công nghiệp vào tốc độ tăng trưởng và cơ cấu GDP của nền kinh tế nước ta, đánh dấu bước tiến mới về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong năm 2001.
Đối chiếu với các chỉ tiêu đề ra trong Nghị quyết của Quốc hội về nhiệm vụ năm 2001, thì còn 4 nhiệm vụ chưa đạt kế hoạch, trong đó có 2 chỉ tiêu quan trọng về kinh tế là mức tăng trưởng GDP đạt 6.8%, tuy có cao hơn năm 2000, song thấp hơn kế hoạch đề ra là 7.5%, kim ngạch xuất khẩu tuy có tăng về lượng, song do bị thua thiệt về giá khoảng 1.5 tỷ USD nên chỉ tăng 4.5%( chỉ thiêu đề ra là 16%). Mặc dù chưa thực hiện được các chỉ tiêu đề ra, song trong bối cảnh kinh tế khu vực và thế giới đang có chiều hướng xấu đi, suy giảm mạnh, có nước tăng trưởng âm, thì đạt được kết quả như trên là điều đáng khích lệ. Giá trị sản xuất của công nghiệp cả năm tăng 14.5% so với năm 2000, khu vực kinh tế nhà nước đạt tốc độ tăng trưởng 125 là một cố gắng lớn, khu vực ngoài quốc doanh tăng 19.5% so với 18.3% của năm 2000. Sau năm thực hiện Luật Doanh nghiệp, kinh tế ngoài quốc doanh đã có bước phát triển khá sâu sắc, các sản phẩm công nghiệp, tiểu thiểu công nghiệp của khu vực này tăng nhanh chủ yếu là thuỷ sản chế biến, chè, rau quả xuất khẩu, đồ gỗ thủ công mỹ nghệ, dệt may, cơ khí... Công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục phát triển và tăng trưởng ổn định với tốc độ tăng 13.8%. Năm 2001, tình hình kinh tế xã hội tiếp tục ổn định, nước ta được công nhận là nước có môi trường đầu tư ổn định nhất khu vực sau sự kiện 11/9, đó là những thuận lợi cơ bản mà ta phải tận dụng, phát huy. Những thành tựu của năm 2001 đã tạo ra thế và lực mới để nước ta bước vào năm 2002 và thực hiện các mục tiêu của kế hoạch 5 năm 2001 - 2005.
Tuy nhiên, đặc điểm nổi bật của nền kinh tế nước ta nói chung là chất lượng tăng trưởng, hiệu quả, sức mạnh cạnh tranh của các sản phẩm, doanh nghiệp và của nền kinh tế còn thấp. Tình trạng phổ biến là sản xuất còn mang tính tự phát, chưa bám sát nhu cầu thị trường, nhiều sản phẩm làm ra có chất lượng thấp, giá thành cao nên giá trị gia tăng thấp, khả năng tiêu thụ sản phẩm khó khăn, thậm chí nhiều sản phẩm cung vượt quá cầu, hàng tồn kho lớn. Năng lực cạnh tranh hàng hoá, dịch vụ của nước ta nhìn chung còn thấp do thiết bị công nghệ của nhiều doanh nghiệp còn yếu kém về quản lý, hạn chế về môi trường đầu tư kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước chưa cao, tỷ lệ số doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ liên tục còn nhiều, thực trạng tài chính của nhiều danh nghiệp thực sự đáng lo ngại: nhìn chung thiếu vốn, nợ nần kéo dài, tổng số nợ phải thu của doanh nghiệp chiếm 24% tổng doanh thu, nợ phải trả chiếm 133% tổng số vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp không xác định tự lực phấn đấu vươn lên mà còn trông chờ vào sự hỗ trợ, bảo trợ của Nhà nước, cũng chưa tích cực chuẩn bị theo yêu cầu tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Khu vực kinh tế tư nhân nhìn chung còn nhỏ bé, phân tán, trình độ công nghệ, quản lý và tay nghề của người lao động còn nhiều hạn chế. Bên cạnh khó khăn chung của các doanh nghiệp về thị trường tiêu thụ, sức cạnh tranh, kinh tế tư nhân nói chung có nhiều khó khăn, vướng mắc hơn về vốn hoạt động, về mặt bằng sản xuất, kinh doanh, về cung cấp thông tin, xúc tiến thương mại, môi trường pháp lý, môi trường tâm lý xã hội, còn khó khăn trong việc thụ hưởng các chính sách hỗ trợ của Nhà nước.
Thực trạng cho thấy nền kinh tế nước ta tuy đạt được nhiều thành tựu nhưng cung còn không ít khó khăn, đó là còn tồn tại nhiều yếu kém và sức cạnh tranh kém.
2.3. Những thành tựu về kinh tế và hạn chế:
2.3.1. Thành tựu về kinh tế:
Qua 10 năm đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã nhận định thành tựu có ý nghĩa to lớn là “ Nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội nhưng một số mặt còn chưa được củng cố vững chắc “. Ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, một nhận định, thành tựu có ý nghĩa rất quan trọng làm nức lòng người. Nó mở ra một thời kì mới – thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, một thời kì mà sự xác định con đường đi lên CNXH ở nước ta ngày một rõ hơn, lòng tin càng ngày càng được nâng cao. Dưới đây là những thành tựu về kinh tế – xã hội.
Về kinh tế: từ một nền kinh tế tăng trưởng thấp trước năm 1986, nền kinh tế nước ta đã từng bước khôi phục và phát triển ổn định với tốc độ tăng trưởng cao. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm thời kỳ 1986 - 1990 là 3.9% thời; năm 1996: 9.34%, 1997:8.8%, 1998:5.8%. Như vậy bước vào thập kỷ 90 tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta vào loại cao nhất trong khu vực.
