PHẦN I:MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Mục đích, nhiệm vụ đối tượng,phạm vi nghiên cứu
4. Căn cứ luận và phương pháp nghiên cứu
5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
6. Đóng góp
7. Kết cấu của đề tài
PHẦN II:NỘI DUNG
Chương 1. Những vấn đề chung của nguyên tắc tính nhân đạo trong hoạt động báo chí.
1.1.Một số khái niệm có liên quan
1.2.Nguyên tắc tính nhân đạo của báo chí:
Chương 2. Thực trạng việc thực hiện nguyên tắc tính nhân đạo trong hoạt động báo chí.
2.1. Tình hình việc thực hiện nguyên tắc tính nhân đạo
2.2Nhận xét, đánh giá về việc thực hiện nguyên tắc tính nhân đạo trong hoạt động báo chí:
Chương 3.Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc thực hiện nguyên tắc tính nhân đạo trong hoạt động báo chí.
3.1Đa dạng hóa sự thể
3.2Giáo dục pháp luật
3.3kết hợp với các cơ quan chức năng
3.4Giải pháp trong việc bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ phóng viên
PHÇN III:KẾT LUẬN
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2795 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng việc thực hiện nguyên tắc tính nhân đạo trong hoạt động báo chí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c nghề nghiệp
, báo chí chân chính chẳng những không tuyên truyền bạo lực, kích dâm, gây chia rẽ, thù hằn tôn giáo, và dân tộc mà còn tích cực tham gia đấu tranh chống lại những tội ác đó, đâu tranh bảo vệ hòa bình, bảo vệ môi trường, phát động các phong trào quần chúng rộng rãi để cảnh giác và đẩy lùi các hiểm ọa đe dọa con người và và sức khỏe con người như đại dịch HIV/AIDS và hiểm họa hạt nhân chẳng hạn.
Chương 2: Thực trạng việc thực hiện nguyên tắc tính nhân đạo trong hoạt động báo chí.
Không phải bất cứ điều gì lý thuyết đã đặt ra thì nhất thiết đều thực hiện được.trên lý thuyết ta đã thấy được những đặc điểm nổi bật của báo chí giúp cho nó thực hiện tốt chức năng của mình. Trên thực tế báo chí đã cố gắng hết sức đem tiếng nói cuả mình tới với cộng đồng nhằm tạo cho bạn đọc có cái nhìn khách quan hơn về vấn đề đó.
2.1Tình hình việc thực hiện nguyên tắc tính nhân đạo
Ở báo chi nước ngoài, người ta rất quan tâm đến nguyên tắc này bởi người ta luôn coi trọng quyền sống, quyền tự do của con người. Hằng ngày, hằng giờ trên các báo người ta ra sức lên tiếng bảo vệ con người nhằm tạo cho xã hội. Ở các loại hình báo chí nước ngoài, người ta có suy nghĩ thoáng hơn trong cách đưa tin
Hầu hết trên những tờ báo mạng hiện tay đã chú tâm tới khai thác khía cạnh các đề tài nhằm thể hiện nguyên tắc tính nhân đạo của mình. Do đề tài tính nhân đạo rất rộng nên hầu hết trên các báo đều có các khía cạnh nhân đạo đó….ví dụ các bài báo về tình trạng phụ nữ bị bạo lực, trẻ em bị ngược đãi, đối xử, tình trạng môi trường xuống cấp, thiên tai, lũ lụt……hay những ý kiến đánh giá nguyên nhân, giải pháp……..
Tuy nhiên trong thời buổi kinh tế thị trường nhiều báo chú trọng tới việc giải trí hơn là chú trọng khai thác đề tài nhân đạo.
2.2Nhận xét, đánh giá về việc thực hiện nguyên tắc tính nhân đạo trong hoạt động báo chí:
Thành công:
Qua khảo sát chuyên mục “phóng sự_kí sự” trên báo điện tử Vietnamnet.vn trong tháng 12 năm 2008
Về số lượng các tác phẩm, phóng sự báo vietnannet.vncungx rất chú trọng đến việc thể hiện tính nhân đạo trong tác phẩm của mình, trong số 6 bài phóng sự được đăng tải thì có 4 bài đề cập đến tính nhân đao(chiếm 6.67%).
