Đề tài Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản ở công ty xuất nhập khẩu VIPEX

Lời mở đầu

CHƯƠNG I: Khái quát về công ty xuất nhập khẩu VIPEX

1-/ Quá trình hình thành - phát triển Công ty

2-/ Bộ máy tổ chức của Công ty

3-/ Những lĩnh vực kinh doanh chính của Công ty

4-/ Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty

CHƯƠNG II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Công ty

1-/ Những thuận lợi, khó khăn trong hoạt động xuất khẩu của Công ty

1.1-/ Thuận lợi

1.2-/ Khó khăn

2-/ Chủng loại – Kim ngạch xuất khẩu nông sản của Công ty

2.1-/ Tình hình xuất khẩu nông sản của Công ty theo mặt hàng

2.2-/ Tình hình xuất khẩu nông sản của Công ty theo thị trường

3-/ Thị trường xuất khẩu

4-/ Các phương thức xuất khẩu

4.1-/ Xuất khẩu tự doanh

4.2-/ Xuất khẩu ủy thác

4.3-/ Xuất khẩu theo nghị định thư

4.4-/Xuất khẩu đối lưu

5-/ Quy trình hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty

5.1-/ Nghiên cứu, lựa chọn thị trường xuất khẩu hàng nông sản

5.2-/ Ký hợp đồng xuất khẩu

5.3-/ Xin giấy phộp xuất khẩu

5.4-/ Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu

5.5-/ Nghiệp vụ kiểm tra, bảo quản hàng húa

5.6-/ Thuê tàu lưu cước cho lô hàng, giao hàng lên tàu

5.7-/ Nghiệp vụ thanh toán

CHƯƠNG III: Phương hướng và giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu của Công ty xuất nhập khẩu VIPEX

1-/ Phương hướng xuất khẩu

2-/ Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu

2.1-/ Đa dạng hóa loại hình xuất khẩu và đa phương hóa trong quan hệ với khách hàng trên thị trường quốc tế

2.2-/ Hoàn thiện công tác tạo nguồn hàng – cải tiến cơ cấu mặt hàng, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu

2.3-/ Đẩy mạnh hoạt động Marketing xuất khẩu

2.4-/ Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả

2.5-/ Nâng cao, bồi dưỡng trình độ của cán bộ xuất nhập khẩu

 

