MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
1.Tính cấp thiết của đề tài : 1
2.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 2
3.Bố cục đề tài 2
NỘI DUNG 3
CHƯƠNG 1:LÍ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CNH-HĐH 4
1.1.Tính tất yếu khách quan về vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH 4
1.1.1.Nội dung CNH-HĐH ở nước ta hiện nay: 4
1.1.2.Tính tất yếu khách quan về vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH 6
1.2Vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH 9
1.3 Kinh nghiệm của một số nước về vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH 15
CHƯƠNG 2:THỰC TRẠNG VỀ VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CNH-HĐH TRONG THỜI GIAN QUA VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CNH-HĐH Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI 18
2.1 Thực trạng về vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH18
2.1.1 Nhà nước thực hiện các các chính sách về kinh tế và xã hội đối với CNH-HĐH: 18
2.1.2 Nhà nước đưa ra những công cụ của mình để CNH-HĐH theo đúng định hướng XHCN 21
2.1.3 Những thuận lợi và khó khăn của nhà nước đối với CNH-HĐH: 24
2.2 Một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH ở nước ta trong thời gian tới: 25
KẾT LUẬN 28
31 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1486 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng về vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH trong thời gian qua và một số giải pháp nhằm tăng cường vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hoá cao, dựa trên trình độ khoa học công nghệ hiện đại, được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân”.
Một nước phát triển về kinh tế vẫn có thể là một nước kém phát triển về tinh thần, về trí tuệ và về xúc cảm như nhiều trường hợp ở phương Tây cho thấy. Nhưng không thể chối cãi đó là một nấc thang tất yếu trên con đường phát triển kinh tế và không chỉ kinh tế của các dân tộc. Công nghiệp hoá tạo ra nền kinh tế hiện đại với những ưu thế nổi bật: năng suất lao động cao, cơ cấu sản phẩm đa dạng, công ăn việc làm phong phú, thu nhập quốc dân chung và tính theo đầu người cao hơn nhiều so với một nền kinh tế chưa công nghiệp hoá. Sự thật chính là ở những “nước công nghiệp mới”(NIC), là những nước đã thành công ở những mức độ khác nhau về công nghiệp hoá, và vị trí của chúng trong nền kinh tế thế giới đã được khẳng định vững chắc.Vì vây để tránh mắc phai những sai lầm như một số nước phương Tây đI trước đã mắc thì vai trò của nhà nước trongCNH-HĐH là tất yếu để chung ta co sự hoà nhập nhưng không bị hoà tan,không bị mất đI bản sắc dân tộc Việt Nam đã có từ ngàn xưa .
Trong bối cảnh thực hiện CNH-HĐH theo cơ chế thị trường , vai rò của nhà nước hết sức quan trọng trong việc xây dựng những phương án hợp lý về việc sử dụng các nguồn lực lao động kết hợp với nguồn lực tự nhiên .Chiến lược CNH trong từng giai đoạn phải sử dụng sự kết hợp những nguồn lực này trong sự phân vùng kinh tế ,với những chính sách bảo hộ có hiệu lực về mặt pháp lý đối với tài nguyên.Cơ cấu công-nông-lâm nghiệp phải được thực hiện theo nhiều cấp độ mới tạo ra sự kết hợp thống nhất cân đối hài hoà giữa hiệu quả kinh tế chính trị với hiệu quả sinh thái,xã hội
Kinh nghiệm của các nước công nghiệp mới châu á ( cũng như của Nhật Bản trước đây), cho thấy: dù có phát triển với tốc độ nhanh đến mức nào đi nữa, thì các nước đó vẫn phải đi từ trình độ này sang trình độ khác, không có chuyện “đốt cháy giai đoạn”. ở những nước này, quá trình phát triển từ trình độ kinh tế nông nghiệp sang trình độ kinh tế công nghiệp và đặt chân lên trình độ kinh tế hậu công nghiệp là mất 20- 30 năm. Con đường phát triển như vậy ở Tây Âu phải mất 200 năm và ở Nhật Bản cũng phải mất khoảng 100 năm.
