Trong những năm qua xuất khẩu của Việt nam đã có những bước tiến đáng kể .Cơ cấu xuất khẩu cũng sự thay đổi .Tổng kim ngạch xuất khấu 11 tháng năm 2000 ước đạt 12.982 triệu USD , tăng 25% so với cùng kỳ năm trước ,và kim ngạch xuất khẩu 9 tháng năm 2001 ước đạt 11.656 triệu USD .Như vậy trong những năm qua kim ngạch xuất khẩu đã có sự tăng mạnh và đóng góp rất lớn cho nền kinh tế .Bảng kê dưới đây cho biết chi tiết hơn về một số mặt hàng xuất khẩu chính của nước ta.
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1380 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt nam và các giải pháp marketing nhằm thâm nhập và mở rộng thị trường của các công ty kinh doanh quốc tế Việt Nam trong giai đoạn thương mại quốc tế hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ả thì phải tận dụng được lợi thế là lao động có số lượng lớn ,trình độ giá nhân công rẻ ,Chính vì vậy ở nước ta chủ trương phát triển ngành nghề cần nhiều lao động .sản xuất hàng xuất khẩu thu hút hàng triệu lao động vào làm việc tạo điều kiện cho họ có thu thập cao.
Ngoại tệ thu được từ xuất khẩu dùng để nhập khẩu các vật phẩm tiêu dùng đáp ứng nhu cầu đa dạng và phong phú nhu cầu tiêu dùng của nhân dân.
Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan hệ kinh tế đối ngoại.
Xuất khẩu và các mối quan hệ kinh tế có sự tác động qua lại lẫn nhau . hoạt động xuất khẩu là một hoạt động chủ yếu và là hình thức ban đầu của hoạt động kinh tế đối ngoại , từ đó nó thúc đẩy các mối quan hệ khác phát triển theo như : du lịch quốc tế ,bảo hiểm quốc tế , tín dụng quốc tế ... Ngược lại sự phát triển của các ngành này lại là điều kiện cho hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu nói riêng và ngoại thương nói chung dẫn đến sự thay đổi của những hàng hoá có thể tiêu dùng được trong nền kinh tế bằng hai cách :
Cho phép khối lượng hàng tiêu dùng khác so với số hàng hàng hoá được sản xuất ra .
Cho phép một sự thay đổi có lợi ích phù hợp với các đặc điểm của sản xuất .
1.2.2 Đối với các doanh nghiệp
Ngày nay ,xu hướng vươn ra thị trường nước ngoài là một hướng chung của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp. Chính vì vậy mà việc xuất khẩu các hàng hoá ,dịch vụ có vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp.
Xuất khẩu tạo điều kiện chủ yếu cho doanh nghiệp mở rộng thị trường.Thông qua xuất khẩu ,doanh nghiệp mở rộng việc tiêu thụ sản phẩm .Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp trực tiếp tham gia vào thị trường thế giới,mở rộng quan hệ kinh doanh đối với các bạn hàng trong và ngoài nước.
Xuất khẩu là biện pháp chủ yếu để tăng lợi nhuận .các sản phẩm của doanh nghiệp khi đem xuất khẩu đều là sản phẩm có chất lượng cao , đạt tiêu chuẩn nhất định ,hình thức mẫu mã đẹp .Thông thường thì mẫu một mặt hàng xuất khẩu bao giờ cũng cao hơn giá mặt hàng đó khi tiêu thụ trong nước . Do đó qua xuất khẩu , nhất là xuất khẩu trực tiếp thì doanh nghiệp có thể thu lợi nhuận nhiều hơn , nhờ vào đó mà doanh nghiệp có cơ sở để tăng lợi nhuận .
Xuất khẩu buộc các doanh nghiệp phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản trị kinh doanh ,đồng thời có ngoại tệ để đầu tư lại quá trình sản xuất không những cả về chiều sâu mà cả về chiều rộng .Thêm vào đó hoạt động xuất khẩu còn khuyến khích sự phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp như: hoạt động đầu tư nghiên cứu và phát triển , hoạt đông sản xuất ,markting và sự phân phối ,sự mở rộng trong việc cấp giấy phép...