Bằng những trang viết nhân văn, tác giả đã hướng sự chú ý của công chúng vào những hoàn cảnh, than phận éo le, bất hạnh, ngang trái trong cuộc sống, từ đó khơi dậy trong lòng công chúng những tình cảm nhân ái, yêu thương, đùm bọc, che chở. Quan trọng hơn sự đồng cảm, đông điệu của công chúng với cảm xúc của người viết không chỉ bộc lộ trong quá trình tiếp nhận tác phẩm mà còn được thể hiện bằng hành động cụ thể.
Hạn chế:
Bên cạnh những thành công đã đạt được thì loại hình báo chí vẫn còn bộc lộ một số hạn chế khó tránh khỏi trong khi đề cập đến nguyên tắc tính nhân đạo.
Về ngôn ngữ, vẫn còn hiện tượng diễn đạt dài dong, thiếu mạch lạc. Một số nhà báo lại hơi lạm dụng chất văn học trong tác phẩm làm cho chúng chùng mạch thông tin của bài viết, không định hướng sự chú ý củ độc giả vào vấn đề cần đề cập.
Nhiều vấn đề vẫn chưa được sâu sắc, chỉ mang tính phản ánh đơn thuần, thông tin còn nhạt hay mơ hồ trong định hướng, thiếu sức thuyết phục.
Cách trình bày cũng có nhiều hạn chế, việc dùng quá nhieeuf ảnh minh họa sẽ gây khó khăn cho người xem, khiến họ không thể nào tập trung vào việc đọc nội dung tác phẩm. Ngược lại, quá ít hình ảnh minh họa lại không thể truyền tải hết ý đồ và mục đích của nhà báo, khiến cho hiệu quả thông tin bị giảm sút. Việc sử dụng những bức ảnh to hay quá nhỏ, hay trình bày ảnh sai vị trí cũng gây khó khăn cho người xem, khiến cho việc tiếp nhận thông tin bị hạn chế hay bị lệch hướng. Đây là điều rất nguy hiểm trong báo chí. Vì thế, đòi hỏi con mắt tinh tế, nhạy bén của nhà báo cunbgx như biên tập viên và các designer-corrector.
Trên đây là những hạn chế trong việc đề cập tính nhân đạo trong hoạt động báo chí. Đó là cách thức của cơ quan báo chí trong việc thông tin cho độc giả. Đồng thời, đó cũng là cơ hội tốt trong việc cạnh tranh, quảng bá hình ảnh, tạo uy tín và vị thế trong lòng độc giả đến với tờ báo của mình.
Nguyên nhân:
Thứ nhất, đối với mỗi nền báo chí khác nhau thuộc các giai cấp khác nhau, thì quan niệm về tính nhân đạo, nhân văn trong hoạt động báo chí là khác nhau. Một số nhà lý luận báo chí tư sản nhìn nhận tư hữu là quyền thiêng liêng của con người, đụng đến nó là “ thiếu dân chủ” và” phi nhân đạo” thì giai cấp vô sản lại cho rằng, tư hữu là nguồn gốc để ra chế độ người bóc lột người, mất dân chủ và phản nhân đạo. Như vậy đủ thấy chủ nghĩa nhân đạo mang trong mình nó dấu ấn giai cấp rất rõ rệt. Mặt khác, lòng từ thiện, đức tính hy sinh than mình vì hạnh phúc và sinh mạng của người khác, sự sót thương trước những khổ đau cụ thể của đồng loại… là những giá trị chung đối với mọi người.
Một số nhà lý luận báo chí tư sản cố tình tuyệt đối hóa những tiêu chuẩn nhân đạo của các nước phương tây, coi nó là chuẩn mực của hoạt động báo chí, trong đó lại phủ nhận toàn bộ những giá trị nhân đạo mà nền báo chí tư sản theo đuổi. Chúng ta nên có thái độ khách quan đúng đắn, không nên đề cao hay hạ thấp quan niệm nào.
Thứ hai, tính nhân đạo còn phụ thuộc vào quan điểm, ý kiến chỉ đạo của ban biên tập, trong đó tổng biên tập là người chịu trách nhiệm cao nhất, định hướng và chỉ đạo toàn bộ hoạt động cho cơ quan báo chí. Mọi hoạt động sáng tạo của nhà báo đều xuất phát từ mục đích, yêu cầu của tòa soạn. Việc phân công theo hướng chuyên môn háo, phóng viên trong mỗi cơ quan báo chí sao cho phù hợp với năng lực, sở trường của từng người cũng là một nguyên nhân quan trọng quyết định đến sự thành công hay thất bại của mỗi tác phẩm báo chí.