Như vậy rõ ràng rằng: công nghiệp hoá đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, vẫn là một tất yếu lịch sử. Vấn đề đặt ra lúc này không phải ở chỗ có cần công nghiệp hoá hay không. Vấn đề là công nghiệp hoá trong hoàn cảnh thế giới hiện nay, khi nền văn minh công nghiệp dần dần nhường chỗ cho nền văn minh hậu công nghiệp, đòi hỏi những nội dung và những bước đi thích hợp.
1.2Vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH
Quản lý Nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá mang tính hệ thống, cái này là điều kiện của cái kia và ngược lại. Các chính sách kinh tế - xã hội phải là công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết và chỉ huy nền kinh tế nước ta. Tất cả các chính sách đều phải nhằm thực hiện những mục tiêu quan trọng của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Trong quá trình đổi mới , Đảng ta luôn xác định nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế,nhiệm vụ then chốt là xây dựng đảng . Đó là quan điểm nhất quán của Đảng và đã được thể hiện trong văn kiện của các kì đại hội . Báo cáo chính trị tại đại hội IX đã dành riêng một phần để nói về Phát triển kinh tế –xã hội bằng con đường CNH-HĐH:
“Đẩy mạnh CNH-HĐH , xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ ,đưa nước ta trở thành một nước cộng nghịêp” có thể nói đây là tư tưởng chiến lược hết sức quan trọng ,là mục tiêu cơ bản của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay ,bởi vì muốn tiến lên CNXH từ một nước nông nghiệp không kinh qua chế độ tư bản chủ nghĩa , chúng ta phải tiến hành CNH để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH .Nhưng CNH ở nước ta lại được tiến hành trong bối cảnh thế giới đã có nhiều thay đổi,đặc biệt là sự phát triển rất nhanh về cả qui mô và chất lượng của lực lượng sản xuất trên nền tảng của một cuộc cách mạng mới về khoa học và công nghệ . Do đó con đường CNH-HĐH của nước ta đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn những mô hình và bước đi thật thích hợp, phát huy cao nhất những lợi thế của đất nước, trước hết là nguồn lực con người , phát triển mạnh giáo dục và đào tạo , khoa học công nghệ , tận dụng mọi khả năng tranh thủ đi tắt đón đầu để sớm đạt trình độ tiên tiến,hiện đại ở những nghành , những khâu , những lĩnh vực có điều kiện , rút ngắn thời gian CNH, từng bước phát triển kinh tế , thu hẹp khoảng cách với sự phát triển chung của thế giới.
“Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất , đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo địng hướng XHCN” Đại hội VI , Đảng ta đã rút ra bài học quan trọng là lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu , mà cả khi sản xuất phát triển không đồng bộ . Do đó , ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất là sự lựa chọn đúng quy luật . Muốn vậy , điều hết sức quan trọng là phải tìm cách khơi dậy mọi tiềm lực để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, nhưng đồng thời phải từng bước và kịp thời điều chỉnh , cải biến các yếu tố của quan hệ sản xuất cho phù hợp . ở đây cần lưu ý :Một mặt , tiêu chuẩn căn bản để xem xét một hình thức cụ thể nào đó của quan hệ sản xuât có phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất hay không là việc nó tác động đến đâu trong việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển . Mặt khác , trong nền kinh tế thị trường ở nước ta , việc xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất phải đảm bảo được định hướng XHCN, nghĩa là , cùng với việc thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển , nó cũng phải góp phần đắc lực vào việc cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công bằng xã hội , tạo cơ hội đồng đều cho mọi người lao động và các tầng lớp dân cư , các cộng đồng dân tộc trong việc thụ hưởng các thành quả của sự phát triển , cũng như tham gia đóng góp vào công cuộc phát triển của đất nước.
