MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ODA 3
I) Nguồn vốn ODA. 3
1) Khái niệm ODA 3
2) Đặc điểm của ODA 4
3) Mục đích của ODA 7
4) Thu hút và giải ngân vốn ODA 8
II) Vai trò của vốn ODA đối với nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam 10
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ GIẢI NGÂN VỐN ODA TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN 13
I) Tình hình thu hút và giải ngân vốn ODA vào ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam trong thời gian qua. 13
II) Tình hình giải ngân vốn ODA vào nông nghiệp và phát triển nông thôn 17
III) Một số nguyên nhân dẫn đến thành công, hạn chế trong thu hút và giải ngân vốn ODA trong nông nghiệp và phát triển nông thôn thời gian qua. 21
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ GIẢI NGÂN VỐN ODA TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN 24
I) Một số giải pháp về cơ chế chính sách 24
II) Một số giải pháp trong vận động đàm phán, ký kết điều ước quốc tế khung về ODA cho nông nghiệp và phát triển nông thôn 25
III) Một số giải pháp tăng tốc độ giải ngân vốn ODA. 28
1) Hài hoà thủ tục dự án. 28
2) Giải quyết vốn đối ứng. 29
3) Cải thiện chất lượng đầu vào. 30
KẾT LUẬN 31
32 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2713 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng về việc huy động và giải ngân vốn ODA trong nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hính, thương mại quốc tế. Đẩy mạnh phát triển khu vực tư nhân, đào tạo dạy nghề và tạo việc làm cho giới trẻ.
4) Thu hút và giải ngân vốn ODA
Thu hút ODA là hoạt động bao gồm các nội dung chuẩn bị danh mục chương trình, dự án ưu tiên vận động ODA, xúc tiến vận động các nhà tài trợ xem xét cung cấp ODA và cuối cùng là đàm phán, kí kết điều ước quốc tế khung về ODA. Liên quan đến vấn đề thu hút ODA có một số khái niệm:
+ Danh mục chương trình, dự án vận động ODA: là danh mục chương trình, dự án ưu tiên đầu tư có sử dụng nguồn vốn ODA được các ngành và địa phương xây dựng đề cương trong đó nêu rõ sự cần thiết, mục tiêu, kết quả dự kiến đạt được, các hoạt động chủ yếu, thời hạn thực hiện, mức vốn ODA và vốn đối ứng, cơ chế tài chính trong nước đối với việc sử dụng vốn ODA của chương trình, dự án để trình Chính phủ xem xét đưa vào vận động ODA tại các Hội nghị Thường niên Nhóm tư vấn các Nhà tài trợ.
+ Vận động ODA: là các hoạt động xúc tiến quan hệ và đàm phán với các nhà tài trợ là các tổ chức quốc tế, các nước cung cấp ODA của các cơ quan có trách nhiệm của Chính phủ để được tiếp nhận ODA.
+ Điều ước quốc tế về ODA: là thoả thuận bằng văn bản được ký kết giữa đại diện của Nhà nước hoặc Chính phủ Việt Nam với đại diện của Nhà tài trợ về các vấn đề có liên quan đến ODA, bao gồm các Hiệp định, Nghị định thư, văn kiện chương trình, dự án và các văn bảo trao đổi giữa các bên có giá trị tương đương.
+ Điều ước quốc tế khung về ODA: là điều ước quốc tế về ODA có tính nguyên tắc, có nội dung liên quan tới chiến lược, chính sách, khung khổ hợp tác, phương hướng ưu tiên trong cung cấp và sử dụng ODA, những nguyên tắc về thể thức và kế hoạch quản lý thực hiện các chương trình, dự án ODA.
+ Điều ước quốc tế cụ thể về ODA: là điều ước quốc tế về ODA thể hiện cam kết về nội dung chương trình, dự án cụ thể được tài trợ về mục tiêu, hoạt động, kết quả đạt được, kế hoạch thực hiện, điều kiện tài trợ, vốn, cơ cấu vốn, nghĩa vụ, quyền hạn và trách nhiệm của mỗi bên cũng như các nguyên tắc, chuẩn mực cần tuân thủ trong quản lý, thực hiện chương trình, dự án và điều kiện giải ngân, điều kiện trả nợ đối với khoản vay.