Trong xu hướng phát trienr báo chí hiện đại hóa, những đề tài”vì con ngươi, do con người, tud coin người” luôn được các tòa soạn khuyến khích người làm báo không ngừng tìm tòi và sang tạo, đáp ứng nhu cầu bức thiết của công chúng
BBT cũng là nguyên nhân chi phối, định hướng lụa chọn những đề tài giàu tính nhân đạo, đóng vai trò quan trọng trong việc biên tập, lựa chon tác phẩm đáp ứng tiêu chí để xuất bản, đăng tải.
Thứ 3, tính nhân đạo trong hoạt động báo chí còn phụ thuộc rất nhiều vào báo chí chủ thể sáng tạo trực tiếp báo chí, đó là việc kuwaj chọn đề trài phản ánh của bản than họ. Hiện thực khách quan muôn hình vạn trạng với vô vàn những sự kiên, hiện tượng đang tiếp diễn. Nhà báo cần phải vận động con mắt quan sát tinh tế, khả năng nhạy bén nghề nghiệp cùng những kỹ năng đã học hỏi được để phát hiện ra đâu là sự kiện, hiện tượng mang tính nhân đạo, cách thể hiện nó như thế nào sao cho tính nhân đạo được bộc lộ rõ nét nhất. Bởi không phải sự kiện nào cũng mang tính nhân đạo. Đó phải là những sự kiện tiêu biểu, có ý ngĩa xã hội rộng lớn.
Quá trình lao động sáng tạo của nhà báo cũng là một nguyên nhân quan trọng. Nếu không thực sự say nghề, trân trọng và đồng cảm với từng số phận con người được phản ánh tong tác phẩm, nhà báo sẽ không thể trụ lại với nghiệp cầm bút. Tất nhiên trong bất cứ một nghề nghiệp nào cũng tâm huyết với nghề, nhưng nghề báo đặc biệt là trong việc thực hiện nguyên tắc tính nhân đạo rong các tác phẩm báo chí, thì đây có thể coi là một tiêu chí hàng đầu.
Chương 3: Một số giả phá nâng cao hiệu quả của việc thực hiện tính nguyên tắc trong hoạt động báo chí.
Có thể khẳng định một thực tế là vai trò của báo chí đối với đời sống nói chung và đối với vấn đề nhân đạo nói riêng là rất quan trọng. Báo chí đã có nhiều đóng góp đem lại cho công luận những cái nhìn mới mẻ về những sự việc liên quan đến quyền lợi con người. Mặc dù các cơ quan báo chí và các cơ quan chức năng đã cố gắng hết sức tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế và thiếu sót trong hoạt động báo chí.
3.1Đa dạng hóa sự thể hien:
Báo chí muốn nâng cao nhận thức, muốn tuyên truyền giáo dục pháp luật cho quần chúng về đề tài nhân đạo. Muốn vậy, trên các tác phẩm báo chí phải đa dạng hóa cách thể hiện, trong đó phải tăng cường thêm các thể loại bài báo phân tích, lý giải các sự kiện, các hiện tượng một cách sinh động, phong phú…
Đặc trưng khái quát của loại thể thông tấn là” đối tượng”phản ánh, đó là các sự kiện, hiện tượng, vấn đề thời sự, sự kiện nóng hổi có ý nghĩa xã hội, đáp ứng nhu cầu nhanh, khái quát mà dư luận xã hội quan tâm, đòi hỏi…
Hơn nữa mục đích đặt ra cho đề tài này trong hoạt động báo chí là sẽ định hướng tốt cho người đọc để từ đó họ có thể có cái nhìn khách quan và rõ nét hơn về các vấn đề liên quan trực tiêp đến đời sống con người. Bởi thế mà đòi hỏi ở các tác phẩm báo chí phải có cáh thể hiện rõ nét, cần có sự phân tích rõ ràng.
Mở rộng hơn các thể loại: Tin, phóng sự, ghi nhanh, tường thuật, bình luận…..
3.2Giáo dục pháp luật
Nội dung của báo chí không những nhanh chóng phản ánh kịp thời các vụ việc mà còn tăng cường các hình thức giáo dục pháp luật cho bạn đọc. Báo chí phải trở thành chiếc cầu nối để quảng đại quần chúng nám bắt được nó để rút ra bài học.