“phát huy cao độ nội lực , đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững “ Quá trình khu vực hoá toàn cầu hoá đang làm cho các nước , nhất là các nước chậm phát triển và đang phát triển đứng trước nhiều thời cơ mới đi đôi với nhiều thách thức mới , mà cách ứng sử hợp lý nhất là không tự cô lập mình và đứng ngoài quá trình ấy. Thực tế cho thấy , nước nào có chiến lược kinh tế đối ngoại thích hợp , sẽ vừa tranh thủ được ngoại lực vừa phát huy được nội lực để phát triển nhanh và bền vững.Ngay từ những năm đầu của chính quyền cách mạng ,mặc dù lúc đó có viện trợ và vay vốn bên ngoài chủ yếu từ các nước trong XHCN , Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn :sự giúp đỡ từ bên ngoài chỉ như thêm vốn cho ta .’ta phải khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta , phát triển khả năng của ta . Song nhân dân và cán bộ ta tuyệt đối không vì bạn ta giúp nhiều mà đâm ra ỷ lại’. Hiểu một cách thấu đáo là có phát huy cao độ nội lực mới sử dụng hiệu quả ngoại lực , kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững
“Tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá , từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân đân , thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội bảo vệ và cải thiện môi trường” Chúng ta đã lựa chọn mô hình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN , gắn liền tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá , giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc , thực hiện ngay trong từng bước sự tiến bộ và công bằng xã hội , khuyến khích làm giầu hợp pháp đi đôi với giảm nghèo , từng bước cải thiện đời sống vật chất tinh thần của nhân đân , chăm lo đúng mức việc bảo vệ và cải thiện môi trường tự nhiên , cân bằng sinh thái .Tăng trưởng kinh tế phải đi liền với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội , kinh tế tăng trưởng đến đâu mức sống của người lao động được tăng đến đó , người lao động phấn khởi , nhiệt tình đẩy mạnh sản xuất kinh doanh hơn nửa tạo ra thêm nhiều của cải vật chất cho xã hội , bảo đảm nền kinh tế phát triển bền vững trên cả ba mặt :kinh tế , xã hội , môi trường.
“Kết hợp phát triển kinh tế , xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh” .Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế – xã hội và tăng cường quốc phòng an ninh là một chủ chương lớn,nhất quán và xuyên suốt trong mọi hoạt động kinh tế xã hội . Phải có tiềm lực kinh tế mới tạo được nguồn lực và cơ sở vật chất – kĩ thuật cho việc tăng cường quốc phòng an ninh ; đồng thời quốc phòng an ninh mạnh sẽ tạo ra môi trường ổn định cho phát triển kinh tế nhanh và bền vững.
Trên thực tế, tất cả những nước công nghiệp mới ở châu á đều thành công trước hết là ở khâu hoạch định chiến lược. Công việc này đòi hỏi một sự tập trung trí tuệ lớn của nhiều chuyên gia thuộc các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt của những “công trình sự” kinh tế có trình độ cao. Như vậy, ở những mức độ quan trọng, một Nhà nước hùng mạnh, tập trung là hết sức cần thiết cho công nghiệp hoá, nhất là trong giai đoạn đầu của nó. Điều đó có thể hiểu là một người thuyền trưởng tài giỏi, có trách nhiệm tập trung, không lơ đễnh trong quá trình điều khiển con tàu của mình , đồng thời có một lực lượng những thuỷ thủ giỏi rất thông minh, nhanh nhẹn thì chắc chắn sẽ đến đích an toàn và nhanh hơn những con tàu khác. Vì khi đó mọi yếu tố nguy hiểm cho con tàu đều được quan sát và dự phòng kỹ càng, bên cạnh đó cũng có thể tận dụng những điều kiện thuận lợi giúp con tàu kết thúc lộ trình một cách bình an.