2 Qúa trình xuất khẩu hàng hoá của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt nam.
2.1 khái quát chung .
Quá trình xuất khẩu bao gồm rất nhiều giai đoạn khác nhau từ việc nghiên cứu thị trường ,lựa chọn khách hàng tiến đến giao dịch và ký kết hợp đồng xuất khẩu .
2.1.1 Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của quá trình xuất khẩu .
Hiệu quả là một phạm trù phân cầu của quản lý tiết kiệm thời gian .Quy luật này hoạt động trong nhiều phương thức sản xuất xã hội ,vì vậy quy luật này cũng tồn tại trong nhiều phương thức sản xuất .Trong phân tích kinh tế ,hiệu quả kinh tế được phản ánh thông qua các đặc trưng kinh tế kỹ thuật được khẳng định bằng tỷ lệ so sánh giữa đầu ra và đầu vào của hệ thống sản xuất xã hội .Ngoài ra nó còn phản ánh được trình độ sử dụng các nguồn lực vào việc tạo ra lợi ích nhằm đạt được mục tiêu kinh tế xã hội.
Với các doanh nghiệp , hiệu quả của hoạt động xuất khẩu là việc hoàn thành các chỉ tiêu của kế hoạch đã đề ra .Các chỉ tiêu đó có thể là lợi nhuận , thị phần thế lực kinh doanh , uy tín kinh doanh của doanh nghiệp các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn.Dưới đây là một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của tình hình xuất khẩu
2.1.2 Lợi nhuận
Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp , nó phản ánh kết quả cuối cùng cả tất cả các yếu tố về hoạt động xuất khẩu .
Lợi nhuận = doanh thu – chi phí
Doanh thu là số tiền thu được thông qua việc bán hàng hoá hoặc cung cấp dịch vụ trong một khoảng thời gian nhất định.
Chi phí là những phí tổn mà doanh nghiệp phải bỏ ra khi sản xuất hàng hoá hoặc dịch vụ trong một khoảng thơì gian .
Tuy nhiên bản thân lợi nhuận cũng chưa nói lên được một cách chi tiết về hoạt động kinh doanh của công ty, bởi nếu chỉ có lợi nhuận thì chúng ta không thể biết được rõ về hoạt động kinh doanh .Do đó cần xem xét thêm một số các chỉ tiêu khác.
Chỉ tiêu sản xuất hoàn vốn đầu tư
chỉ tiêu này = lợi nhuận ròng /bình quân tổng số tài sản
hay = lợi nhuận ròng /vốn sản xuất
Chỉ tiêu này cho biết nếu bỏ ra một đồng vốn thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận .
2.1.3 Tỷ suất lợi nhuận của tổng chi phí
Tỷ suất lợi nhuận của tổng chi phí=lợi nhuận /tổng chi phí sản xuất
chỉ tiêu này cho biêt để thu được một đồng lợi nhuận thì phải bỏ ra với mức chi phí là bao nhiêu.
2.1.4 Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn lưu động .
HQSDVLĐ=Lợi nhuận /vốn lưu độngHiệu quả vốn lưu động cho biết một đồng vốn làm ra bao nhiêu lợi nhuận trong kỳ .Hiệu quả sử dụng vốn lưu động còn được phản ánh gián tiếp qua các chỉ tiêu luân chuyển vốn lưu động trong một năm hoặc số ngày bình quân mối luân chuyển vốn lưu động
Các chỉ tiêu trên phản ánh mối liên hệ giữa lợi nhận với chi phí thực tế hoặc với nguồn tài chính để tạo ra nó.Hơn nữa nó còn thể hiện được trình độ quản lý nguồn lực kinh doanh của doanh nghiệp trong việc sử dụng các yếu tố trên.