Về cơ cấu kinh tế bước chuyển đổi theo hướng tiến bộ. Tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22.7% năm 1990 đã tăng lên 30.3% năm 1995; tỷ trọng ngành du lịch, dịch vụ từ 38.6% năm 1990 tăng lên 42.5% năm 1995; ngành nông nghiệp từ 38.7% năm 1990 đã giảm xuống còn 27.2% năm 1995.
Sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tính đến cuối năm 1994 cơ cấu giá trị tổng sản lượng nông nghiệp là: lương thực chiếm tỷ trọng 49.4%; trồng trọt là 24.8% và chăn nuôi là 25.8%. Vấn đề lương thực về cơ bản được giải quyết tốt. Sản lượng lương thực qua các năm đều tăng: năm 1990 là 21488 ngàn tấn, năm 1991 là 21898 ngàn tấn, năm 1994 là 26200 ngàn tấn, và năm 1995 là 27500 ngàn tấn. Thắng lợi trên mặt trận nông nghiệp, nhất là lương thực có ý nghĩa rất quan trọng. Sau nhiều năm nước ta thiếu và đói đến nay đã giải quyết một cách cơ bản về lương thực, một cửa ải mà thời kỳ bao cấp không thể vượt qua được( kể cả không ít nước trên thế giới). Nước ta đến nay lương thực không những đủ ăn, dự trữ mà còn xuất khẩu sang nhiều nước khác trên thế giới và trở thành một trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới.
Trong sản xuất công nghiệp nhịp độ tăng trưởng bình quân trong 5 năm( 1991 – 1995) là 13.3%, cao hơn chỉ tiêu kế hoạch đề ra( 8 - 10%). Trong đó năm 1991 là 10.4%, năm 1992 là 15.1%, năm 1993 là 12.7%, năm 1994 là 13.5% và năm 1995 là 14.0%. Năng lực sản xuất trong một số ngành và một số sản phẩm quan trọng, mà sau thời kỳ đình đốn và suy thoái đã được phục hồi và gia tăng qua các năm nhờ đầu tư xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật về chiều rộng và chiều sâu.
Các ngành xây dựng, vận tải, thương nghiệp, du lịch và các dịch vụ khác, đều có bước phát triển khá. Mức bán lẻ hàng hoá xã hội qua các năm đều tăng: năm 1990 là 19031.2 tỷ đồng; năm 1994 là 67273.3 tỷ đồng và năm 1995 là 85245.0 tỷ đồng.
Khác với các thời kỳ trước, hoạt động khoa học – công nghệ trong những năm gần đây ngày càng gắn bó với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội và thích nghi dần với nền kinh tế thị trường. Chính sự thay đổi phương thức hoạt động này của khoa học – công nghệ đã tạo ra cách làm mới có lợi cho sự hình thành và phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong thời kỳ mới ở nước ta.
Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá. Đã khắc phục sự hẫng hụt do thị trường truyền thống giảm sút đột ngột, mở rộng giao lưu với nhiều đối tác và bạn hàng mới. Tính đến cuối năm 1995, tổng số vốn của các dự án nước ngoài khoảng 18 tỷ USD. Trong đó đến nay 1/3 số đó đã được thực hiện. Động thái phát triển nhanh và qui mô thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chủ yếu từ năm 1992 và thường tập trung nhiều ở các thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng… Các số liệu trên cho thấy lĩnh vực kinh tế và đối ngoại là một nhân tố quan trọng góp phần gìn giữ hoà bình, phá bỏ thế bị cấm vận, cải thiện và nâng cao vị thế cua nước ta trên trường quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Về tài chính và tiền tệ. Nước ta sau nhiều năm làm không đủ ăn, mấy năm gần đây đã bắt đầu có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế. Vốn đầu tư cơ bản cho toàn xã hội cho năm 1990 chiếm 15.8% trong GDP, năm 1995 đã lên tới 27.4%. Trong đó, nguồn đầu tư trong nước chiếm khoảng 16.7% trong GDP.Tình hình lạm phát ttrong những năm gần đây diễn ra theo hướng được kiềm chế. Từ nền kinh tế siêu lạm phát ở mức ba con số năm 1988, đến năm 1989 lạm phát đã được kiềm chế, đồng tiền Việt Nam từng bước được ổn định tạo điều kiện quan trọng để ổn định kinh tế vĩ mô. Chỉ số lạm phát năm 1986 là 774.7%; 1987: 373%; 1988: 223.1%;…; 1995: 12.7%; 1996: 4.5% và 1997: 3.6%.
Về cơ cấu thành phần kinh tế trong nền kinh tế hàng hoá: qua 10 năm đổi mới quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất và nền kinh tế hàng hoá. Khu vực kinh tế nhà nước( hiểu theo nghĩa rộng). Từng bước đang được củng cố và phát huy vai trò chủ đạo đối với các thành phần kinh tế khác. Các hình thức hợp tác, liên doanh với nước ngoài hình thành trong tính đa dạng của chính sách nền kinh tế nhiều thành phần.
Về mặt xã hội: qua 10 năm đổi mới, lần đầu tiên nước ta hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu kinh tế chủ yếu của kế hoạch 5 năm( 1991 – 1995). Từ những thành tựu kinh tế đã tạo ra một số chuyển biến tốt về xã hội, tạo nên sự gắn bó giữa mục tiêu kinh tế với mục tiêu xã hội. Chính nó đã góp phần đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng. Dưới đây là những thành tựu về mặt xã hội:
Đời sống vật chất của phần lớn nhân dân đã được cải thiện, cụ thể là:
Số hộ giàu và trung bình tăng, tỷ lệ hộ nghèo giảm. Mức sống của đa số nhân dân được nâng lên một bước, th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35455.doc