3.3Kết hợp với các cơ quan chức năng
cùng với các cơ quan thông tin đại chúng khác của Đảng và Nhà nước, các cơ quan báo chí phải là một cơ quan truyền thông mẫu mực, chuẩn mực về tuyên truyền biểu dương nhân tố mới, điển h́nh mới, đồng thời là một trong những cơ quan đi đầu trong đấu tranh chống tệ nạn xă hội, các hành vi tiêu cực, tệ quan liêu, tham nhũng, lăng phí; chống các luận điệu xuyên tạc, thù địch, âm mưu "diễn biến hoà b́nh". Các cán bộ của cơ quan báo chí phải thường xuyên bám sát cơ sở, nhạy bén phát hiện cái mới, cổ vũ cái mới, người tốt, việc tốt, nhân tố mới. Phải làm cho người tốt, việc tốt, nhân tố trở thành cái phổ biến, cái điển h́nh trong cuộc sống, lấn át, cô lập cái xấu, tiêu cực, lạc hậu, như ánh sáng xua đi bóng tối. Trong đấu tranh phê phán, chống luận điệu xuyên tạc, thù địch, các đồng chí phải hết sức nhạy bén và chủ động nắm chắc t́nh h́nh, nắm chắc quan điểm của Đảng và Nhà nước và có lập luận sắc bén, lư lẽ thuyết phục. Phải lấy thông tin chính thống, trung thực đẩy lùi thông tin xấu, thông tin nguỵ tạo, bịa đặt. Khi cần, phải chủ động công bố thông tin để tranh thủ sự đồng t́nh, ủng hộ của bè bạn để vạch mặt, cô lập và phân hoá kẻ xấu và các thế lực thù đich.
3.4Giải pháp trong việc bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ:
phải quan tâm bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên nghiệp, tinh thông nghiệp vụ, nhạy bén và có bản lĩnh về chính trị, có đạo đức trong sáng, luôn luôn gắn bó với nhân dân và với cuộc sống. Tất cả các đồng chí phải là những cán bộ tuyên truyền của Đảng, những cán bộ mẫu mực, trung thành, tận tuỵ, nắm bắt và sử dụng thành thạo công nghệ mới, thông tin kịp thời, chính xác. Cốt lơi sức mạnh Việt Nam chính là tinh hoa của nền văn hoá dân tộc, là khối kết nối cộng đồng dân tộc h́nh thành hàng ngh́n năm nay. Các tòa soạn báo phải đại diện cho văn hoá Việt Nam, cốt cách Việt Nam, đầy nhân nghĩa, nhân văn, có sức lan toả, lôi cuốn, thuyết phục, có lý có t́nh. Cho nên, tôi đề nghị các đồng chí chú ý phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ phát thanh viên, làm sao phát thanh viên thế hệ hiện nay phải tiếp nối được những truyền thống và phẩm chất tốt đẹp của thế hệ phát thanh viên trước đây, làm sao cho Tiếng nói Việt Nam tồn tại măi măi và ngày một lan toả rộng hơn, xa hơn, thực sự hấp dẫn, lôi cuốn đồng bào, đồng chí, bạn bè bốn biển, năm châu.
PHÇN III: KÕT LUËN
Nguyên tắc nhân đạo trong hoạt động báo chí không những phải là một đề tài bức thiết bây giờ mà nó phải luôn tồn tại và xuất hiện trên các tác phẩm báo chí. Loài người đang bước vào nền văn minh thứ ba với tất cả những thành tựu kỳ diệu của cách mạng khoa học và công nghệ. Mặt khác, loài người cũng đang đứng trước những hiểm họa đe dọa tàn phá môi trường sống,hủy hoại nhân tính con người, chà đạp các giá trị văn hóa, tinh thần của xã hội.
Hiện nay, các loại hình báo chí đã cố gắng hết sức để thực hiện tốt chức năng tư tưởng đó. Đã chú tâm hơn trong việc tìm kiếm những đề tài mới mẻ, những cách thể hiện sinh động,hấp dân, những vấn đề chuyên sâu có phân tích rõ ràng nhằm giúp người đọc có cái nhìn cụ thể hơn, định hướng cho người đọc những suy nghĩ tích cực. NHìn một cách tổng thể, nền báo chí thế giới nói chung và báo chí Việt Nam nói riêng đã thực hiên tốt vai trò của mình trong việc phát huy nguyên tắc tính nhân đạo. Tuy vậy, vẫn còn tồn tại những hạn chế. Hy vọng những giải pháp dưa trên sẽ giúp cho nền báo chí ngày càng phát triển và đưa đến cho người đọc cái nhìn rõ hơn.