Trong hoàn cảnh thế giới hiện nay, yếu tố thời gian có ý nghĩa quyết định. Vậy nên sự tập trung trí tuệ được thực hiện càng sớm, thì thành công càng được đảm bảo. Chưa bao giờ tốc độ lại được coi trọng như hiện nay: “thế giới sẽ được chia thành những nước nhanh hơn và những nước chậm hơn. Mỗi đơn vị thời gian được cứu thoát khỏi sự chậm trễ có giá trị hơn một đơn vị thời gian trước đây”. Do đó những con tàu công nghiệp hoá này cần phải tận dụng triệt để thời cơ nếu có và không ngừng nỗ lực làm việc để đạt được mục đích của mình nhanh nhất, tránh bị tụt xa so với những con tàu đã đi trước
Từ những lý luận trên, ta có thể thấy được vai trò của Nhà nước là rất quan trọng và quyết định đến thành bại của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi nước.
Các bài học của các nước đi trước cho thấy: quá trình công nghiệp hoá ở các nước về khách quan gắn liền với quá trình xây dựng xã hội công dân và Nhà nước pháp quyền ở đó. Cũng tức là gắn liền với quá trình dân chủ hoá từng bước từ trên xuống dưới và từ dưới lên ở đó. Đó chính là kinh nghiệm của các nước Đông á, kể từ Nhật Bản trở đi: họ đều tiến hành công nghiệp hoá thành công là do đáp ứng được những nhu cầu ngày càng tăng của người dân, khơi được tính chủ động của mỗi thành viên xã hội với tư cách công dân của họ. Qua đó ta thấy được sự hình thành của xã hội công dân và Nhà nước pháp quyền, cơ sở của chế độ dân chủ, là điều kiện kiên quyết để các nước này tiến hành công nghiệp hoá thành công.
Trong quản nhà nước , sản xuất phải gắn liền với thực hành tiết kiệm , chống tham ô lãng phí , quan liêu . Sản xuất phải có kế hoạch , có phân công để làm ra nhiều sản phẩm tốt .Nhưng làm ra sản phẩm mà xa sỉ, hoang phí bừa bãi thì như nước rót vào tùng thủng đáy . Vì vậy sản xất phải đi đôi với tiết kiệm , như hai chân của côn người . Chủ Tịch Hồ CHí Minh nhắc lại lời của Stalin về bọn tham ô như’những con lợn sục vào vườn rau của nhà nướcvà ngoạm một cách trơ trẽn’.Vai trò của nhà nước là phải thấy được điều đó . Phát biểu trong cuộc họp cuối năm 1966 của hội đồng chính phủ, chủ tich Hồ Chí Minh chỉ rõ:’ một việc nữa rất quan trọng mà làm chưa tốt là công tác lưu thông phân phối . Có khi vật tư hàng hoá không thiếu , mà phân phối không đúng , thì gây ra căng thẳng không cần thiết . Trong công tác lưu thông phân phối , có hai quan điểm quan trọng phải luôn nhớ:
Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng
Không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên’
Rõ ràng là vai trò quản lý của nhà nước - đặc biệt là kinh tế tài chính là rất lớn . Hồ Chủ tịch nhắc lại lời Lênin :’kinh tế và tài chính phải do nhà nước thiết thực quản lý , giám đốc thống kê và điều chỉnh , cần qui định cách phân phối sức lao động cho đúng đắn , quí trọng sức dân , tuyệt đồi không lãng phí sức dân , cái gì cũng phải tiết kiệm’.
ở nước ta, quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước không tách rời sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước phải làm cho giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và nhân dân lao động nhận thức một cách đầy đủ sự cần thiết khách quan phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế. Đồng thời cũng chỉ có Đảng mới có đủ năng lực pháp lý cũng như đủ tư cách trong sạch để có được sự ủng hộ, sự tin tưởng của nhân dân để tiến hành chỉ cho toàn dân nhận biết được những thách thức gay gắt của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá để thấy quyết tâm chiến lược của Đảng, của toàn dân ta. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành phần kinh tế nhằm khai thác sức mạnh tổng hợp các nguồn lực của các miền, các vùng, các địa phương và của mọi tầng lớp dân cư. Đó chính là sức mạnh, là ý chí, là nguyện vọng của toàn Đảng và toàn dân cho sự nghiệp tiến tới một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế.