Giải ngân ODA: Giải ngân ODA là hoạt động phối hợp giữa Nhà tài trợ và bên tiếp nhận ODA để (thực hiện quá trình đưa vốn vào) sử dụng/chi tiêu vốn cho chương trình, dự án đầu tư theo những điều kiện đã được hai bên kí kết. Giải ngân đối với bên tiếp nhận ODA là quá trình rút vốn và sử dụng vốn/ tiêu vốn từ Nhà tài trợ. Do đó khái niệm giải ngân ODA đề cập ở đây không chỉ đơn thuần nội dung tài chính là thủ tục giải ngân hay điều kiện giải ngân mà nó bao gồm tất cả những nội dung liên quan đến quá trình giải ngân đó là nội dung quản lý, kỹ thuật, đầu tư và tài chính của dự án.
II) Vai trò của vốn ODA đối với nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam
Đối với lĩnh vực phát triển nông nghiệp nông thôn nước ta, do đất nước còn nghèo, dân số làm nông nghiệp và sống ở nông thôn chiếm tỷ lệ lớn hơn 70%, sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu. Vì vậy thúc đẩy thu hút và giải ngân ODA trong NN&NT ngoài ý nghĩa chung còn có những ý nghĩa phục vụ cho PTNN&NT như:
Tận dụng hiệu quả điều kiện ưu đãi của nguồn vốn ODA để đầu tư các công trình công cộng mà ngoài Nhà nước và các tổ chức phi lợi nhuận ra không có thành phần kinh tế nào làm như các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng lớn thủy lợi, đường giao thông, điện nông thôn, nước sạch.
Thúc đẩy thu hút ODA sẽ tạo ra nguồn vốn khá lớn để đầu tư cho các chương trình, dự án phát triển nông nghiệp nông thôn dài hạn và cần nguồn vốn lớn như chương trình xóa đói giảm nghèo, phát triển mạng lưới điện nông thôn, nước sạch nông thôn… trong điều kiện vốn ngân sách Nhà nước còn hạn hẹp và phải bố trí cho nhiều mục tiêu và lĩnh vực.
Nông thôn là khu vực lãnh thổ có điều kiện tự nhiên phân dị phức tạp gồm nhiều vùng cảnh quan sinh thái, nhiều vùng phát triển kinh tế- xã hội có trình độ khác nhau, nhiều dân tộc. Phát triển nông nghiệp nông thôn là lĩnh vực tổng hợp, phức tạp bao gồm nhiều vấn đề phải giải quyết trên tất cả các ngành, lĩnh vực (kinh tế- xã hội- môi trường). Đây là đặc điểm rất phù hợp với các dự án ODA từ nhiều nguồn, nhiều Nhà tài trợ khác nhau nên có qui mô đầu tư, mục tiêu dự án và các dự án ưu tiên đa dạng. Do đó thúc đẩy thu hút ODA vào phát triển nông nghiệp nông thôn chính là khai thác hiệu quả không chỉ nguồn vốn mà còn là tính chất đa dạng về hình thức, qui mô, mục tiêu, phương pháp dự án từ nhiều nguồn khác nhau.
Thúc đẩy thu hút ODA vào phát triển nông nghiệp nông thôn còn thể hiện sự quan tâm của Chính phủ đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội, môi trường, cải thiện đời sống nhân dân ở nông thôn, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị. Từ đó giữ ổn định xã hội, chính trị, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Thúc đẩy các dự án giải ngân nhanh và đúng kế hoạch có tác dụng đảm bảo phục vụ kịp thời mùa vụ thu hoạch, phòng tránh thời tiết mưa bão, hạn hán xảy ra trong năm.
Giải ngân nhanh góp phần giải quyết kịp thời những vấn đề cấp thiết cho nhân dân ở các vùng nông thôn, các vùng sâu vùng xa như nước sạch, phòng chống bệnh dịch,cứu hạn, chống lũ lụt, ... mà nếu chậm trễ có thể ảnh hưởng đến an toàn tính mạng và thiệt hại nặng nề về tài sản của nhân dân.
Giải ngân nhanh các dự án ODA trong nông nghiệp nông thôn cũng có nghĩa tăng nhanh tốc độ dòng vốn, dự án đầu tư vào nông nghiệp nông thôn từ đó thúc đẩy nhanh hơn tốc độ phát triển và cải thiện đời sống nông dân phần lớn đang còn gặp rất nhiều khó khăn ở nước ta.
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG THU HÚT VÀ GIẢI NGÂN VỐN ODA TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
I) Tình hình thu hút và giải ngân vốn ODA vào ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam trong thời gian qua.