Báo chí là một trong những kênh thông tin đa chiều, đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của con người và xã hội. Với những đặc trưng của mình, báo chí có nawnbg lực to lớn trong việc phản ánh sự vận động của dời sống hiện thực, tác động vào đông đảo quần chúng nhằm tạo nên định hướng xã hội tích cực. Cơ sở nền tảng của năng lực đó chinhs là tính khoa học của chủ nghĩa Mac LeNin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là những lợi ích của nhân dân lao dộng, của chế độ xã hội mà nó bảo hù hợp với quy luật vận động của lịch sử. Tiếng nói của báo chí là tiếng nói củ đảng, nhà nước. sức mạnh của báo chí thể hiện ở khả năng trở thành diễn đàn cho toàn đảng, toàn dân, tham gia thảo luận và giải quiets những vấn đê quan trọng cuỷa dất nước, đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực, phục vụ cho sự nghiệp đổi mới và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
MỤC LỤC
PHẦN I:MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Mục đích, nhiệm vụ đối tượng,phạm vi nghiên cứu
Căn cứ luận và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
Đóng góp
Kết cấu của đề tài
PHẦN II:NỘI DUNG
Chương 1. Những vấn đề chung của nguyên tắc tính nhân đạo trong hoạt động báo chí.
1.1.Một số khái niệm có liên quan
1.2.Nguyên tắc tính nhân đạo của báo chí:
Chương 2. Thực trạng việc thực hiện nguyên tắc tính nhân đạo trong hoạt động báo chí.
2.1. Tình hình việc thực hiện nguyên tắc tính nhân đạo
2.2Nhận xét, đánh giá về việc thực hiện nguyên tắc tính nhân đạo trong hoạt động báo chí:
Chương 3.Một số giải pháp nâng cao hiệu quả của việc thực hiện nguyên tắc tính nhân đạo trong hoạt động báo chí.
3.1Đa dạng hóa sự thể
3.2Giáo dục pháp luật
3.3kết hợp với các cơ quan chức năng
3.4Giải pháp trong việc bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ phóng viên
PHÇN III:KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cơ Sở Lý Luận Báo Chí_PGS/TS Tạ Ngọc Tấn
Tác Phẩm Báo Chí Tập một_NXB Giáo Dục
truyền thông đại chúng: học viện báo chí và tuyên truyền
Từ Điển Tiếng Viêt Của Viện Ngôn Ngữ Học_NXB Đà Nẵng 2004
80 Năm Báo Chí Cách Mạng Việt Nam-Những Bài Học Lịch Sử Và Định Hướng Phát Triển_NXB Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh
Công Việc Của Người Viết Báo - Hữu Thọ_NXB Tuyên Huấn TW 19988
Phạm Quang, 2005, Báo chí, tự do và dân chủ, nghề baois, nghiệp văn, NXB Thông Tấn Hà Nội
E.P.PRokhorop, 2004, Cơ Sở Lý Luận Báo Chí, NXB Thông Tấn
Trách nhiêm xã hội và nghĩa vụ công dân của nhà báo_hội nhà báo Việt Nam
PHỤ LUC
Báo chí phải đấu tranh tới cùng cho những điều tốt đẹp
19:38' 24/06/2006 (GMT+7)
Nhiều vấn đề nóng bỏng của xã hội đang đòi hỏi các nhà báo ngày càng phải thể hiện tích cực vai trò thông tin của mình. Nhưng làm sao để đấu tranh cho sự phát triển toàn diện của xã hội và tự nâng cao mình khi báo chí hiện vẫn phải gặp không ít khó khăn từ thái độ, cung cách cùng cơ chế quản lý của các cơ quan công quyền?
