MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 2
Nội dung 4
Chương I: Phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến 4
1. Khái niệm về phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến: 4
1.1. Khái niệm liên hệ phổ biến : 4
1.2. Nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ biến 4
2. Độc lập tự chủ về kinh tế và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế được đặt trong phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến: 5
2.1. Thế nào là xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ: 5
2.2. Nguyên tắc cơ bản bao trùm trong hội nhập kinh tế quốc tế : 8
2.3. Vận dụng phép biện chứng về mối liên hệ phổ biến vào việc phát triển mối liên hệ giữa xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế: 9
Chương II: Thực trạng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế 11
1. Những tác động của xu thế toàn cầu hoá tới quan hệ quốc tế và tình hình thế giới: 11
2. Từng bước tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, nước ta khi tiến hành hội nhập luôn đứng trước cả những thách thức và cơ hội: 12
2.2. Những nguyên tắc nhất quán chủ động quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với Đảng và Nhà nước ta: 14
3. Hệ quả tích cực và tiêu vực của toàn cầu hoá. 16
3.1. Hệ quả tích cực. 16
3.2. Hệ quả tiêu cực. 18
4. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay. 19
4.1. Những kết quả đã đạt được. 19
4.2. Quan hệ đối ng oại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế được mở rộng và thu được nhiều kết quả tốt. 21
4.3. Thực trạng kinh tế nước ta nhìn dưới góc độ hội nhập kinh tế với thế giới cũng bộc lộ một số nhược điểm đáng chú ý 22
5. Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là hoàn toàn đúng đắn và chính xác. 24
Kết thúc đề tài 28
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1587 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiệm của nước ta và cũng là kinh nghiệm của nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Vả chăng, nước ta phát triển kinh tế để đi lên CNXH, trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp, các lực lượng chống đối chủ nghĩa xã hội thường xuyên tìm cách ngăn cản và chống phá sự nghiệp xây dựng chế độ XHCN ở nước ta.
Nếu không xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ thì dẽ bị lệ thuộc, bị các thế lực xấu, thù địch lợi dụng vấn đề kinh tế để lôi kéo, hoặc khống chế, hoặc ép buộc chúng ta thay đổi chế độ chính trị, đi lệch quỹ đạo CNXH. Nói cách khác có xây dựng được nền kinh tế độc lập tự chủ thì mới tạo được cơ sở kinh tế, cơ sở vật chất-kỹ thuật của chế độ chính trị độc lập tự chủ. Độc lập tự chủ về kinh tế là nền tảng vật chất cho sự đảm bảo độc lập tự chủ bền vững về chính trị. Không thể có độc lập tự chủ bền vững về chính trị nếu bị lệ thuộc về kinh tế. Độc lập tự chủ về kinh tế được đặt trong mối quan hệ biện chứng với độc lập tự chủ về các mặt khác sẽ tạo ra sự độc lập tự chủ và sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia.
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ được đặt trong mối quan hệ biện chứng với việc đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc té mở rộng, giao lưu với các nền kinh tế là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi. Nói một cách chung nhất, nền kinh tế có thể tự thân vận động, sử dụng và phát huy nội lực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, không bị lệ thuộc vào bất cứ ai, thế lực nào, có khả năng đối phó và đứng vững trước những thách thức và tác động tiêu cực từ bên ngoài.
Xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ, đa phơng hóa, đa dạng hóa các mối liên kết và hợp tác kinh tế đòi hỏi phải kiên quyết và kiên nhẫn, không chạy theo lợi ích trớc mắt, không bị mua chuộc lừa phỉnh; sáng suốt tính toán, đồng thời cũng phải khẩn trơng sớm phân tích tình hình có sự quyết đoán, chính xác, không để thời gian thẩm định, xin cấp giấy phép kéo dài làm nản lòng ngời đầu tư. Kinh tế là một mặt trận, phải đào tạo bồi dỡng các chiến sĩ trên mặt trận đó thành những chiến sĩ trung thành vô hạn, trung thực và khôn ngoan, không vụ lợi, không vì đồng tiền, vì lợi ích cá nhân mà quên lợi ích của Tổ quốc.