Thời gian qua, song hành và đóng góp lớn vào thành công chung của ngành nông nghiệp có hiệu quả từ sử dụng nguồn vốn ODA của cộng động quốc tế. Cho đến thời điểm này, các dự án ODA đã rất phù hợp với các chiến lược, kế hoạch phát triển của ngành NN&PTNT. Đó là nguồn lực bổ sung quan trọng và không thể thiếu với một bộ đa ngành và chịu nhiều rủi ro với những tác động tiêu cực của thiên nhiên và điều kiện ngoại cảnh.
Thực tế, giai đoạn 2003 – 2008, nguồn vốn ODA đã đóng góp lớn vào công cuộc phát triển nông nghiệp Việt Nam như: xây dựng, nâng cấp, sửa chữa các công trình thuỷ lợi, giao thông nông thôn, nước sạch nông thôn, các chương trình dự án xoá đói giảm nghèo, tăng cường hệ thống khoa học nông nghiệp…
Theo số liệu thống kê của Bộ NN-PTNT, 15 năm qua ngành nông nghiệp đã thu hút được 41 nhà tài trợ tham gia với tổng số vốn 5,5 tỷ USD, chiếm 15,66% tổng vốn ODA dành cho Việt Nam. Số vốn này chủ yếu được Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới (WB), Cơ quan Phát triển Pháp (AFD), Tổ chức Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA) và Ngân hàng tái thiết Đức (KWF) thực hiện. Hầu hết vốn ODA tập trung vào lĩnh vực thủy lợi (40%), nông nghiệp (23%), lâm nghiệp (19%)... Cụ thể :
Tình hình thu hút các dự án ODA trong ngành lâm nghiệp
Các dự án ODA thu hút vào ngành lâm nghiệp thời kỳ vừa qua có số lượng đúng bằng số các dự án thu hút vào nông nghiệp với 44 dự án. Về số lượng các dự án ODA lâm nghiệp cũng như nông nghiệp chỉ đứng thứ hai sau lĩnh vực phát triển nông thôn. Các dự án ODA về lâm nghiệpchủ yếu tập trung vào các mục tiêu bao gồm: đầu tư trực tiếp hỗ trợ và phát triển sản xuất lâm nghiệp như trồng rừng có 9 dự án chiếm 20,5% số lượng dự án, xây dựng vùng đệm và bảo vệ rừng có 10 dự án chiếm 22,7% số lượng dự án. các dự án mục tiêu hỗ trợ công tác quản lý và xây dựng chính sách có số lượng lớn nhất gồm 12 dự án chiếm 27,3% số dự án lâm nghiệp. Các mảng khác như chuyển giao kỹ thuật, lâm nghiệp xóa đói giảm nghèo và phát triển cộng đồng có tổng số 13 dự án chiếm 29,5% số dự án ODA thu hút vào lâm nghiệp.
Nhìn chung cơ cấu thu hút các dự án ODA theo mục tiêu trong ngành lâm nghiệp khá hài hòa. Hạn chế lớn nhất đối với thu hút các dự án ODA trong lâm nghiệp là chưa có các dự án về tín dụng lâm nghiệp phục vụ cho trồng rừng sản xuất, mặc dù đây đang là vấn đề khó khăn cho phát triển sản xuất lâm nghiệp ở nhiều nơi hiện nay do đầu tư cho trồng rừng kinh tế cần vốn lớn và thời gian hoàn vốn lâu. Nếu có được dự án tín dụng ưu đãi từ nguồn ODA sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nông dân tích cực phát triển làm kinh tế rừng. Ngoài ra để bảo vệ rừng công tác định canh định cư là rất quan trọng, tuy nhiên số dự án ODA lâm nghiệp có hợp phần định canh định cư còn ít mới chiếm 11,4% số lượng dự án lâm nghiệp do đó phần nào làm hạn chế đến hiệu quả của nguồn ODA vào phát triển lâm nghiệp nói chung và trong mục tiêu bảo vệ rừng nói riêng.
Tình hình thu hút các dự án ODA trong ngành thủy lợi
Tổng số các dự án ODA được thu hút vào thủy lợi đến đầu năm 2003 có 19 dự án trong đó về đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi có 13 dự án chiếm 68,4% số lượng dự án và về hỗ trợ quản lý đào tạo, xây dựng chính sách có 6 dự án chiếm 31,6% số dự án.