2.2 Các chính sách khuyến khích xuất khẩu
Trong những năm vừa qua tốc độ xuất khẩu của Việt nam là khá cao tuy nhiên vẫn cần thiết phải có các chính sách nhằm tạo lập thêm năng suất xuất khẩu cho một thời kỳ dài .Đại hội đảng lần thứ VIII đã khẳng định đường lối công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu là chủ yếu .Tuy nhiên trên thực tế , nền kinh tế Việt nam cơ bản vấn là nền kinh tế hướng nội thay thế nhấp khẩu .các biện pháp chính sách nào được áp dụng nhằm hướng mạnh nền kinh tế vào xuất khẩu đang còn được bàn luận .Việc chuyển mạnh sang xuất khẩu đang đựơc coi là nội dung cơ bản của việc điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế của Việt nam trong những năm tới đây.Dưới đây là một số chính sách nhằm khuyến khích xuất khẩu .
2.2.1 Xác định các ngành xuất khẩu chủ lực ,chuyển mạnh sang xuất khẩu sản phẩm chế biến .
Việc xác định các ngành xuất khẩu chủ lực có ý nghĩa quan trọng hàng đầu nhằm chuyển nền kinh tế theo hướng xuất khẩu .Mục tiêu có tính chiến lược trong chính sách thương mại Viêt nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước là gia tăng tỷ trọng của hàng chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu .Hiện nay các mặt hàng nông sản và nguyên liệu thô vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu xuất khẩu của Việt nam .Tuy những mặt hàng này có tiềm năng trong sản xuất và xuất khẩu nhưng hiệu quả kinh tế và tác động dài hạn của chúng đối với biến đổi cơ cấu kinh tế là rất hạn chế .
2.2.2 Khuyến khích xuất khẩu thông qua phi qua chế hoá .
Bước tiến mới trong khuyến khích xuất khẩu của Việt nam là phi quy chế hoá hoạt động xuất khẩu . Từ năm 1996 trở về trước , chỉ có một số lượng nhất định các doanh nghiệp thoả mãn các điều kiện về ngành hàng kinh doanh , vốn ,kinh nghiệm quản lý... mới được quyền xuất khẩu trực tiếp . Thông thường đó là các doanh nghiệp Nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân chuyên kinh doanh xuất khẩu cỡ lớn .Ngày 13/01/1997 , thủ rướng chính phủ đã ra quyết định số 28/TTg về điều hành hoạt động xuất khẩu năm 1997 trong đó ghi rõ:”Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình (sản xuất hoặc kinh doanh ) thuộc các thành phần kinh tế , nến có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp được khuyến khích xuất khẩu hoặc nhận uỷ thác xuất khẩu cả những mặt hàng ngoài phạm vi danh mục hàng đã đăng ký trong giấy phép ,trừ những mặt hàng đang được quản lý theo quy chế riêng “ .quyết định này được nới lỏng phạm vi hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp có giấy phép tạo ra sự năng động hơn trong kinh doanh .Tuy nhiên số lượng doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh xuất khẩu chỉ khoảng 1500,vì vậy , để phát huy mọi tiềm năng của các doanh nghiệp hiện có ,chính phủ đang xem xét việc bãi bỏ giấy phép kinh doanh xuất khẩu với những mặt hàng mà Nhà nước không cần quản lý xuất khẩu . Mọi pháp nhân thuộc thành viên kinh tế đều có quyền trực tiếp xuất khẩu .
Việc mở rộng diện các doanh nghiệp được tham gia xuất khẩu là một bước tiến trong phi quy chế hoá .Tuy nhiên trên thực tế điều này có thể gặp phải một số trở ngại khác như chế độ cấp giấy phép , bộ chủ quan ... nghĩa là sự can thiệp quá sâu của bộ máy quản lý Nhà nước vào hoạt động xuất khẩu .Việc đơn giản hoá các thủ tục hành chính , hải quan sẽ giúp cho các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình và mọi thành phần kinh tế tham gia tích cực hơn vào hoạt động xuất khẩu . Một vấn đề khác là không nên phân biệt các doanh nghiệp sản xuất và các doanh nghiệp kinh doanh hàng xuất khẩu .Một khi hướng về xuất khẩu được coi là định hướng lớn của nền kinh tế thì tinh thần này phải được thấm vào mọi doanh nghiệp .Mặt khác nghĩa vụ xuất khẩu đòi hỏi họ phải nâng cao chất lượng sản phẩm , khả năng canh tranh của hàng hoá đó , khuyến khích việc tìm kiếm ngoại tệ để nhập khẩu vật tư thiết bị cần thiết thông qua xuất khẩu .