1.3 Kinh nghiệm của một số nước về vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH
Khác với các nước CNH cao ở phương Tây , các nước trong khu vực châu á- TháI Bình Dương thường xuyên nhấn mạnh vào hoạt động sản xuất , chế tạo hơn là vào nghiên cứu cơ bản và triển khai thực nghiệm . Vì vậy các nước CNH châu á có những hạn chế nhất định về năng lực nghiên cứu và phát triển. Tuy nhiên , trong qua trình liên doanh , cũng như với những nỗ lực đào tạo nghiên cứu khoa học , kỹ sư và công nhân lành nghề , nhân lực các nước này đã tăng lên cả về số lượng và chất lượng .
Một số nước châu á đã quan tâm nhiều đến việc xây dựng các chính sách và biện pháp phát triển nguồn nhân lực , đặc biệt là khuyến khích kiều dân ở nước ngoài tham gia xây dựng vào nền kinh tế trong nước
Tại Singapore, do mức tiền lương trong nước khá cao (chỉ đứng sau Nhật Bản ở châu á) nên hiện tượng di chuyển nhân lực ra ngoài biên giới là rất ít , trong khi quá trình ngược lại rất mạnh vì lương cao và môi trường lao động thuận lợi , nhưng quan trọng hơn cả là do chính sách khuyến khích của nhà nước .Cục khoa học –công nghệ quốc gia cùng với các cơ quan trung ương khác đã có chính sách khuyến khích các tài năng nghiên cứu và phát triển , người nước ngoài đến làm việc và và sinh sống ở Singapore .Những người này mang theo những kinh nghiệm từ nước ngoài tham gia tích cực vào hoạt động nghiên cứu và đào tạo các tài năng bản xứ.
Tại Trung Quốc , để khuyến khích luồng trí tuệ và tài chính của cộng đồng người Hoa từ nước ngoài , ngoài những chính sách lớn , Nhà nước đã quy định nhiều điều cụ thể , chẳng hạn:Hoa kiều ở nước ngoài khi về nước không phải xin thị thực nhập xuất cảnh . Chính phủ chủ trương ‘khuyến khích người ra đi hợp pháp , hoan nghênh người trở về, đi và về tự do’.Đã thực hiện chế độ một giá dich vụ cho hoa kiều như người trong nước tham quan , giải trí … có thể nói ,Trung Quốc đã thực hiện khá thành công chính sách thu phục nhân tâm trước , khai thác sử dụng sau.
Trong trường hợp Đài Loan, tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt trong các chủ trương, chính sách là chính phủ chủ động đứng ra chăm lo bồi dưỡng , củng cố tiềm lực cộng đồng ,kiều dân và sau đó khai thác những thế mạnh của họ phục vụ cho công cuộc phát triển đất nước . Đài Loan đã bỏ ra công sức và tiền của rất nhiều cho việc tìm kiếm các nhà khoa học giỏi , tiếp xúc ,vận động và ‘kéo tay họ về’. chính phủ Đài Loan xác định mục tiêu đầu tiên là phát triển các nghành công nghệ mới thông qua tập trung nghiên cứu triển khai và có trương trình chuyển giao công nghệ tới các thành phần kinh tế tư nhân .Mục tiêu thứ hai là xác định và thành lập các nghành công nghiệp chiến lược được đánh giá là sẽ mang lại khả năng cạnh tranh cho Đài Loan trên trường quốc tế.