Vậy, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và quan điểm toàn vẹn sẽ giúp chúng ta có một cái nhìn khái quát toàn vẹn về một số vấn đề đang tồn tại.
Tuy vậy ta cũng cần thấy rằng, thế của ta đang lên, nhưng thực lực của chúng ta chưa đủ mạnh. Nền kinh tế của ta có mức tăng khá, nhưng vẫn đứng trước nhiều thử thách ; lực cản từ bên ngoài vẫn cò trong khi tồn tại từ bên trong như tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cửa quyền chưa được xoá bỏ…, đó chính là những cản trở đối với việc phát huy nội lực và hội nhập. Bên cạnh những thành tựu của công cuộc đổi mới, vẫn tồn tại những khó khăn và thách thức, bên cạnh những thời cơ, vẫn còn tồn tại những nguy cơ.
Chương II: Thực trạng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
1. Những tác động của xu thế toàn cầu hoá tới quan hệ quốc tế và tình hình thế giới:
Xu thế toàn cầu hoá tác động sâu sắc tới mối quan hệ quốc tế và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của các nước, trong đó có nước ta. Có thể tính đến một số tác động sau:
Trước nhu cầu phát triển, nắm bắt khả năng tận dụng những mặt tích cực của quá trình toàn cầu hoá , các nước trên thế giới đều có thiên hướng từ bỏ chính sách đóng cửa, chuyển sang chính sách mở cửa với bên ngoài để đẩy mạnh xuát khẩu, tranh thủ vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý để phát triển. Ngay những nước lâu nay vốn khép kín cũng từng bước điều chỉnh chính sách theo hướng này.
Bên cạnh quan hệ song phương, quan hệ đa phương ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ quốc tế, xuất hiện nhiều cơ cấu hợp tác trên mọi tầng nấc: tiểu vùng, khu vực, đại khu vực và toàn cầu ra. ở tiểu vùng là các tam tứ giác, các chương trình hợp tác phát triển. ở khu vực là các khu vực mậu dịch-đầu tư tự do. ở các châu lục như châu Mỹ, châu á-TBD, châu Phi xuất hiện các khu vực mậu dịch tự do hoặc diễn đàn hợp tác toàn châu lục. Trên phạm vi toàn cầu có các tổ chức như WTO, WB, IMF, OECD, G-8…
Những quan hệ nói trên đã làm nên một mạng quan hệ quốc tế đan xen nhau làm gia tăng thêm tính tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Tuy nhiên, các chủ thể tham gia quá trình toàn cầu hoá đều có lợi ích riêng, độc lập với nhau, thậm chí đối nghịch nhau, từ đó trong quan hệ kinh tế quốc tế luôn luôn tồn tại hai chiều hướng: hợp tác và cạnh tranh
Thời đại chúng ta đang sống là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi thế giới . Các lực lượng tham gia vào quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế bao gồm hàng trăm dân tộc và các nhà nước khác nhau: các nước tư bản phát triển, các nước đang phát triển, các nước đi theo định hướng XHCN.
2. Từng bước tham gia vào quá trình toàn cầu hoá, nước ta khi tiến hành hội nhập luôn đứng trước cả những thách thức và cơ hội:
Những cơ hội có thể thấy rõ là : Thứ nhất, hội nhập quốc tế cũng là quá trình chuyển giao những tiến bộ về khoa học công nghệ, về tổ chức quản lý và sản xuất kinh doanh. Thứ hai, nó sẽ mang lại những nguồn lực rất quan trọng, rất cần thiết cho các nước, từ nguồn vốn vật chất đến nguồn vốn tri thức và kinh nghiệm ; từ chiến lược dài hạn đến kế hoạch ngắn hạn, cả cách thức tiến hành các quá trình hoạt động kinh tế ở tầm vĩ mô của quốc gia lẫn tầm vi mô của từng doanh nghiệp, giúp các nước có thể tạo lập được vị trí của mình trong quan hệ quốc tế. Thứ ba là, mở rộng được thị trường và nhận được ưu đãi về thương mại.
Mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đa lại những lợi ích mà còn đặt nớc ta trớc nhiều thách thức, nếu chúng ta không có biện pháp ứng phó tốt để vợt qua thì sự thua thiệt cả về kinh tế và xã hội có thể rất lớn; ngợc lại, nếu chúng ta có chiến lợc thông minh, chính sách khôn khéo, thì sẽ hạn chế đợc thua thiệt, dành đợc lợi ích nhiều hơn cho đất nớc.
Thách thức đầu tiên mà nhiều người lo ngại nhất hiện nay là, do tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực, nước ta phải giảm dần thuế quan và dỡ bỏ hàng rào phi thuế quan, thì hàng hóa nước ngoài sẽ ào ạt đổ vào nước ta, chèn ép nhiều đơn vị sản xuất kinh doanh trong nước, kéo theo hệ quả xấu về việc làm, thu nhập và đời sống của người lao động. Với lo ngại đó, nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp trung bình và yếu kém, thường đòi hỏi Nhà nước thi hành chính sách bảo hộ càng lâu càng tốt.
Tuy nhiên, nếu đứng từ góc độ lợi ích toàn cục và lâu dài của quốc gia mà xem xét, thì Nhà nớc không thể và không nên đáp ứng đòi hỏi nêu trên của các doanh nghiệp đó đợc. Bởi lẽ, một là, Việt Nam có nghĩa vụ thực hiện các cam kết về tự do hóa thương mại vào các mốc 2006 và 2020 khi đã tham gia AFTA và APEC, cũng như các cam kết khác khi được kết nạp vào WTO.
Hai là, việc thi hành chính sách bảo hộ mậu dịch luôn là "con dao hai lưỡi". Một chính sách bảo hộ có chọn lọc, có điều kiện, có thời hạn thì sẽ kích thích các nhà sản xuất trong nước khẩn trương đổi mới, tích cực vươn lên để có sức cạnh tranh mạnh hơn. Trái lại, một chính sách bảo hộ quá mức thì rất có thể trở thành "gậy ông đập lưng ông", gây thiệt hại cả về kinh tế và xã hội. Một tài liệu nghiên cứu gần đây cho biết: "Việc hạn chế định lượng nhập khẩu xi măng làm cho giá xi măng thông dụng cao hơn giá xi măng nhập khẩu chưa có thuế là 50% (khoảng 20-22 USD/tấn). Toàn bộ xã hội phải trả thêm 220 triệu USD (11 triệu tấn x 20 USD) năm 1999 để bảo hộ cho ngành sản xuất xi măng, trong đó có gần 112 số tiền vào túi các nhà đầu tư nước ngoài. Số tiền đó tương đương với khoảng 40% ngân sách giáo dục của cả nước, gấp gần 4 lần ngân sách khoa học - kỹ thuật".
Thách thức thứ hai, một thách thức rất nhạy cảm và hệ trọng được đặt ra là phải làm sao giữ được độc lập, tự chủ trong tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Không ít ý kiến cho rằng, nớc ta hiện nay với xuất phát điểm kinh tế thấp, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, thị trường phát triển chưa đồng bộ, một bộ phận đáng kể của nền kinh tế chưa thoát khỏi lối sản xuất hàng hóa nhỏ, công nghệ lạc hậu, năng suất lao động thấp, sức cạnh tranh kém, trong khi các nước đi trước, nhất là các cường quốc tư bản phát triển có lợi thế hơn hẳn về nhiều mặt, do đó nếu chúng ta mở rộng quan hệ với các nước đó, thì nước ta khó tránh khỏi sẽ bị lệ thuộc về kinh tế, và từ chỗ lệ thuộc kinh tế mà có thể đi đến chỗ không giữ vững đợc quyền độc lập, tự chủ nữa. Để hóa giải vấn đề này cần có cách nhìn nhận theo quan điểm mới: trước hết, cần nhận rõ độc lập, tự chủ về thực chất là mỗi nước tự lựa chọn con đường và mô hình phát triển của mình, tự quyết định các chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội, tự đề ra mục tiêu chiến lược và kế hoạch trong từng thời kỳ và các biện pháp thực hiện những mục tiêu đó. Nhưng độc lập, tự chủ hoàn toàn không có nghĩa là đóng cửa với thế giới.