Một vấn đề khác thuộc lĩnh vực này là Chính phủ đẩy mạnh việc hình thành các khu chế xuất , khu công nghiệp tập trung mở cửa biên giới và chuẩn bị mở các khu mậu dịch tự do.
2.2.3 Các chính sách tài chính tiền tệ khuyến khích xuất khẩu .
Các chính sách tài chính tiền tệ có một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy xuất khẩu ttheo các định hướng đã nên trên.Thực tế trong thời gian qua cho thấy , tiềm năng xuất khẩu không được khai thác có liên quan đến vấn đề tài chính , tiền tệ , đặc biệt là đầu tư trong các ngành sản xuất hàng xuất khẩu . Các chính sách của Việt nam trong lĩnh vực này đang được thực hiên theo hướng:
Tăng cường đầu tư cho các ngành sản xuất hàng xuất khẩu ,chú trọng đặc biệt đối với các ngành chế biến.
Những khuyến khích qua thuế
Những cải cách về thuế của Việt nam gần đây đã bước đầu tạo ra những đòn bẩy thúc đẩy xuất khẩu.Bắt đầu từ cuối năm 1997 ,hầu hết các mặt hàng xuất khẩu không phải chịu thuế ,trừ những mặt hàng theo hạn ngạch hoặc quản lý theo chuyên ngành.
Về thuế lợi tức và thuế doanh thu các ngành sản xuất hàng xuất khẩu được hưởng ưu đãi sau:
Đối với những cơ sở được thành lập ở các vùng không phải trọng điểm được miễn thuế lợi tức trong hai năm đầu và giảm 50% trong 3-4 năm tiếp theo :miễn thuế doanh thu nếu sản phẩm làm ra được xuất khẩu trực tiếp.
Đối với các cơ sở mới thành lập ở các vùng trọng điểm :miễn thuế lợi tức trong vòng 3-4 năm đầu và giảm 50% trong vòng 3-7 năm tiếp theo , miễn thuế doanh thu nếu sản phẩm làm ra được xuất khẩu trực tiếp .
Đối với các cơ sở đầu tư mở rộng quy mô , nâng cao năng lực sản xuất , đổi mới công nghệ : miễn thuế lợi tức cho phần lợi nhuận tăng thêm trong năm tiếp theo do đầu tư mới đem lại ;miễn thuế doanh thu nếu sản phẩm làm ra đước xuất khẩu trực tiếp .
Những ưu đãi về tín dụng cho xuất khẩu
Những chính sách về đối ngoại .Chính sách đối ngoại có tác dụng khuyến khích xuất khẩu thông qua chế độ tỷ giá mua bán ngoại tệ .Cho đến nay , chính sách này về cơ bản vẫn dành ưu đãi cho các doanh nghiệp Nhà nước trong việc xuất khẩu máy móc thiết bị mà chưa ràng buộc về nghĩa vụ xuất khẩu và thành tích xuất khẩu .Vì vậy biện pháp đang được đề nghị là mọi ngoại tệ thu được từ xuất khẩu phải bán cho ngân hàng ,sau khi bán ,doanh nghiệp sẽ được cấp một hoá đơn đặc biệt, xác nhận lượng ngoại tệ đã bán .Biện pháp này không những khuyến khích xuất khẩu mà còn hạn chế được những khoản nhập khẩu bằng tiền không có nguồn gốc xuất khẩu ,hạn chế mức siêu nhập .
II Vai trò và các hoạt động marketing mà công ty đang tiến hành .
1 Vai trò
khi hoạt động marketing nói chung và hoạt động marketing quốc tế nói riêng trở nên phát triển thì cấu trúc tổ chức của công ty kinh doanh quốc tế trở nên phức tạp hơn . sự thay đổi này một phần do mức độ thay đổi của hoạt động marketing quốc tế ngày càng gia tăng . Mặt khác do sự phức tạp của tính đa dạng về quản trị các hoạt động theo khu vực địa lý.