ấn Độ có khoảng trên một triệu người làm công tác khoa học ở nước ngoài . Riêng số nhà khoa học phuc vụ cho công nghệ cao là 25000 người . Chính phủ chủ trương vận động kéo một số ấn kiều là những nhà đầu tư lớn, nhà khoa học đầu ngành nổi tiếng về đầu tư và xây dựng các nghành khoa học mũi nhọn . Cố tổng thống Nêru đã mời nhà khoa học nguyên tử Bhabha(ở Mĩ ) về xây dựng và và phát triển trung tâm nghiên cứu năng lượng nguyên tử Kỹ nghệ hàng không , vận tải biển , hoá dầu, phần mềm vi tính đều do các nhà khoa học ấn kiều về nước xây dựng .
Chương 2:thực trạng về vai trò của nhà nước đối với cnh-hđh trong thời gian qua và một số giảI pháp nhằm tăng cường vai trò của nhà nước đối với cnh-hđh ở nước ta trong thời gian tới
2.1 Thực trạng về vai trò của nhà nước đối với CNH-HĐH
2.1.1 Nhà nước thực hiện các các chính sách về kinh tế và xã hội đối với CNH-HĐH:
Một trong những nguồn nhân lực quan trọng nhất của đất nước ta hiện nay là đội ngũ trí thức . Theo thống kê năm 1995 của bộ khoa học công nghệ và môi trường cho thấy , so với một số nước có thu nhập thấp ở mức ngang bằng thì lực lượng lao động có trình độ chuyên môn , nghiệp vụ được đào tạo ở nước ta là tương đối lớn. Lực lượng này bao gồm khoảng 9300 tiến sĩ và phó tiến sĩ , 930000 người có trình độ đại hoc và cao đẳng , trên 3,5 triệu cán bộ kĩ thuật và công nhân kĩ thuật .Đội ngũ trí thức Việt Nam đã có những cống hiến to lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ ,góp phần tích cực trong công cuộc xây dựng đất nước ngày nay . Đội ngũ cán bộ khoa học mang bản sắc dân tộc :thông minh , khiêm tốn , hiếu học khả năng tiếp thu và ứng dụng công nghệ mới nhanh. Điều này được các chuyên gia nước ngoài đánh giá rất cao. Nhiều công trình kĩ thuật hiện đại , phức tạp của thế giới như trong các lĩnh vực điện tử , viễn thông dầu khí hoặc lắp đặt những công trình công nghiệp lớn(thuỷ điện , nhiệt điện , xi măng..)cán bộ khoa học công nghệ cũng như công nhân nước ta đã tiếp thu và vận hành một cách nhanh tróng , có hiệu quả , thậm chí còn cải tiến ,nâng ccao.Theo đánh giá mới đay nhất , 1/3 giá trị gia tăng GDP hàng năm của nền kinh tế nước ta là do hoạt đọng của khoa học và công nghệ mang lại . Đúng như Đại hội lần thứ VIII đã đánh giá ‘hoạt động khoa học và công nghệ gắn bó hơn với nhu cầu phát triển kinh tế xã hội , thích nghi dần với kinh tế thị trường’.
Bước đầu tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật trong các ngành kinh tế quốc dân, nhất là trong công nghiệp. Vốn đầu tư vào công nghiệp luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn đầu tư cho khu vực sản xuất vật chất nói riêng và cho nền kinh tế quốc dân nói chung, vì vậy tỷ trọng công nghiệp trong thu nhập quốc dân được nâng lên: 18,2% (1960); 25,3% (1976); 28,1% (1986); 23,0% (1990); 27,9% (1992). Một số ngành, một số công trình, một số sản phẩm có tác dụng quan trọng đến phát triển chung của nền kinh tế quốc dân như điện, khai thác dầu mỏ xi măng, luyện kim đã được chú trọng đầu tư và năng lực sản xuất tăng nhanh qua các năm: Năm 1976 trong cơ cấu giá thị tổng sản lượng công nghiệp ngành điện lực chỉ chiếm 3,66%; cơ khí 9,65%; hoá chất phân bón, cao su:8,26% thì năm 1990 tỷ trọng tương ứng của các ngành đó là: 5,1%; 15,9%; 9,4%.