Làm sao để báo chí được “mở rộng cửa”, được cung cấp đầy đủ thông tin từ phía các cơ quan chính quyền?... Ông Trần Bạch Đằng, một nhà cách mạng lão thành đồng thời cũng là một người cầm bút, từng dấn thân và đấu tranh cho sự phát triển của báo chí cách mạng VN, nói:
- Hiện nay, có thể thấy giữa dư luận và quản lý nhà nước luôn luôn có những mâu thuẫn. Mâu thuẫn này xuất phát từ nhiều động lực khác nhau. Thứ nhất, nhiều người thuộc giới cầm quyền quen một lề lối bản năng là không muốn tất cả những vấn đề của xã hội, của các nhà lãnh đạo, quản lý... được đưa lên mặt báo, đưa ra công luận. Bên cạnh đó, cũng có nhiều người đề phòng hơi quá, ngại những bộc bạch của mình bị lợi dụng.
Những thái độ này cho thấy chẳng qua đó chỉ là một thói quen quá cũ kỹ, khó bỏ. Bổ sung cho các yếu tố này chính là ý thức của nhà báo, nhà báo không đủ bản lĩnh, năng lực để phản ánh hoặc trong phản ánh sự thật vẫn còn những cái quá yếu, nói những sự thật lẽ ra không cần phải nói. Nói khác đi, nhà cầm quyền có thói quen của nhà cầm quyền trong cung cấp thông tin và nhà báo cũng có thói quen của báo chí trong phản ánh sự thật...
Cứ có chuyện gì xảy ra là nhào vô nói, nói đủ thứ mà quên rằng nhiệm vụ của một nhà báo còn phải biết nhìn thấy trình độ tiếp nhận thông tin của quần chúng để định hướng.
VN chưa phải là một nước có nền dân chủ lâu năm, dân trí cũng chưa cao như những nước phát triển khác, nên cái hiểu của dân ở nhiều vấn đề đôi khi vẫn còn hạn chế. Vì vậy, bên cạnh việc phê phán quản lý nhà nước, những yếu kém của xã hội nói chung, thách thức dành cho báo chí hiện tại còn là việc nhìn nhận và đấu tranh với những thói tật của quần chúng, đó là những điều không giản đơn.
Chúng ta phê phán người nhận hối lộ là đúng nhưng tại sao không đề cập tới những người sẵn sàng bỏ ra 20.000 USD để hối lộ, để đạt được mục đích của mình? Cái não trạng chung kiểu “Tôi chả cần cố gắng gì, chỉ cần đưa ít tiền cho anh là tôi đạt được mục đích của mình” gần như đã được “bình thường hóa” trong xã hội. Bộ máy quản lý nhà nước đã có tiêu cực, đã có sai hiển nhiên không cãi vào đâu được nhưng có ai nhìn ra vấn đề chính não trạng này của người dân đã giúp cho những ý đồ xấu diễn ra rất dễ. Đấu tranh chống cái não trạng tệ hại đó phải là một mục đích của báo chí.
Như vậy, qua đó, báo chí có thể rút ra bài học gì?
- Nhiều tờ báo mang tính chất như là tiếng nói của công luận, của người dân nhưng nhiều vấn đề đưa ra chưa có tính định hướng xã hội, chưa hướng đến cái chung lớn, chưa mang tầm xã hội.
Báo chí muốn đấu cho tới, muốn phân tích cho rõ đầu đuôi ngọn nguồn, làm cho ra mọi vấn đề thì phải làm được hai mặt ấy, nếu không chính báo chí lại giúp tiêu cực có chỗ đứng... Nói cách khác, ngoài việc báo chí đòi hỏi cán bộ có tư cách thì cũng phải đòi hỏi người dân thật lương thiện.
Ông có nói tới thói quen “bản năng” của nhà cầm quyền đối với dư luận, vậy làm sao để thay đổi được thói quen đó?
- Lấy cái mốc lịch sử từ 30 năm trở lại đây, cụ thể hơn là từ Đại hội VI đến giờ ai cũng thấy là đã có một thay đổi rất lớn. Báo chí đã được nói mạnh hơn, đấu mạnh hơn, theo tôi, cũng nhờ có những điều kiện khách quan như: sự phát triển chung của kinh tế, sản xuất; phát triển tư duy và xu hướng chung trên cả thế giới...
Có nghĩa là chúng ta cũng cần phải có một quá trình cố gắng nữa cho đến khi đời sống vật chất của người dân được nâng lên, dân trí cao hơn hay nói chung là các sản phẩm của sự phát triển kinh tế đều được nâng cao lên... Đó sẽ là nền tảng để báo chí phát triển, còn hiện tại ở VN hình như mọi thứ vẫn chưa đủ điều kiện, chưa cho phép báo chí làm được điều mà mình mong muốn.