Thu hút các dự án ODA về thủy lợi có sự chênh lệch khá lớn giữa các vùng. Phần lớn số lượng dự án và vốn đầu tư tập trung vào vùng ĐBSH sau đó là ĐBSCL. Vùng MNTDPB, Tây Nguyên và ĐNB là những vùng thiếu nước cho sản xuất nông nghiệp nhưng lại không có dự án nào ngoại trừ Tây Nguyên có 1 dự án.
Các dự án ODA nhóm A về xây dựng công trình thủy lợi được thu hút và phân bổ tập trung cho hai vùng sản xuất nông nghiệp trọng điểm của cả nước là ĐBSH và ĐBSCL. Song giữa hai vùng cũng có sự chênh lệch khá lớn về số lượng dự án và số lượng vốn đầu tư. Cụ thể vùng ĐBSH có các dự án về khôi phục hệ thống thủy lợi (ADB, 1995- 2001) và thủy lợi lưu vực ĐBSH (ADB, 2002-2007 và Pháp, 2002- 2008) với tổng vốn ODA là 160 triệu USD trong khi đó vùng ĐBSCL chỉ có 1 dự án phát triển thủy lợi ĐBSCL (WB,1999- 2004) với số vốn 101,8 triệu USD. Vùng ĐBSH sản xuất nông nghiệp gắn với hệ thống đê điều lớn và phức tạp do đó việc củng cố đê điều, kênh mương là cần thiết, song đối với vùng ĐBSCL vấn đề mặn hóa, phèn hóa cần đầu tư cho thủy lợi để mở rộng sản xuất nông sản hàng hóa cho vùng đồng bằng giàu tiềm năng nhất cả nước về sản xuất nông nghiệp này cũng không kém phần quan trọng. Vì vậy, thu hút các dự án ODA về thủy lợi vào vùng ĐBSCL ở mức như hiện nay là chưa hợp lý, cần phải ưu tiên đẩy mạnh hơn nữa trong thời gian tới.
Tình hình thu hút các dự án ODA trong ngành Thủy sản:
Về số lượng vốn đầu tư, thủy sản là ngành thu hút được ít vốn ODA nhất trong lĩnh vực nông nghiệp nông thôn. Từ 1994 đến hết 2002, toàn ngành mới thu hút được 26 dự án với tổng số vốn 142,67 triệu USD chiếm 5,13% tổng số ODA thu hút vào phát triển nông nghiệp nông thôn trong cùng thời kỳ.
Cơ cấu các dự án ODA phân theo mục tiêu trong ngành thủy sản có sự mất cân đối lớn về số lượng. Các dự án mục tiêu hỗ trợ quản lý và xây dựng chính sách có tới 10 dự án chiếm 38,5% tổng số dự án. Số lượng dự án mục tiêu dịch vụ chế biến sau thu hoạch có 9 dự án chiếm 34,6% tổng số dự án. Các mảng khác về xây dựng cơ sở hạ tầng có 3 dự án, chuyển giao kỹ thuật có 2 dự án và hỗ trợ phát triển sản xuất có 2 dự án. Như vậy về số lượng, các dự án mục tiêu về chuyển giao kỹ thuật và đầu tư hỗ trợ sản xuất còn chiếm tỷ lệ quá thấp và chưa tương xứng so với yêu cầu thực tế hiện nay trong ngành thủy sản. Mặt khác, thủy sản tuy là ngành đang phát triển mạnh, song sản phẩm tăng nhanh chủ yếu do nuôi trồng. Khai thác đánh bắt nhất là đánh bắt xa bờ vẫn tăng rất chậm và gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên thời kỳ vừa qua ngành thủy sản chưa thu hút được dự án ODA nào đầu tư cho mảng chuyển giao kỹ thuật và hỗ trợ khai thác đánh bắt xa bờ, đây là một hạn chế lớn trong thu hút các dự án ODA của ngành thủy sản.