Do kinh doanh thương mại quốc tế nảy sinh hai mâu thuẫn cần giải quyết . Những hoạt động kinh doanh quốc tế tăng trưởng tạo ra những áp lực cần tập trung sự phối hợp , sự liên kết và sự kiểm tra . đồng thời do sự thay đổi và tính phức tạp của môi trường kinh doanh quốc tế , sự cần thiết thích ứng các chiến lược với môi trường đã tạo ra một áp lực phân cấp điều hành ,vì vậy thiết lập cơ cấu tổ chức là một trong những công cụ quản trị để đảm bảo các nguồn lực của công ty đước sử dụng có hiệu quả, đạt được những mục tiêu của mình ,nên phát sinh những vấn đề tổ chức lại các hoạt động của công ty theo định kỳ . Trong nhiều trường hợp , một công ty cần tổ chức lại hoạt động kinh doanh trong nước và quốc tế , phân bố lại các nguồn lực , những mối quan hệ lãnh đạo và điều chỉnh kế hoạch của mình .
Hoạt động marketing là một trong những vấn đề hiện nay các công ty kinh doanh quốc tế đặc biệt quan tâm nó không những tăng cường khả năng xuất khẩu của công ty mà nó còn giúp cho công ty tìm hiểu được thị trường một cách chi tiết hơn cũng như tìm hiểu các đối thủ cạnh tranh ,từ đó có cách tìm ra cho mình những phương thức tốt nhất để có thể làm sao hiệu quả kinh doanh quốc tế là lớn nhất .
Hoạt động marketing quốc tế là chìa khoá cho quá trình ra quyết định một cách chính xác chiến lược của công ty – hầu hết những sai lầm có thể tránh được nếu người ra quyết định có được hiểu biết tốt hơn về thị trường . Thông tin càng trở nên tối quan trọng khi hoạt động của công ty đước mở rộng . Các nguồn thông tin mà các nhà tiếp thị quốc tế có thể tiếp cận được rất đa dạng Những gì chúng ta cần là những dữ liệu chính xác nhất và đáng tin cậy nhất có thể có đước trong giới hạn chi phí về thời gian, tiền bạc và kỹ thật nghiến cứu.
2 Các hoạt động marketing mà công ty đang tiến hành
Phát triển thị trường nước ngoài và giao tiếp -khuyếch trương xuất khẩu .Phát triển thị trường nước ngoài có ý nghĩa đặc biệt quan trọng , trong điều kiện tự do hoá thương mại , sự cạnh tranh trên thị trường thế giới ngày càng trở nên phức tạp ,việc nắm bắt những xu hướng của thị trường , tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt nam xâm nhập vào thị trường thế giới càng trở nên cần thiết .
Giao tiếp – khuyếch trương xuất khẩu ,như chúng ta đã biết giao tiếp khuyếch trương nói chung là các hình thức quảng cáo ,tuyên truyền và bán hàng cá nhân.
Quảng cáo : là hình thức giới thiệu khuyếch trương sản phẩm một các gián tiếp và thông qua các phương tiên truyền thông , được tiến hành và trả tiền bởi một tổ chức nhất định .
Tuyên truyền : là hình thức kích thích nhu cầu và khuyếch trương một cách gián tiếp về hàng hoá , dịch vụ hay bản thân đơn vị kinh doanh do nhận được sự ủng hộ của một bên nào đó qua sự giới thiệu khách quan , có thiện chí của họ trên các phương tiện thông tin đại chúng mà tổ chức không phải trả tiền ; hoặc qua việc thiết lập mối quan hệ thân thiện với các đối tượng công chúng và các tổ chức hữu quan.
Bán hàng cá nhân : là hình thức giới thiệu bằng miệng của nhân viên bán hàng , được thực hiện dưới hình thức các cuộc hôị thảo hay gắp gỡ với một hay một số người mua tiềm năng nhằm mục đích bán đực sản phẩm.