Một thách thức nữa không kém phần quan trọng được đặt ra đối với chúng ta trong tiến trình mở cửa và hội nhập quốc tế là làm sao giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, đảm bảo cho sự phát triển hài hoà và lành mạnh của đất nước. Đây không chỉ là nỗi lo riêng của chúng ta mà còn là nỗi lo chung của nhiều nước khác trên thế giới. Bởi lẽ, thông qua các "siêu lộ" thông tin với mạng Iternet, xu thế toàn cầu hóa và tiến trình hội nhập quốc tế, một mặt, tạo điều kiện thuận lợi chưa từng có để các dân tộc, các cộng đồng người ở mọi chân trời gốc biển có thể nhanh chóng trao đổi với nhau về hàng hóa, dịch vụ, kiến thức, phát minh, sáng chế, dữ kiện... qua đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, phát triển khoa học và công nghệ. mở mang sự hiểu biết về các nền văn hóa của nhau; mặt khác, quá trình trên cũng làm nẩy sinh mối nguy cơ ghê gớm về "sự đồng nhất hóa các hệ thống giá trị và tiêu chuẩn, đe doạ làm suy kiệt khả năng sáng tạo của nền văn hóa, nhân tố hết sức quan trọng đối với sự tồn tại lâu dài của cả nhân loại".
2.2. Những nguyên tắc nhất quán chủ động quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đối với Đảng và Nhà nước ta:
Đối với nước ta, Đảng và Nhà nước đã sớm có chủ trương hội nhập, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại. Thực hiệnc hủ trương đó, chúng ta đã gia nhập ASEAN/AFTA, APEC, ASEM và ký hiệp định thương mại Việt - Mỹ, tiến hành đàm phán gia nhập WTO, như vậy, chúng ta đã và đang tiến hành việc hội nhập và nay là tiếp tục chứ không phải là công việc mới mẻ. Tuy nhiên, trong hoạt động thực tế vẫn còn tồn tại những băn khoăn, những quan niệm khác nhau về mục đích, lộ trình, kết quả của hội nhập kinh tế quốc tế. Chính vì thế cần phải có những nguyên tắc nhất quán chỉ đạo quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Những nguyên tắc đó là:
Thứ nhất, chủ động hội nhập phải bảo đảm giữ vững độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm vững chắc anh ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Việc chủ động tham gia phải dựa trên cơ sở có một tiềm năng nhất định, được chuẩn bị ở một mức độ nhất định, có mọt tư thế và vị trí nhất định. Chủ động cũng bao hàm cả sự tự tin, có đường đi nước bước, không vội vàng hấp tấp nhưng không chậm chạp để lỡ thời cơ. Chủ động cũng còn là sự biết người biết ta, là việc nắm vững tình hình trong nước và quan hệ kinh tế đối ngoại. Chủ động mang tính tích cực nhưng có bản lĩnh, mang tính thận trọng nhưng quyết đoán không để mất thời cơ.
Như vậy, tham gia hội nhập quốc tế là để phát triển đất nước, phục vụ coh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hội nhập để nuôi dưỡng, làm sức mạnh bên trong, bảo vệ an ninh Tổ quốc và định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển. Trong quá trình hội nhập về kinh tế, không thể không tính đến những quan hệ văn hoá xã hội, sao cho hội nhập mà không bị hoà tan, mở cửa nhưng không tự đánh mất mình và rơi vào vòng phụ thuộc, nô lệ. Hội nhập quốc tế được thực hiện trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bọ của nhau.
Thứ hai, hội nhập quốc tế phải dựa trên cơ sở vững vàng về chính trị, ổn định về xã hội, không ngừng phát huy nội lực, phát triển nền kinh tế, nâng cao khả năng cạnh tranh của cả nền kinh tế đất nước, của từng ngành và của mỗi doanh nghiệp. Mỗi hội nhập, quan hệ kinh tế với bên ngoài, phải đảm bảo vững chắc những tiền đề bên trọng. Đó là Đảng lãnh đạo, hệ thống chính trị vững vàng, toàn dân đồng lòng chung sức xây dựng và bảo vệ đất nước, xã hội ổn định. Tăng cường sức mạnh và tiềm lực kinh tế, phát triển kinh tế toàn diện ở tầm vĩ mô, đồng thời chú trọng đến từng cơ sở, từng doanh nghiệp tham gia hợp tác kinh tế, xuất khẩu hoặc liên doanh, sao cho mỗi ngành, mỗi doanh nghiệp đều phải có sự chuẩn bị tốt, bảo đảm có thể cạnh tranh thắng lợi, bảo đảm phát triển bền vững.