Tình hình thu hút các dự án ODA về phát triển nông thôn:
Phát triển nông thôn là lĩnh vực thu hút được số lượng dự án và số lượng vốn ODA lớn nhất trong phát triển nông nghiệp nông thôn. Tính đến tháng 12/2002 lĩnh vực này đã thu hút được 114 dự án ODA các loại với tổng số vốn 1.357,11 triệu USD chiếm 46,2% tổng số dự án và 48,8% số lượng vốn ODA trong nông nghiệp nông thôn. Các dự án ODA về phát triển nông thôn khá đa dạng, từ đầu tư hỗ trợ phát triển sản xuất đến xây dựng cơ sở hạ tầng, bảo vệ môi trường, xóa đói giảm nghèo, xây dựng chính sách đến phát triển văn hóa xã hội như xây dựng hệ thống phát thanh, nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe sinh sản, hỗ trợ các hoạt động của đại biểu dân cử ở một số tỉnh và địa phương trong nước. Về số lượng các dự án ODA phát triển nông thôn tập trung vào 3 mảng lớn là phát triển văn hóa- xã hội có 28 dự án chiếm 24,6% số lượng dự án, hỗ trợ quản lý xây dựng chính sách các ngành liên quan đến phát triển nông thôn có 26 dự án chiếm 22,8% số lượng dự án và hỗ trợ xóa đói giảm nghèo có 13 dự án chiếm 11,4% số lượng các dự án. Đặc biệt trong số các dự án phát triển nông thôn có 9 dự án tín dụng nông thôn như về xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn, tín dụng cho người nghèo, phát triển quĩ tín dụng vừa và nhỏ ở nông thôn, tín dụng dành cho phát triển nông thôn với tổng số vốn 391,7 triệu USD. Số lượng các dự án ODA thu hút vào phát triển nông thôn tuy nhiều nhưng nhìn chung còn manh mún, nhỏ lẻ, số dự án có vốn đầu tư dưới 1 triệu USD có đến 40 dự án chiếm 35,1% số lượng các dự án PTNT. Số dự án phát triển nông thôn tổng hợp như phát triển toàn diện mô hình một xã còn ít. Phát triển nông thôn hiệu quả thường phải là các dự án đa mục tiêu có nhiều hợp phần đầu tư nhưng số dự án có vốn đầu tư từ 5 triệu USD trở lên vào PTNT chưa nhiều mới chỉ có 34 dự án chiếm 29,8% tổng số các dự án ODA phát triển nông thôn.
II) Tình hình giải ngân vốn ODA vào nông nghiệp và phát triển nông thôn
Tổng nguồn vốn ODA dành cho ngành nông nghiệp khá lớn nhưng quy mô các dự án nhỏ, những dự án có số vốn 70 - 100 triệu USD chỉ chiếm 1,7%; trên 100 triệu USD chiếm 1,3%. Việc thực hiện các dự án ODA còn rất nhiều hạn chế, như thiếu định hướng tổng thể về thu hút và sử dụng ODA cho ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn; phân bổ nguồn vốn chưa đều giữa các vùng trong cả nước; chưa có đội ngũ chuyên môn quản lý nguồn vốn ODA; năng lực quản lý vốn, tạo sự liên kết giữa việc lập kế hoạch, ngân sách... của cán bộ địa phương các cấp còn yếu kém. Những hạn chế trên đã dẫn tới căn bệnh kinh niên của các dự án ODA trong ngành nông nghiệp: giải ngân chậm. Đây chính là yếu tố khiến một số nhà tài trợ nản lòng, thậm chí đòi cắt giảm cam kết ODA cho nông nghiệp trong thời gian tới. Năm 2009, trong số 10 dự án ODA dùng vốn WB chậm giải ngân, riêng bộ NN-PTNT có tới 4 dự án. Một ví dụ điển hình là dự án nguồn tài nguyên nước 157,8 triệu USD, mới giải ngân được gần 20% sau hơn 5 năm thực hiện, do thiếu nguồn vốn đối ứng cho đền bù và tái định cư; lạm phát đã khiến nguồn vốn thực hiện dự kiến thiếu khoảng 93 triệu USD. Phần lớn các dự án ODA cho nông nghiệp WB thực hiện ở Việt Nam chậm ít nhất 2 năm, bởi thời gian để thành lập các ban quản lý dự án quá chậm.
Tình hình giải ngân vốn ODA trong lâm nghiệp
Ngành lâm nghiệp đến tháng 12/2002 có 14 dự án GNC không đúng kế hoạch, chiếm 29,8% số dự án ODA CGN trong lĩnh vực NN&NT. Đây là ngành đang xảy ra tình trạng giải ngân chậm ODA nặng nề nhất, chỉ đứng sau lĩnh vực PTNT về số lượng dự án GNC và là ngành ngành có tỷ lệ dự án CGN trên số dự án kí kết cao nhất trong các ngành PTNN&NT là 31,8%. Nguyên nhân cơ bản của tình hình này là do dặc thù của các dự án lâm nghiệp thường triển khai ở diện rộng, điều kiện địa bàn khó khăn về đi lại, dân cư chủ yếu là đồng bào dân tộc trình độ lạc hậu. Trong số các dự án lâm nghiệp GNC có 9 dự án đầu tư theo vùng và 5 dự án liên vùng. Các dự án lâm nghiệp GNC theo vùng nằm ở các vùng Miền núi trung du phía bắc có 4 dự án, Bắc Trung Bộ có 2 dự án và vùng ĐBSCL có 3 dự án.