Phần 2
Thực trạng về ngành dệt - may của Việt nam trong thời gian qua
I. Khái quát về tình hình xuất khẩu một số mặt hàng chính của Việt nam hiện nay.
Trong những năm qua xuất khẩu của Việt nam đã có những bước tiến đáng kể .Cơ cấu xuất khẩu cũng sự thay đổi .Tổng kim ngạch xuất khấu 11 tháng năm 2000 ước đạt 12.982 triệu USD , tăng 25% so với cùng kỳ năm trước ,và kim ngạch xuất khẩu 9 tháng năm 2001 ước đạt 11.656 triệu USD .Như vậy trong những năm qua kim ngạch xuất khẩu đã có sự tăng mạnh và đóng góp rất lớn cho nền kinh tế .Bảng kê dưới đây cho biết chi tiết hơn về một số mặt hàng xuất khẩu chính của nước ta.
Tình hình xuất khẩu một số mặt hàng chính của Việt nam
năm 2000 và năm 2001
.
II Thực trạng về tình hình xuất khẩu của ngành dệt -may Việt nam trong thời gian qua
Ngành công nghiệp dệt may Việt nam đã có bước tiến quan trọng , góp phần vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội bức xúc của đất nước ta , tạo nền tảng quan trọng cho sự phát triển mạnh mẽ và có hiệu quả trong năm tới . trong những năm qua , tỷ trọng trị giá sản xuất của ngành công nghiệp dệt may trong tổng trị giá sản xuất công nghiệp không ngừng tăng lên. nếu trong năm 1985 giá trị sản xuất toàn ngành chỉ chiếm 5.4% tổng giá trị sản xuất công nghiệp , thì năm 1999 đã chiếm tới 8,75%
Ngành dệt may là một trong những ngành đóng góp phần quan trọng nhất vào tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam .
Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đứng thứ hai sau xuất khẩu dầu thô . Sự phát triển của ngành còn có tác động tích cực trong việc giải việc làm và thu nhập cho người lao động ,qua đó góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp và ổn định xã hội .Hiện nay , theo thống kê không đầy đủ , ngành dệt may đã thu hút trên 1 triệu lao động , điều đó có ý nghĩa hết sức quan trọng thể hiện tính ưu việt của ngành này khi kinh tế chưa phát triển , khả năng đầu tư giải quyết việc làm còn hạn chế , sự phát triển của ngành dệt may còn có tác động tích cực đến một số ngành khác như tới ngành vận chuyển đối với cơ cấu cây trồng ở một số vùng .
Với sự phát triển của mình , ngành dệt may đã góp phần to lớn vào việc đưa đất nước hội nhập vào đời sống kinh tế quốc tế . Đó là kết quả trực tiếp của việc đổi mới một số chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ . Thực tế ,Chính phủ đã có những giải pháp chính sách cụ thể đảm bảo sự trợ giúp và khuyến khích phát triển đảm bảo đưa nó tới vị trí đã đặt ra .Qua đó góp phần vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội bức xúc trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế và thực hiện công nghiệp hoá -hiện đại hoá đất nước .
Tuy nhiên trình độ công nghệ và năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong các ngành còn rất thấp kém .Điều đó thể hiện qua các khía cạnh sau:
Thứ nhất :tuy có yêu cầu phát triển mạnh , nhưng đến nay ngành dệt may Việt nam vẫn còn nhỏ bé trong khu vực và thế giới .Bảng dưới đây sẽ chứng minh điều này.