Thứ ba, trong quá trình hội nhập phải kiên trì và giữ vững phương châm bình đẳng cùng có lợi, bảo vệ lợi ích quốc gia. Theo phương châm này, một mặt, cần kiên quyết không để nước ta bị thiệt thòi về lợi ích mà lẽ ra phải được; mặt khác, phải chấp nhận chia sẻ lợi ích hợp lý với các đối tác. Cũng theo phương châm này, trong hợp tác cấn nắm vững nguyên tắc vừa hợp tác, vừa đấu tranh.
Cùng với việc tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức quản lý, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất kinh doanh tốt hơn, chúng ta phải tiếp tục đổi mới doanh nghiệp Nhà nước nhằm hình thành những doanh nghiệp đủ mạnh kinh doanh có hiệu quả, làm nòng cốt cho hợp tác kinh tế. Đồng thời các doanh nghiệp của chúng ta cũng phải liên kết với nhau hình thành sức mạnh cộng đồng các doanh nghiệp để bảo vệ lợi ích của nhau và bảo vệ lợi ích quốc gia, không để cho bên ngoài lợi dụng cạnh tranh trong nước để chia rẽ hoặc cạnh tranh khu vực để "đục nước béo cò" thu lợi.
Thứ ta, thực hiện nhất quán phương châm đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ quốc tế, không để bất cứ quốc gia nào, tập đoàn kinh tế nước ngoài nào chiếm vị trí độc quyền ở bất cứ lĩnh vực nào trong nền kinh tế nước ta. Ngược lại, phải bằng mọi cách tạo ra sự cạnh tranh ngay giữa các đối tác nước ngoài khi kinh doanh ở nước ta để tạo lợi thế giúp các doanh nghiệp Việt Nam phát triển. Đa dạng hoá, đa phương hoá là phương cách hữu hiệu để đảm bảo sự an toàn trong hội nhập, là nhân tố thích hợp để chúng ta có thể lợi dụng mâu thuẫn giữa các đối tác và tranh thủ sự ủng hộ của từng đối tác. Đây cùng là một yếu tố quan trọng để ta giành thế chủ động, sử dụng linh hoạt các đối tác khác nhau nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển cũng như bảo đảm lợi ích cho đất nước.
Thứ năm, phải luôn luôn đề cao cảnh giác, không mơ hồ trước những âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng quan hệ kinh tế để xâm nhập, thực hiện "diễn biến hoà bình", phá hoại, lật đổ chế độ. Thực tiễn cho thấy, điều cơ bản có tính quyết định bảo đảm an ninh quốc gia là niềm tin, sự gắn bó của dân với Đảng, với Nhà nước tạo thành sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết dân tộc vững chắc. Điều cần thấy rõ là, khi đẩy mạnh quan hệ hợ tác kinh tế với Mỹ và phương Tây có thể sẽ nảy sinh những vấn đề mới, phức tạp có liên quan đến an ninh. Đặc biệt coi trọng những ngành, những vùng thuộc chiến lược an ninh quốc gia, những vị trí trọng yếu của quốc phòng. Việc phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế, khoa học kỹ thuật sẽ góp phần quan trọng làm tăng tiềm lực quốc phòng, an ninh. Mặt khác, quan hệ tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế cũng như sự đan xen lợi ích giữa nước ta với các nước và các tổ chức, các công ty nước ngoài khi thực hiẹn các quá trình kinh tế tuy có phức tạp nhưng nếu biết xử lý tốt cũng tạo ra yếu tố góp phần bảo vệ an ninh và chủ quyền quốc gia.
3. Hệ quả tích cực và tiêu vực của toàn cầu hoá.
3.1. Hệ quả tích cực.
a. Toàn cầu hoá thúc đẩy sự phát triển và xã hội hoá các lực lượng sản xuất đem lại sự tăng trưởng kinh tế cao.