Các dự án lâm nghiệp GNC phần lớn đều là các dự án phát triển lâm nghiệp kết hợp PTNT tổng hợp, dự án có nhiều hợp phần phức tạp. Đối với các dự án liên vùng số vốn đầu tư thường lớn, nhiều dự án nhỏ triển khai ở nhiều tỉnh như dự án Phát triển khu vực lâm nghiệp (ADB, 40 triệu USD) thực hiện ở các tỉnh Thanh Hóa, Quảng Trị, Gia Lai, Phú Yên nằm trên 3 vùng khác nhau trong nước do đó việc tổ chức triển khai dự án và hoàn tất các thủ tục về quản lý dự án như tài chính, đấu thầu liên quan đến nhiều đầu mối, nhiều nội dung thực hiện vì vậy khó đảm bảo được tiến độ đề ra trong khi thời gian thực hiện chỉ trong 5 năm. Ngoài ra đối với các dự án lâm nghiệp GNC theo vùng, nguyên nhân giải ngân chậm một phần còn do năng lực tổ chức và quản lý của các Ban quản lý dự án nhất là ở các Ban quản lý dự án ở địa phương còn hạn chế.
Tình hình giải ngân các dự án ODA trong thủy lợi:
Thủy lợi là ngành có số dự án ODA được kí kết ít nhất trong các ngành PTNN&NT, song các dự án ODA về thủy lợi là các dự án có số lượng ODA rất lớn. Vì vậy các dự án ODA thủy lợi giải ngân chậm có ảnh hưởng nhiều đến tốc độ giải ngân ODA nói chung trong lĩnh vực NN&NT. Với 5 dự án GNC thủy lợi là ngành có số dự án GNC chiếm tỷ lệ thấp nhất 10,6% trong tổng số các dự án GNC trong NN&NT nhưng tỷ lệ dự án GNC trên tổng số dự án kí kết lại ở mức cao 26,3% đứng thứ hai sau lâm nghiệp. Như vậy, cùng với lâm nghiệp thủy lợi là ngành mà vấn đề chậm giải ngân đang là vấn đề lớn cần nhanh chóng có biện pháp giải quyết. Nguyên nhân chủ yếu làm các dự án thủy lợi GNC là do các dự án đều phải xây dựng công trình với vốn đầu tư lớn hàng chục triệu USD, tổng vốn đầu tư của các dự án cũng rất lớn như dự án Phát triển thuỷ lợi Đồng bằng sông Cửu Long (WB, 101,8 triệu USD) cộng thêm vốn đối ứng trong nước 25,2 triệu USD, dự án Khôi phục thuỷ lợi miền Trung và TP.HCM (WB, 100 triệu USD) với vốn đối ứng trong nước 18,6 triệu USD. Thêm vào đó, quá trình triển khai dự án liên quan đến nhiều cơ quan, đối tác và phải thực hiện nhiều nội dung, thủ tục như di dân, giải phóng mặt bằng, thiết kế, xây dựng, cung ứng vật tư, đấu thầu, tính giá. Vì vậy, quá trình giải ngân của các dự án thủy lợi chịu ảnh hưởng nhiều các yếu tố khách quan và chủ quan như giá cả vật tư lên xuống, thời tiết, giao thông đi lại, giải phóng mặt bằng, cơ chế thủ tục tài chính, đầu tư do đó việc triển khai xây dựng công trình cũng như giải ngân dự án theo đúng tiến độ gặp nhiều khó khăn.
Tình hình giải ngân các dự án ODA trong ngành thủy sản:
Về dự án GNC ngành thủy sản có số lượng dự án bằng với nông nghiệp là 6 dự án chiếm 12,8% số dự án GNC trong lĩnh vực NN&NT. Tuy nhiên tỷ lệ dự án GNC trên dự án kí kết của ngành lại khá cao 23,1% đứng thứ ba sau lâm nghiệp và thủy lợi. Các dự án GNC trong ngành Thủy sản đáng chú ý phần lớn đều là các dự án có số vốn đầu tư nhỏ và do trực tiếp Bộ Thủy sản quản lý, trong đó có 5 dự án về hỗ trợ kỹ thuật phục vụ công tác đào tạo, quản lý và xây dựng thể chế chính sách. Lý do chính làm các dự án này giải ngân chậm là do các báo cáo kết quả nghiên cứu của dự án phải chỉnh sửa nhiều lần và thời gian chờ phê duyệt kéo dài. Nguyên nhân chủ yếu do chất lượng điều tra, nghiên cứu của các dự án chưa bảo đảm và khâu tổ chức thực hiện dự án còn yếu.