Nguồn tổng công ty dệt -may Việt nam 2000
Những số liệu trong bảng cho thấy trong lĩnh vực dệt may , Việt nam chưa phải là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của các nước khác ,không chỉ trên thị trường thế giới mà cả trên thị trường nội địa .Chẳng hạn như , trên thị trường nội địa , mặc dù chính phủ đã áp dụng nhiều biện pháp kinh tế và tài chính nhưng vải và quần áo may sẵn của nước ngoài từ nhiều con đường khác nhau vẫn tràn ngập, đặc biệt là hàng của Trung quốc Với mẫu mã đa dạng mà giá lại rẻ .Trong thương mại quốc tế , sản phẩm dệt may Việt nam Và các nước đều có mặt trên thị trường thế giới nhưng ở một số thị trường thì hãng dệt may Việt nam gặp một số những bất lợi trong thương mại (đặc biệt là vấn đề thuế ) đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi Trung quốc gia nhập WTO ,mặc dù hiệp định Việt - Mỹ có hiệu lực nhưng sức cạnh tranh của hàng hoá nói chung và hàng dệt may nói riêng vẫn còn rất hạn chế
Thứ hai :Việc xuất khẩu của các công ty gia công của các doanh nghiệp may chiếm tỷ trọng lới ,cùng với việc không đảm bảo được nguyên phụ liệu trong nước đã gây ảnh hưởng khá nặng nề tới hiệu quả xuất khẩu .Có thể khẳng định rằng ngành dệt may Việt nam hiện nay vẫn chủ yếu là xuất khẩu lao động sống .Phương thức gia công quốc tế phù hợp với trình độ phát triển thấp của doanh nghiệp ,vì nó đảm bảo việc làm khi ngành này chưa có đủ khả năng xâm nhập vào thị trường thế giới và khả năng về vốn và trình độ công nghệ còn hạn hẹp .song đây là phương thức không thể duy trì lâu dài trong chiến lược của ngành dệt- may bởi lẽ nó sẽ gây nên tình trạng phụ thuộc , bất ổn định trong sản xuất kinh doanh , trong đầu tư của các doanh nghiệp và hiệu quả kinh tế không được đảm bảo .Hơn nữa do chưa có đủ khả năng nguyên liệu và phụ liệu cho sản xuất , chủ yếu phải nhập khẩu từ bên ngoài nên hiệu quẩ sản xuất thấp.
Trong khi ngành dệt may chủ yếu nhập khẩu nguyên liệu , kim ngạch xuất khẩu vải lại rất khiêm tốn .Nếu tính cả xuất khẩu vải bông ,sản phẩm dệt kim và các loại khăn thì kim ngạch chỉ chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may . trong ngành may , phương thức gia công chiếm tỷ trọng lớn và vì hầu hết các nguyên kiệu đều phải nhập khẩu nên giá trị gia tăng nhỏ , thông thường chỉ khoảng 10-20% . Dù biết rằng hiệu quả kinh tế cao , nhưng công nghiệp dệt may Việt nam không xoá bỏ ngay hình thức gia công để may sẩn phẩm xuất khâủ ,việc chuyển đổi phương thức này đòi hỏi một loạt điều kiện mà hiện tại các doanh nghiệp Việt nam chưa đủ khả năng đảm bảo :đầu tư hiện đại hoá ngành dệt , đầu tư phát triển sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành may , vốn kinh doanh của các doanh nghiệp , tiếp cận thị trường nước ngoài , tìm kiếm khách hàng ...
Thứ ba : trình độ công nghệ của các doanh nghiệp lạc hậu và mất cân đối là yếu tố quan trọng làm giảm khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp.
Trong ngành dệt may chỉ có 15% máy mới ở các doanh nghiệp nhà nước . tuy ở các doanh nghiệp may xuất khẩu , máy móc hiện đại đã được trang bị để thay thế máy móc thế hệ cũ , nhưng sản phẩm của doanh nghiệp dệt không đủ khả năng đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp may xuất khẩu.
Thực trạng trình độ công nghệ của công nghiệp dệt –may thể hiện qua một số số liệu sau đây.
Đối với thiết bị kéo sợi , số cọc sợi đã sử dụng trên 20 năm chiếm 44.67% , từ 10-20 năm chiếm 36.62% và dưới 10 năm chiếm 8.6% .
Thiết bị công nghệ thoi , tỷ lệ máy mới được trang bị chiếm khoảng 15% và số máy dệt thoi kiểu cũ khổ hẹp chiếm tới 88% .