- Toàn cầu hoá làm tăng nhanh tổng sản lượng thế giới: ngày nay tổng sản phẩm của thông tin ước tính khoảng 30.000 tỷ USD, gấp 23 lần tổng sản phẩm thế giới vào cuối những năm 50 của thế kỷ XX (1.300 tỷ USD).
- Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế toàn cầu có những thay đổi cơ bản. Nếu năm 1960, nông lâm thuỷ sản chiếm 10,4%; cây công nghiệp chiếm 28,1% và dịch vụ chiếm 50,4% thì đén năm 1990, cơ cấu GDP của thế giới tương ứng đã là 4,4%, 21,4% và 62,4%.
- Sự liên kết thị trường thế giới thành một hệ thống hữu cơ ngày càng tăng, với tốc độ tăng trưởng cao hơn nhiều lần tốc độ tăng trưởng sản xuất.
- Hệ thống thông tin toàn cầu phát triển nhanh chóng, kết nối các vùng địa lý trên trái đất vào một hệ thống, góp phần tác động có hiệu quả vào các quá trình kinh tế - xã hội - chính trị.
b. Toàn cầu hoá thúc đẩy quá trình tự do hoá thương mại.
- Toàn cầu hoá thúc đẩy quá trình tự do hoá thương mại sẽ làm giảm hoặc huỷ bỏ các hàng rào thương mại làm cho hàng hoá của mỗi nước có thị trường tiêu thụ quốc tế rộng hơn, do đó kích thích sản xuất phát triển. Nhờ đó sẽ thúc đẩy phân công lao động quốc tế theo hướng chuyên môn hoá, làm cho các nguồn lực ở mỗi nước và trên thế giới được sử dụng hợp lý và có hiệu quả cao hơn.
- Tự do hoá thương mại đặt ra cho các doanh nghiệp phải tiến hành những cải cách sâu rộng để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả kinh tế, phát huy lợi thế của mình và hạn chế những rủi ro, thách thức trong cuộc cạnh tranh quốc tế khốc liệt.
c. Toàn cấu hoá gia tăng các luồng chuyền giao vốn và công nghệ.
Toàn cầu hoá làm gia tăng các hoạt động đầu tư quốc tế, chủ yếu là FDI, với những đặc điểm chính là luồng vốn đầu tư ngày càng tăng; chủ thể đầu tư và chủ thể thu hút đầu tư ngày càng đa dạng; lượng lưu động vốn cho vay tăng rất nhanh; tự do hoá đầu tư trở thành mục tiêu chính sách đầu tư quốc tế của tất cả các nước.
Toàn cầu hoá thực hiện chuyển giao trên qui mô ngày càng lớn những thành tựu của khoa học công nghệ, tổ chức, quản lý, kinh nghiệm kinh doanh, sản xuất cho các nước được đầu tư phát triển.
d. Toàn cầu hoà củng cố và tăng cường các thể chế quốc tế, thúc đẩy sự xích lại gần nhau giữa các dân tộc.
Cùng với sự phát triển của quá trình toàn cầu hoá, các thể chế quốc tế ngày càng được tăng cường để đảm bảo điều tiết và quản lý các quan hệ quốc tế.
Chính nhờ toàn cầu hoá liên kết các nước lại với nhau, làm tăng sự tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước về nhiều mặt, nên lợi ích của mỗi quốc gia gắn với lợi ích của nhiều quốc gia. Hơn nữa các thể chế quốc tế cũng ràng buộc lợi ích và nghĩa vụ của các quốc gia. Tất cả những điều nói trên giúp hạn chế những hành vi dễ gây xung đột giữa cá nước, góp phần duy trì hoà bình và an ninh quốc tế.
Qua quá trình giao lưu quốc tế, sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc thuộc các châu lục giữa con người với con người càng được tăng cường; thông tin cập nhật khắp các vùng và góp phần tác động nhanh chóng đến mọi sự kiện trên thế giới.
3.2. Hệ quả tiêu cực.
a. Toàn cầu hoá mở rộng thêm khoảng cách giàu nghèo, trong từng nước và giữa các nước.