Vậy theo ông, báo chí VN hiện nay đã đáp ứng được sự kỳ vọng của người dân chưa?
- Chưa, còn lâu. Có nhiều cái tôi nghĩ báo chí còn phê phán rất nhẹ, cần làm mạnh hơn nữa và kiên quyết đấu tranh hơn nữa.
Ông có nói tới một số yếu kém của báo chí, mặt mạnh mặt yếu của từng tờ báo. Vậy theo ông, làm sao để các báo có một tiếng nói chung mạnh mẽ hơn để khỏi phụ lòng kỳ vọng của nhân dân?
- Tôi có thể nói rằng báo chí VN hiện tại thiếu sự liên kết chặt chẽ. Hội nhà báo chưa phải là một cơ quan có tính chất và nhiệm vụ chuyên nghiệp, chưa xác định được vai trò của mình... Bảo vệ nhà báo chân chính và trừng trị nhà báo xấu tính, cả hai mặt đó hội nhà báo đều không làm được, vậy tồn tại để làm gì? Theo tôi, báo chí muốn mạnh thì phải chỉnh đốn lại hội nhà báo theo một tính chất khác, nhiệm vụ khác, phải hoạt động giống như một nghiệp đoàn.
Chủ tịch hội nhà báo phải thật sự do chính các nhà báo bầu ra. Và nếu hội hoạt động chủ yếu bằng cơ chế, bằng kinh phí của Nhà nước thì làm sao độc lập, làm sao dũng cảm đấu tranh và tự đấu tranh ngay trong nội bộ của mình. Bây giờ báo chí được phê phán tới cả Thủ tướng, cả Bộ Chính trị thì tại sao các nhà báo không tự phê phán mình, tự hỏi xem mình đang là cái gì, bản thân tổ chức mình là cái gì, mình đã đóng góp gì cho sự tự do báo chí?...
Ông có những nhận xét gì về cung cách quản lý báo chí của Nhà nước hiện nay?
- Tôi nghĩ, thông qua báo chí, Nhà nước cứ nói thẳng nói thật, nói đúng là người dân lập tức nghe theo. Nhà nước nên coi báo chí là tiếng nói của người dân và người làm báo cũng phải thấy được trách nhiệm của người dân giao phó cho mình, đó là sự phân công của xã hội.
Nói về trình độ quản lý, tôi chỉ xin nêu ví dụ về việc qui định khống chế số lượng trang quảng cáo trên báo, chỉ riêng việc đó cũng đã thể hiện sự tụt hậu của ta so với nhiều nước lân cận. Nhiều tờ báo của Singapore, Thái Lan... có số trang quảng cáo gấp bốn năm lần so với trang nội dung nhưng có ảnh hưởng gì đến ai đâu? Tập quảng cáo kèm theo, ai muốn đọc thì đọc, không thì bỏ ra ngoài...
Như vậy, Nhà nước cần quản lý như thế nào để báo chí có nhiều đóng góp hơn cho xã hội?
- Nói gì thì nói Đảng và Nhà nước có vai trò lãnh đạo của mình mà báo chí muốn hay không muốn cũng phải theo. Nhưng theo tôi, quan trọng nhất vẫn là báo chí biết tự điều chỉnh việc nói cái gì và không cần thiết nói cái gì, năm nay nói được đến mức này, năm sau phải nói được nhiều hơn, nói sự thật đến mức độ nào thì đủ...
Có nghĩa là báo chí vẫn phải làm việc trong một giới hạn, như vậy có mâu thuẫn với việc ông đã bảo báo chí phải đấu tranh tới cùng...?
- Đất nước chúng ta vẫn chưa phát triển toàn diện về mọi mặt, vì vậy chúng ta vẫn phải làm việc trong một hoàn cảnh và điều kiện cho phép, người dân cũng sử dụng và hưởng thụ trong một mức độ cho phép, theo tôi, như vậy là vừa phải, nếu không mọi thứ sẽ dễ rối loạn...
Xin hỏi một câu cuối cùng! Theo ông, làm sao để giảm thiểu sự mâu thuẫn (nếu có) giữa chính quyền và báo chí, với tư cách là đại diện của công luận như ông đã nói ở trên?