Thiết bị công nghệ may đã được chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ để đáp ứng yêu cầu cao của thị trường thế giới(Nhật bản ,EU...) .Tuy nhiên, trình độ công nghệ giữa các khâu trên dây truyền rất chênh lệch : ở khâu may và hoàn tất sản phẩm thì thiết bị đều mới và hiệt đại , trong khi đó khâu chuẩn bị sản xuất và khâu cắt vẫn sử dụng công nghệ thủ công với năng suất là chủ yếu.
Thứ tư: những lợi thế so sánh trong phát triển công nghiệp dệt – may đang mất dần . Lâu nay, nhân công vẫn thường được coi là lợi thế của Việt nam so với nhiều nước trong khu vực , song với sự phát triển kinh tế và nâng dần mức sống của dân cư , lợi thế này ngày nay không được thể hiện rõ , thậm chí còn yếu hơn so với một số nước trong khu cực .
So với các nước trong khu vực , mức tiền lương của một người lao động ở Việt nam tăng lên khá nhanh và ổn định.
Khả năng cạnh tranh của ngành dệt may còn hạn chế về chất lượng , sáng tác mẫu mã.
Thứ năm : hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành dệt may còn thấp , điều này phản ánh trực tiếp thực trạng trình độ công nghệ và năng lực quản lý của các doanh nghiệp dệt may .
Cũng cần nói lên rằng ,trong những năm qua , cùng với việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và đa dạng hoá nhiều loại hình tổ chức kinh doanh ,các doanh nghiệp nhà nước trong ngành dệt may cũng chú trọng đổi mới , song tính hiệu quả chưa cao , nỗi bật là những khó khăn và bất cập trong tông công ty dệt may .
Trình độ chuyên môn hoá của các doanh nghiệp là ít thay đổi , xu hướng “khép kín công nghệ” khá đậm nét , các doanh nghiệp vẫn tồn tại một cách khá biệt lập và cạnh tranh lẫn nhau . Do còn tồn tại hai cấp hạch toán độc lập : tổng công ty và công ty thành viên vì vậy nên các công ty thành viên cảm thấy sự gò bó và thiếu sự tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
Có sự lúng túng trong tổ chức điều hành , xử lý các quan hệ dọc và ngang trong tông công ty.
Phần 3
giải pháp marketing của các công ty kinh doanh quốc tế Việt nam nhằm mở rộng và thâm nhập
thị trường nước ngoài.
I. Chiến lược chung marketing quốc tế.
1. Phân tích một số những yếu tố ảnh hưởng từ bên ngoài có thể tác động đến công ty.
Hoạt động marketing quốc tế về cơ bản là hoạt động marketing nó cũng không khác xa lắm so với hoạt động marketing trong nước , hoạt động marketing quốc tế phức tạp hơi do có nhiều yếu tố ảnh hưởng không chỉ là những nhân tố trong nước mà còn có cả yếu tố nước ngoài .Vì vậy cần phải đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến các hoạt động của công ty.
Các nhân tố bên ngoài ảnh hưởng trực tiếp tới chiến lược của công ty bao gồm : các khách hàng ,các nhà cung cấp , các đối thủ cạnh tranh hiện thời , các đối thủ cạnh tranh tiềm năng, các sản phẩm thay thế , xu hướng môi trường đặc điểm thị trường và hành vi chi phí của khách hàng . Do những nhân tố này có thể khác nhau đáng kể giữa các quốc gia , nên việc phân tích phải được lặp lại cho từng quốc gia mà công ty đang cạnh tranh nhằm giành được thị phần mà những quốc gia và công ty đang lưu tâm đến .
Việc phân tích môi trường là một yếu tố hết sức quan trọng khi công ty thực hiện chiến lưọc thâm nhập thị trường ,việc phân tích này bao gồm nghiên cứu những thay đổi về kinh tế , chính trị , xã hội và công nghệ . Những thay đổi như vậy liên tục hình thành nên hành vi của khách hàng và vì vậy hình thành cả chiến lược cạnh tranh.
2. Chiến lược chung marketing quốc tế.
Các lựa chọn chiến lược kinh doanh của cô
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34556.doc