Các mối lợi thu được từ toàn cầu hoá kinh tế được phân phối không đồng đều và không công bằng. Các quốc gia phát triển có lợi thế thường thu lợi nhiều trong kinh tế, thương mại...
Tất cả những thành tựu của toàn toàn cầu hoá kinh tế trong mấy thập kỷ qua không những không thu hẹp mà còn làm doãng ra khoảng cách về mức sống và trình độ phát triển kinh tế, khoa học công nghệ giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển; làm trầm trọng sự bất công trong xã hội; đào sâu hố ngăn cách giàu nghèo trong từng nước. Về nhiều mặt, dân chúng ở 85 đang phát triển hiện có mức sống thấp hơn so với cách đây 10 năm và toàn thế giới hiện nay vẫn còn hơn 1 tỷ người nghèo.
b. Toàn cầu hoá tạo nên sự thách thức mới đối với nền độc lập, chủ quyền quốc gia; làm xói mòn quyền lực Nhà nước - dân tộc.
- Toàn cầu hoá làm thay đổi khái niệm độc lập và chủ quyền quốc gia, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế. Toàn cầu hoá làm suy yếu chức năng kinh tế của Nhà nước dân tộc.
- Chủ quyền quốc gia bị hạn chế một cách tương đối, tính độc lập của các quốc gia bị giảm dần; nhiều quyền lực của Nhà nước bị xói mòn, các chính phủ không còn quyền độc lập tuyệt đối trong việc hoạch định chính sách vì nhiều vấn đề vượt khỏi tầm kiểm soát của Nhà nước (các luồng di chuyển vốn, các luồng thông tin, các tập đoàn xuyên quốc gia, môi trường, sinh thái...).
c. Toàn cầu hoá làm cho nhiều mặt hoạt động và đời sống của con người trở nên kém an toàn, từ an toàn kinh tế, tài chính, văn hoá, xã hội, môi trường đến an toàn chính trị.
Cuộc khủng hoảng tài chính ở Đông á 1997-1998 đã ảnh hưởng nghiêm trọng, kéo dài và toàn diện đến các nước này. Tính không an toàn trong đời sống kinh tế gia tăng: sự đổ vỡ nhiều ngành sản xuất và phá sản hàng loạt xí nghiệp; lạm phát và thất nghiệp gia tăng. Nền sản xuất phải cơ cấu lại, những thể chế bảo hộ xã hội bị phá bỏ. Tệ nạn xã hội gia tăng, đặc biệt là khi nền kinh tế lâm khủng hoảng, các tệ nạn ma tuý, mãi dâm, HIV lan tràn.
Toàn cầu hoá làm gia tăng giao lưu quốc tế trong đời sống văn hoá tinh thần. Nhiều tinh hoa văn hoá của các dân tộc được truyền bá, sự thâm nhập lẫnh nhau của các nền văn minh thúc đẩy tiến bộ xã hội. Song do lợi thế của các nước có nền kinh tế mạnh, nên ảnh hưởng của các nước này đối với các nước đang phát triển rất mạnh. Vì vậy, nhiều giá trị riêng của các dân tộc, đặc biệt là của cá nước đang phát triển bị xói mòn; nhiều truyền thống dân tộc bị huỷ hoại, các quan hệ gia đình bị phá vỡ.
4. Thực trạng nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
4.1. Những kết quả đã đạt được.
Những kết quả của công cuộc đổi mới đạt được trong 10 năm qua có thể nói là chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. ở phần trên cũng đã nói đến một phần nào đó thành tự mà Việt Nam đã đạt được thông qua các giải pháp được áp dụng trong công cuộc đổi mới kinh tế, phần này muốn tập trung phân tích các kết quả của công cuộc đổi mới trên ba lĩnh vực: tốc độ tăng trưởng, chuyển đổi cơ cấu kinh tế và các vấn đề xã hội.
Trước hết phải kể đến mức tăng trưởng cao.
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) trong thời kỳ 1991 - 2000 đã tăng bình quân hàng năm là 7,4%, theo đó tổng giá trị GDP đạt gấp đôi năm 1990, GDP theo đầu người tăng 1,8 lần.