Tình hình giải ngân các dự án về phát triển nông thôn:
Phát triển nông thôn là lĩnh vực có số lượng dự án và ODA đầu tư lớn gấp nhiều lần các ngành khác vì vậy đây cũng là lĩnh vực có số dự án GNC lớn nhất trong số các ngành PTNN&NT. Số dự án GNC về PTNT đến đầu năm 2003 có 16 dự án, chiếm 34% tổng số các dự án GNC trong PTNN&NT. Tuy nhiên đáng chú ý, PTNT lại là lĩnh vực có tỷ lệ thấp so với các ngành khác về số lượng dự án GNC trên tổng số dự án được kí kết là 14%.
Trong 16 dự án PTNT giải ngân chậm có 4 dự án về tín dụng và tài chính, 4 dự án gắn với đầu tư xây dựng CSHT, 3 dự án về XĐGN, 3 dự án về hỗ trợ các đối tượng chính sách xã hội phát triển sản xuất, 1dự án về văn hóa thông tin và 1 dự án về môi trường.
Nguyên nhân làm các dự án PTNT giải ngân chậm một phần do hầu hết các dự án này đều tập trung hoặc có hợp phần phải triển khai thực hiện ở vùng MNTDPB là vùng có điều kiện địa bàn khó khăn cho thực hiện các dự án. Phần khác chủ yếu nằm ở khâu kỹ thuật thiết kế và thực hiện dự án chưa hợp lý và đảm bảo tính khả thi. Chẳng hạn như các dự án XĐGN giải ngân chậm là do việc xây dựng các mô hình XĐGN còn chưa hoàn toàn phù hợp ở một số địa bàn hoặc xây dựng mô hình sản xuất thiếu tính toán hợp lý đầu ra dẫn đến khi nhân rộng ít thu hút được sự tham gia hưởng ứng của nông dân phải thay đổi, làm lại tốn nhiều thời gian. Đối với các dự án tín dụng nông thôn việc cho vay đồng bào gặp nhiều vướng mắc về thủ tục cho vay và mắc ở khâu sản xuất, đồng bào không biết làm gì trong khi đó các dự án tín dụng lại không có hợp phần hỗ trợ phát triển sản xuất và xây dựng mô hình.
III) Một số nguyên nhân dẫn đến thành công, hạn chế trong thu hút và giải ngân vốn ODA trong nông nghiệp và phát triển nông thôn thời gian qua.
Phát triển NN&NT là một trong những lĩnh vực được Nhà nước ta và các Nhà tài trợ rất quan tâm và ưu tiên dành cho nhiều dự án ODA. Việc thu hút các dự án ODA trong phát triển NN&NT thời kỳ vừa qua cũng được các Bộ, ngành liên quan và các địa phương nỗ lực đẩy mạnh và ở nhiều nơi đã thu được những kết quả tích cực về phát triển NN&NT như xóa đói giảm nghèo, đảm bảo ANLT, phát triển sản xuất nông sản hàng hóa, bảo vệ và phát triển rừng, tăng cường các điều kiện về cơ sở vật chất hạ tầng nông thôn. Song bên cạnh đó, thu hút và giải ngân ODA trong NN&NT còn có những hạn chế nhất định, nổi lên một số vấn đề như sau:
- Ngành nông nghiệp chưa chủ động trong việc lập kế hoạch, đưa ra danh mục ưu tiên kêu gọi đầu tư. Hầu hết các dự án ưu tiên đều do các nhà tài trợ đưa ra, sau đó phía Việt Nam mới xây dựng kế hoạch thực hiện, nên sau khi hiệp định ký kết tài trợ có hiệu lực mới bắt đầu triển khai các hoạt động, xây bộ máy quản lý nên cần có tiền để nuôi bộ máy này hoạt động. Nếu WB chưa ứng tiền, sẽ không thể hoạt động được", số tiền đó phải và mượn máy móc, thiết bị của dự án khác để hoạt động. Tuy nhiên, đây chỉ là một trong những lý do dẫn đến việc hấp thụ nguồn vốn ODA vào nông nghiệp khó khăn. Nhiều phân tích đã chỉ ra rằng việc thiếu vốn đối ứng, cũng như năng lực thực hiện của phía Việt Nam còn yếu là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tiến độ giải ngân bị chậm.