Thúc đẩy được quá trình thay đổi và phát triển cơ cấu kinh tế từ giản đơn, lạc hậu, trì trệ kém hiệu quả dần dần tiến tới một cơ cấu có nhiều ngành, nhiều thành phần. Lạm phát từ mức 3 con số: 1986 là 587,2%; 1987 là 416,7%; 1988 là 410,9% giảm xuống còn 2 con số: 1989 là 30%; 1990 là 52,8%. Khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và đa dạng hoá các loại hình tổ chức kinh doanh: công nghiệp quốc doanh năm 1976 chiếm 68,6% giá trị tổng sản lượng công nghiệp cả nước thì năm 1989 chiếm 57,0%, còn công nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 31,4% (1976); 43% (1989). Phát triển nhanh các ngành có lợi thế so sánh, các ngành có tác động tích cực đối với sự phát triển chung của nền kinh tế quốc dân: ngành dầu khí có sự phát triển vượt bậc; ngành than bước vào thị trường thế giới với khối lượng xuất khẩu vượt 1,6 triệu tấn; ngành sản xuất điện phát triển mạnh; ngành dệt và may phát triển khá phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu; công nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm đã có bước tiến mới góp phần đưa sản lượng gạo xuất khẩu đạt 2 triệu tấn.
Thế nhưng thực chất đội ngũ cán bộ trí thức Việt nam , đặc biệt cán bộ trí thực bậc cao đang là vấn đề cần quan tâm.
+Thứ nhất , sự già hoá của đội ngũ trí thức. Trong các viện và trung tâm khoa học, tuổi bình quân tiến sĩ là 52,8;phó tiến sĩ là 48,1;giáo sư 59,5;cấp viện trưởng là 55, cấp viện phó là 50. như vậy đến năm 200 , hơn 80%số người có học hàm ,học vị sẽ đến tuổi về hưu. Từ đó gây nên tình trạng hẫng hụt cán bộ khoa học kế cận .Với tình trạng này, từ sau năm 200 sự thiếu hụt của nguồn lực cao cấp là một thực trạng đáng báo động.
+Thứ hai ,việc đầu tư cho khoa học và công nghệ cũng như giáo dục đào tạo chưa đủ để phát triển nguồn nhân lực .Chúng ta muốn nhanh tróng trở thành một nước công nghệp , muốn hôi nhập với thế giới phát triển , giáo dục đào tạo nguồn nhân lực , nhân tài phải luôn được coi là quốc sách hàng đầu . Đảng và chính phủ ta đã có những cố gắng lớn tăng nguồn đầu tư tài chính cho giáo dục , đào tạo .Tỉ trọng ngân sách nhà nước chi cho GD -ĐT tăng hàng năm và tăng nhanh trong những năm gần đây , từ 5,83% năm 1986 với mức chi 120 tỉ đồng , đến năm 1990 tăng lên 8,9%với mức chi là 9186 tỉ, và năm 1996 là 70000 tỉ . Tuy vậy tỉ lệ này còn thấp so với các nước trên thế giới và trong khu vực .
+Thứ ba,cơ cấu nguồn nhân lực cuă nước ta chưa hợp lí 1 đại hoc/1,6 trung học chuyên nghiêp,/3 công nhân(ở các nước trong khu vực tỉ lệ này là 1/4/10)tỉ lệ lao đọng đã qua đào tạo ở nước ta mới chỉ đạt 10%so với tổng số lao động là quá thấp.
+Thứ tư, hiện nay hiện tượng chảy máu chất xám đã và đang xảy ra ngay trong đội ngũ cán bộ trí thức. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, một bộ phận cán bộ khoa học và công nghệ không còn hào hứng với công việc của mình , xin được chuyển sang những ngành không phải được đào tạo, phần lớn là những người trẻ khoẻ(dưới 45 tuổi)và có năng lực
Trong những năm đầu của quá trình đổi mới công nghiệp hoá đã mang sắc thái mới, đã có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung và bước đầu đồng bộ hoá, cụ thể hoá bằng cơ chế và chính sách. Do vậy công nghiệp hoá đã được tiến hành phù hợp hơn với hoàn cảnh quốc tế và điều kiện, khả năng trong nước, các tiềm năng, nguồn lực của đất nước bước đầu được khơi dậy, kinh tế phát triển thực chất hơn.