Nông nghiệp đạt tốc độ tăng trường khá và toàn diện trên lĩnh vực. Giá trị sản lượng toàn ngành tăng bình quân hàng năm 5,6%. Trong đó nông nghiệp tăng 5,4%, thuỷ sản tăng 9,1%, lâm nghiệp tăng 2,1%.
Nổi bật nhất là sản lượng lương thực tăng bình quân mỗi năm 1,1 triệu tấn. Sản lượng lương thực năm 2000 đạt 3,4 triệu tấn, đa mức lương thực bình quân đầu người từ 294,9kg năm 1990 lên trên 436kg năm 2000. Việt Nam từ nước nhập khẩu lương thực hàng năm, trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới.
Sản lượng của một số cây công nghiệp trong thời kỳ 1999 - 2000 đã tăng khá cao: cà phê tăng 4,7 lần, cao su 4,5 lần, chè tăng 2 lần, mía kinh tếăng 3 lần, bông tăng 9,7 lần.
Sản lượng thuỷ văn tăng bình quân trong 10 năm là 8,85%: Giá trị sản lượng công nghiệp tăng bình quân 10 năm qua là khoảng 12,8% - 13%/năm.
Công nghiệp chế biến đã có tốc độ tăng trưởng khá và đã chiếm tới 60,6% giá trị toàn ngành công nghiệp năm 1999.
Dầu khí có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong toàn ngành công nghiệp. Sản lượng dầu thô năm 2000 đã tăng gấp 6 lần so với nưm 1990.
Sản lượng điện phát ra năm 2000 so với năm 1990 đã tăng gấp 3 lần, sản lượng thép cán gấp 16 lần, xi măng gấp 5,3 lần, phân hoá học 4,2 lần, giầy dép da 14,9 lần, giày vải 4,9 lần, bột giặt 4,6 lần, đường 3,6 lần, bia 7,3 lần…
Giá trị sản phẩm công nghiệp xuất khẩu tăng trung bình hàng năm là 20%.
Các ngành dịch vụ đã tăng trưởng nổi bật trong các ngành thương mại, du lịch, bưu chính viễn thông.
Giá trị hàng hoá bán ra trên thị trường trong nước năm 1999 đã gấp 11,3 lần năm 1990.
Khách du lịch quốc tế từ 1992 đến 1997 đã tăng bình quân hàng năm là 26,5%. Mật độ điện thoại năm 1999 đã tăng 13,8 so với năm 1991 và là nước có tốc độ phát triển viễn thông đứng thứ hai thế giới.
Vận chuyển hàng hoá tăng bình quân trong 10 năm qua là 9,2%, vận chuyển hành khách 14,25%.
Hoạt động xuất khẩu cũng có mức tăng trưởng nổi bật. Tổng kim ngạch xuất khẩu 10 năm qua đã tăng bình quân hàng năm 18,2%, tăng gấp 5,3 lần so với năm 1990. Tốc độ tăng trưởng giá trị nhập khẩu bình quân hàng năm 10 năm qua là 17,5%. Tổng giá trị xuất nhập khẩu năm 2000 đã tương đương tổng GDP.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã tăng rất đáng kể. Tính đến quý I nămk 1999 đã có 2624 dự án được cấp giấy phép đầu tư với tổng vốn đăng ký là 35,8 tỷ USD, nếu tính cả vốn bổ sung là 40,3 tỷ USD. Trong 10 năm qua, vốn FDI đã chiếm khoảng 28% tổng vốn đầu tư toàn xã hội.
Thứ hai, cơ cấu kinh tế đã có những chuyển biến tích cực. Tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp trong GDP đã giảm từ 38,7% năm 1990 xuống còn 25,4% năm 1999; công nghiệp và xây dựng đã tăng từ 22,6% lên 34,9%; dịch vụ từ 35,7% lên 40,1%.
Trong nông nghiệp, cơ cấu cây trồng và vật nuôi được dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng một số cây công nghiệp và ăn quả có tiềm năng xuất khẩu và sức cạnh tranh quốc tế như cà phê, điều, chè, tiêu, rau quả, cao su… tốc độc phát triển chăn nuôi tăng nhanh hơn trồng trọt.
Trong công nghiệp, các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao đã được xây dựng, nhiều ngành công nghiệp mới đã được hình
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35404.doc