Một nguyên nhân nữa ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện chương trình, dự án ODA là năng lực nhà thầu và tư vấn không đáp ứng được yêu cầu công việc. Trong khi đó, tác động của lạm phát trong các năm 2007 - 2008 dẫn đến tình trạng thiếu hụt vốn ODA và vốn đối ứng. Cơ chế bố trí vốn đối ứng giữa trung ương và địa phương chưa phù hợp. Trong các hiệp định ký kết, địa phương cam kết tự cân đối vốn đối ứng được thực hiện theo các tỷ lệ khác nhau (100%, 80%, 60%,...) tùy theo từng vùng (Tây Nguyên, ĐBSCL...) trên cơ sở các quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, vốn về địa phương đã chưa được sử dụng đúng mục đích. Thời gian chuẩn bị thực hện các dự án đầu tư bằng vốn ODA thường kéo dài từ 2 - 3 năm dẫn đến việc dự án phải điều chỉnh và chịu tác động của nhiều yếu tố, đặc biệt về giải phóng mặt bằng, tái định cư và biến động về giá cả, chi phí làm cho tổng đầu tư tăng lên rất nhiều so với mức ban đầu. Trong điều kiện nguồn vốn ODA đã ký kết không thay đổi, đây sẽ là một sức ép lớn đối với việc bố trí vốn đối ứng, làm ảnh hưởng đến tiến độ triển khai thực hiện dự án.
Việc xúc tiến, vận động ODA cho PTNN&NT còn chưa được tổ chức và đầu tư thích đáng ở một số địa phương, nhất là ở nhiều tỉnh miền núi. Đối với các Bộ, ngành hoạt động xúc tiến vận động ODA còn tập trung quá nhiều vào Bộ KH&ĐT và trông chờ phụ thuộc vào tư vấn quốc tế và các Nhà tài trợ.
Việc chuẩn bị dự án về điều tra, thiết kế lập dự án tiền khả thi còn yếu ở các địa phương kể cả trong một số ngành. Nhiều dự án khi đưa lên trình duyệt thiếu tính thuyết phục, luận chứng không rõ ràng và không đúng trọng tâm mục đích, yêu cầu của Nhà tài trợ. Một số tỉnh, ngành trình dự án còn chậm, không đúng thời gian qui định do đó bở lỡ cơ hội vận động ODA.
Việc tổ chức thu hút và điều phối các dự án ODA trong NN&NT theo qui hoạch, kế hoạch ở góc độ cả nước còn chưa chặt chẽ và hoàn thiện. Thiếu qui hoạch về ODA dài hạn cho PTNN&NT nhất là việc lồng ghép qui hoạch ODA với qui hoạch phát triển tổng thể NN&NT, kế hoạch về ODA với kế hoạch ngân sách và chương trình đầu tư công cộng.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ GIẢI NGÂN VỐN ODA TRONG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
I) Một số giải pháp về cơ chế chính sách
Thứ nhất, phải tiến hành xây dựng chính sách tổng thể về quản lý, giám sát vay và trả nợ nước ngoài được hoạch định trong mối tương quan chặt chẽ với các chính sách và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở tầm vĩ mô và vi mô, việc quản lý vay và trả nợ nước ngoài phải tính đến các chỉ tiêu cơ bản về nợ nước ngoài như: khả năng hấp thụ vốn vay nước ngoài (tổng số nợ nước ngoài/ GDP), chỉ tiêu khả năng vay thêm từng năm, chỉ tiêu khả năng hoàn trả nợ (tổng nghĩa vụ trả nợ/thu nhập xuất khẩu).
Thứ hai, phải nhanh chóng hoàn chỉnh các chính sách, chế độ về vay và quản lý vay nợ nước ngoài nói chung và nguồn vốn ODA nói riêng
Thứ ba, Rà soát lại các định mức, xoá bỏ các định mức lạc hậu, xây dựng các định mức đảm bảo tiên tiến, khoa học phù hợp với thực tiễn và xem xét lại qui trình đấu thầu,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng về việc huy động và giải ngân vốn ODA trong nông nghiệp và phát triên nông thôn ở Việt Nam hiện nay <cao học>.DOC