2.1.2 Nhà nước đưa ra những công cụ của mình để CNH-HĐH theo đúng định hướng XHCN
CNH-HĐH nền kinh tế là một xu hướng phát triển tất yếu .Kinh nghiệm và thực tiễn của những nước có nền kinh tế phát triển đã chỉ ra rằng ,quá trình CNH-HĐH nền kinh tế đòi hỏi phải có những tiền đề và điều kiện nhất định về vốn ,khoa học-công nghệ, con người và sự quản lý của nhà nước . Do những đặc điểm và điều kiện của nền kinh tế Việt Nam , quá trrình CNH_HĐH gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng ngày càng hợp lý hơn. Chiến lược đó đối với Việt Nam hiện nay là tập trung nỗ lực vào phát triển những ngành cần ít vốn đầu tư , thu hút được nhiều lao động , có khả năng xâm nhập vào thị trường khu vực và quốc tế .Muốn vậy nhà nước phải đề ra một số chính sách kinh tế vĩ mô nhằm phát triển nền kinh tế theo hướng CNH-HĐH:
-Chính sách thị trường và cơ chế thị trường : Từng bước đổi mới hệ thống tín dụng ngân hàng , đa dạng hoá các hình thức huy động tiền nhàn dỗi trong xã hội với lãI suất linh hoạt theo nguyên tắc thương mại.Xúc tiến thành lập thị trường chứng khoán ở Việt Nam , trước hêt là ở các thành phố lớn Hà Nội ,thành phố Hồ Chí Minh.Khai thác tối đa các tiềm lực phát triển kinh tế của đất nước , có sự hỗ trợ thoả đáng về mọi mặt để các nhà sản xuất trong nước đủ sức cạnh tranh trên thị trường khu vực và quốc tế.Mở rộng thị trường xuất khẩu , khai thác lợi thế so sánh, khuyến khích các doanh nghiệp liên kết trong sản xuất và xuất khẩu.Chính phủ cần chủ động và sẵn sàng can thiệp vào thị trương xuất khẩu bằng các công cụ kinh tế , quyền cấp giấy phép nhằm tăng trưởng xuất khẩu , nâng cao hiệu quả kinh tế trong nước.Thực hiện đồng bộ chính sách khuyến khích các nhà kinh doanh trong nước bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất tham gia xuất nhập khẩu .
-Đổi mới chính sách tài chính tiền tệ :Tăng cường, củng cố tài chính quốc gia thông qua chính sách thuế và thu chi ngân sách hợp lý.Chính sách thuế của nhà nước ta chưa có sự phân biệt rõ ràng đối với sản xuất cho xuất khẩu và sản xuất cho tiêu dùng trong nước . Vì vậy , việc xây dựng biểu thuế ưu tiên cho sản xuất xuất khẩu là một việc làm hết sức cần thiết có ý nghĩa quan trọng hiện nay. Đối với việc nhập khẩu , cần có sự phân biệt giữa nhập phuc vụ sản xuất và phục vụ tiêu dùng nội địa.Nhà nước đang từng bước thay thế chế độ phân phối cô-ta thành chế độ thuế quan để điều tiết cơ cấu xuất nhập khẩuvà hạn chế những tiêu cực trong việc cấp cô-ta trong xuất nhập khẩu;Tăng cường tài chính doanh nghiệp theo hướng khuyến khích và nâng cao khả năng tự tích luỹ của các đơn vị cơ sở ,định hướng bằng những chính sách kinh tế cụ thể
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34623.doc