- Muốn đạt được điều này, đòi hỏi phải có sự giác ngộ từ hai phía. Tôi nghĩ cả hai đều cần phải có sự thông cảm và gần gũi nhau hơn, tuy nhiên phần lớn trái bóng vẫn nằm trong chân bộ máy chính quyền và các cơ quan quản lý báo chí. Nếu chính quyền đã thật sáng suốt, công bằng, thật giỏi giang thì không có lý do gì phải sợ công luận, cũng không cần thiết phải tự ti. Thậm chí phải biết làm thế nào để sử dụng báo chí, coi báo chí như một công cụ để phát triển quốc gia.
Ngược lại, về phía báo chí, cũng cần thiết phải có sự kiên định của mình, không vô cảm trước những vấn đề thời cuộc nhưng cũng phải có nghệ thuật trong công việc làm báo... để thuyết phục được không chỉ người dân mà còn cả chính quyền.
Không thể báo chí là báo chí, chính quyền là chính quyền, Nhà nước có quyền không đồng ý một mặt nào đó của báo chí và báo chí cũng có quyền không đồng ý những gì mà Nhà nước làm, nhưng cả hai phải đối xử với nhau sòng phẳng và phải cùng đi trên một con đường, hướng tới mục tiêu cuối cùng là đưa đất nước mình thoát khỏi sự tụt hậu, làm đời sống của mọi người dân ngày càng khá lên... Nếu được như vậy, tôi kỳ vọng rồi đây chúng ta sẽ tạo ra được một dư luận xã hội đồng thuận như thời kháng chiến...
Ngọc Vinh - Hoài Trang (Tuổi trẻ)
"Tiếng nói Việt Nam phải đại diện cho văn hoá Việt Nam cốt cách Việt Nam" (Toàn văn phát biểu của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh với cán bộ phóng viên Đài TNVN nhân dịp thăm và làm vieeecj của Đài TNVN ngày 3/2/2008) "Thưa các đồng chí, Hôm nay, ngày 3/2, đúng vào ngày thành lập Đảng ta, trong không khí cả nước thi đua lập thành tích chào mừng kỷ niệm 78 năm Ngày thành lập Đảng và chuẩn bị đón Tết cổ truyền của dân tộc, Tết Mậy Tý 2008, tôi rất phấn khởi đến thăm và chúc Tết cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên, nghệ sĩ và nhân viên Đài Tiếng nói Việt Nam. Thay mặt lănh đạo Đảng, Nhà nước, xin gửi tới các đồng chí lời thăm hỏi ân cần và những lời chúc mừng tốt đẹp nhất.Thưa các đồng chí,Cách đây 63 năm, vào ngày 7-9-1945 đă cất lên Tiếng nói Việt Nam- Tiếng nói của một dân tộc vừa thoát khỏi ách nô lệ, khát khao độc lập, tự do, hoà b́nh, ấm no, hạnh phúc. Nhắc lại điều này để chúng ta càng thấy rơ hơn vị trí của Đài TNVN và vị thế của Tiếng nói Việt Nam trong suốt các giai đoạn lịch sử cách mạng đă qua, để chúng ta phát huy tốt hơn nữa truyền thống tốt đẹp trong giai đoạn hiện nay, và trong tương lai. Chúng ta tự hào vì Đài Tiếng nói Việt Nam luôn theo sát bước đi của lịch sử dân tộc, đồng hành cùng dân tộc, góp phần tạo nên những dấu ấn rất quan trọng. Đảng, Nhà nước và nhân dân đánh giá cao những đóng góp to lớn của Đài Tiếng nói Việt Nam, của cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên, nghệ sĩ và nhân viên của Đài. Trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc, Đài Tiếng nói Việt Nam đă chứng tỏ là một thứ vũ khí tinh thần sắc bén, có sức mạnh cổ vũ các chiến sĩ ở ngoài mặt trận; với đồng bào, đồng chí, Tiếng nói Việt Nam là niềm tin yêu, là nguồn động viên to lớn; với bạn bè quốc tế, Tiếng nói Việt Nam vượt qua hàng rào ngôn ngữ, khoảng cách về không gian và thời gian, cung cấp những thông tin kịp thời, chính xác để bạn bè hiểu ta hơn, chia sẻ với chúng ta nhiều hơn, ủng hộ và giúp đỡ chúng ta nhiều hơn; với kẻ thù dân tộc, Tiếng nói V
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nguyên tắc tính nhân đạo trong hoạt động báo chí.doc