doc41 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 4190 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng xuất khẩu hàng nông sản ở công ty xuất nhập khẩu VIPEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, Công ty đều tổ chức hạch toán kiểm tra việc thực hiện nghiệp vụ ở các công đoạn xem có đúng, đầy đủ, chính xác, kịp thời phát hiện những yếu điểm và rút ra kinh nghiệm cho đợt sau. 2.1-/ Tình hình xuất khẩu nông sản của Công ty theo mặt hàng: Kết quả xuất khẩu hàng nông sản của Công ty được thể hiện một cách khái quát qua các số liệu sau: BIỂU SỐ 7: KẾT QUẢ XUẤT KHẨU MỘT SỐ MẶT HÀNG NÔNG SẢN CHỦ YẾU CỦA CÔNG TY GIAI ĐOẠN 2007 - 2009 Đơn vị tính: USD STT Tên mặt hàng xuất khẩu Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Giá trị thực hiện Tỷ lệ % Giá trị thực hiện Tỷ lệ % Giá trị thực hiện Tỷ lệ % 1 Lạc nhân 3.342.427 48,19 1.857.443 28,03 1.234.800 20,31 2 Cà phê 876.500 12,64 1.437.255 21,69 1.227.732 20,20 3 Cao su 986.200 14,22 1.215.600 18,34 1.507.839 24,80 4 Hạt tiêu 1.230.487 17,74 1.437.975 21,70 1.201.506 19,76 5 Hạt điều 500.000 7,21 678.924 10,24 907.312 14,93 Tổng cộng 6.935.614 100 6.627.197 100 6.079.189 100 Từ năm 2007 đến nay, kết quả xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ yếu của Công ty có những thay đổi mạnh mẽ. Năm 2009, tổng giá trị xuất khẩu nông sản là 6.079.189 USD, đã giảm đi 856.425 USD so với năm 2007 là 6.935.614 USD (tương đương với 12,35%). Như vậy là có sự giảm sút đáng kể trong hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty từ năm 2007 đến 2009. Giá trị xuất khẩu đang từ 6.935.614 USD năm 1999 giảm xuống còn 6.627.197 USD năm 2008, rồi tiếp tục xuống còn 6.079.189 USD năm 2009, điều này ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả kinh doanh của toàn Công ty. Qua đánh giá tổng kết các năm cho thấy nguyên nhân chính làm tổng giá trị xuất khẩu nông sản giảm sút rõ rệt là do mặt hàng lạc nhân gây ra vì mặt hàng này giảm mạnh cả về giá trị lẫn tỷ trọng trong cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu, trong khi đó các mặt hàng cà phê, cao su, tiêu hạt điều đều tăng lên cả về tỷ trọng và giá trị thực hiện nhưng vẫn chỉ chiếm phần nhỏ trong cơ cấu nông sản xuất khẩu. Năm 2007, giá trị xuất khẩu lạc nhân là 3.342.427 USD gần bằng 2 lần giá trị xuất khẩu năm 2009 và tỷ trọng đang từ 48,19% (năm 2007) xuống còn 20,31% (năm 2009). Sự giảm sút xảy ra đều đặn đối với lạc nhân xuất khẩu qua 3 năm 2007,2008,2009, bình quân mỗi năm giảm 9,3% trong cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu. Đánh giá tìm rõ nguyên nhân thì thấy năm 2008 xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính mạnh mẽ đã làm cho nền kinh tế rơi vào khủng hoảng, xuất nhập khẩu bị đình trệ và mặt hàng lạc nhân của Công ty được xuất khẩu bị chao đảo mạnh mẽ. Một thực tế không thể phủ nhận khác là trồng lạc cho hiệu quả kinh tế kém hơn một số loại cây nông nghiệp khác vì vậy một số nông trường lớn trước kia thường xuyên cung cấp lạc cho Công ty đã chuyển sang trồng các loại cây khác như cà phê, hạt tiêu, vải thiểu, mận, cam, dưa hấu,... làm nguồn hàng của Công ty bị thay đổi đột ngột, chưa kịp tổ chức lại nguồn cung ứng lạc, khiến cho nhiều hợp đồng xuất khẩu lạc của Công ty trong 2 năm 2008,2009 phải huỷ bỏ. Trong 2 năm 2008,2009 giá lạc thế giới có nhiều biến động mạnh. Sự thay đổi nhanh chóng của giá lạc làm Công ty không nắm bắt kịp, khiến cho hoạt động xuất khẩu lạc chỉ diễn ra cầm chừng, nghe ngóng và chủ yếu để giữ khách. Sự suy giảm nhanh chóng của lạc xuất khẩu cũng ảnh hưởng lớn tới cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu. Năm 2007, tỷ trọng xuất khẩu lạc là 48,19% khiến cho nhiều mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn nhưng vẫn chỉ chiếm một phần nhỏ bé trong cơ cấu xuất khẩu nông sản. Các cán bộ trong Công ty vẫn gọi đùa đó là "chàng khổng lồ" và các "chú lùn". Thế nhưng từ năm 2008, các "chú lùn" này lại có sức sống mãnh liệt trong khi "chàng khổng lồ" ngày càng "teo cơ". Mặt hàng cà phê xuất khẩu và cao su xuất khẩu của Công ty năm 2007 chỉ chiếm 27% tỷ trọng thì năm 2009 lên đến 45% tỷ trọng. Giá trị xuất khẩu cũng lần lượt tăng là 140% và 152,9%. BIỂU ĐỒ 8: KẾT QUẢ XK NÔNG SẢN THEO MẶT HÀNG CỦA CÔNG TY GIAI ĐOẠN 2007 -2009 1000 USD Bên cạnh sự sa sút của mặt hàng Lạc nhân xuất khẩu thì Cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều lại có những biểu hiện tốt đẹp, tiêu biểu nhất là hạt điều. Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu hạt điều là 500.000 USD, chiếm có 7,21% trong cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu, năm 2008, chiếm 10,24% (tương ứng với 678.924 USD), năm 2009 kim ngạch xuất khẩu hạt điều là 902.312 USD, chiếm 14,93% trong cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu. Như vậy, chỉ trong vòng hai năm gần đây cả tỷ trọng và kim ngạch XK hạt điều đều tăng gấp hai lần. Đây thực sự là bước tiến đáng vui mừng đối với Công ty XNK VIPEX. Năm 2009, để đáp ứng nhu cầu thị trường thế giới và cũng là góp phần vào sự đi lên của Công ty, ban lãnh đạo Công ty đã quyết định xây dựng một nhà máy chế biến hạt điều và lâm sản phục vụ cho xuất khẩu, dự kiến nhà máy này sẽ cho năng suất là 500 tấn hạt điều mỗi năm. Nhìn chung, qua số liệu thống kê thì các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Công ty (trừ lạc) đều có những biểu hiện tương đối lạc quan, tất cả đều tăng cả về tỷ trọng lẫn giá trị tuyệt đối. Tuy nhiên, trong năm 2011 này Công ty cũng cần cố gắng nâng cao hơn nữa giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản để bù đắp vào phần giảm sút của mặt hàng lạc nhân xuất khẩu. 2.2-/ Tình hình xuất khẩu nông sản của Công ty theo thị trường: Trước tình hình kinh tế thế giới tăng trưởng thấp, kinh tế - xã hội Châu Á và khu vực vào cuối năm 2008, đầu 2009 chịu ảnh hưởng xấu của cuộc khủng hoảng tài chính, hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu nông sản của Công ty nói riêng đã gặp những khó khăn nhất định trong việc tìm kiếm, khai thác thị trường. Tuy nhiên, bên cạnh những khó khăn khách quan Công ty vẫn nỗ lực phấn đấu vượt qua, hoàn thành về cơ bản các mục tiêu đề ra, giữ vững sự phát triển ổn định của xuất khẩu nông sản. BIỂU SỐ 9: KẾT QUẢ XUẤT KHẨU NÔNG SẢN THEO THỊ TRƯỜNG CỦA CÔNG TY GIAI ĐOẠN 2007 - 2009 STT Thị trường Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Giá trị (USD) Tỷ trọng % Giá trị (USD) Tỷ trọng % Giá trị (USD) Tỷ trọng % 1 Singapore 2.645.937 38,15 2.826.500 42,65 2.477.270 40,75 2 Đài Loan 439.024 6,33 398.957 6,02 384.205 6,32 3 ASEAN 1.505.028 21,70 1.255.191 18,94 1.167.812 19,21 4 Trung Quốc 360.652 5,20 290.271 4,38 234.049 3,85 5 EU 1.759.565 25,37 1.538.172 23,21 1.499.128 24,66 6 Mỹ 225.408 3,25 318.106 4,80 316.725 5,21 Tổng cộng 6.935.614 100 6.627.197 100 6.079.189 100 Với một nỗ lực không ngừng, Công ty không những hoàn thành kế hoạch Bộ giao mà còn thành công rực rỡ trên một số thị trường mới và thị trường lớn. Năm 2008, Công ty bắt đầu áp dụng chiến lược thúc đẩy xuất khẩu nông sản ở thị trường Mỹ và đã thu được kết quả tốt đẹp với giá trị xuất khẩu là 318.106 USD, chiếm 4,8% tỷ trọng xuất khẩu nông sản và tăng 141,12% so với thực hiện năm 2007 (tức là tăng 92.698 USD). Năm 2009, giá trị xuất khẩu nông sản trên thị trường này tuy không tăng về tuyệt đối song lại tăng 0,41% trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Đây là một thị trường lớn, nhu cầu đa dạng nên nếu Công ty tăng cường khai thác thì sẽ có thể trở thành một thị trường tiềm năng to lớn của Công ty. Nhìn lại một số thị trường như Singapore, EU, Đài Loan thì thấy tỷ trọng hàng xuất khẩu không có mấy thay đổi nhưng thực ra giá trị xuất khẩu đều có xu hướng giảm dần. Thị trường EU giảm từ 1.759.565 USD (năm 2007) xuống còn 1.499.128 USD (năm 2009), tức là giảm đi 14,8% so với năm 2007. Thị trường Singapore năm 2008 tăng vọt lên 2.826.500 USD nhưng năm 2009 lại giảm xuống còn 2.477.270 USD, thấp hơn cả năm 2007 là 168.667 USD. Một dấu hiệu dễ thấy nữa là ở thị trường Trung Quốc đã giảm cả về tỷ trọng lẫn giá trị tuyệt đối. Tỷ trọng xuất khẩu trên thị trường này cứ giảm dần từ 5,2% xuống còn 4,38% rồi xuống còn 3,85% năm 2009. BIỂU ĐỒ 10 KẾT QUẢ XUẤT KHẨU NÔNG SẢN THEO THỊ TRƯỜNG CỦA CÔNG TY GIAI ĐOẠN 2007 - 2009 1000 USD Xem xét một cách tổng quát về tỷ trọng hàng xuất khẩu của các thị trường thì thấy trong năm 2007 và 2008 có sự chuyển dịch tỷ trọng từ các thị trường Đài Loan, ASEAN, Trung Quốc, EU sang thị trường Mỹ và Singapore. Nhưng trong 2 năm 2008 và 2009 lại có sự chuyển dịch theo hướng ngược lại từ thị trường Singapore, Trung Quốc sang thị trường Đài Loan, ASEAN, EU và Mỹ, sự chuyển dịch này là sự chuyển dịch theo xu hướng cân bằng, bão hoà. Sự chuyển dịch này còn cho thấy rằng năm 2008 có sự sa sút ở một số thị trường thì ngay lập tức Công ty đã tìm ra biện pháp khắc phục, kịp thời đẩy mạnh xuất khẩu ở các thị trường làm ăn kém hiệu quả đó. Tuy nhiên các con số tổng cộng về hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của Công ty qua 3 năm thực hiện 2007-2009 đều cho thấy mặt hàng nông sản xuất khẩu hiện nay đang bị cạnh tranh ghê gớm trên thị trường thế giới (thể hiện ở mối liên hệ giữa sự giảm sút về giá cả và kim ngạch xuất nhập khẩu). Sự giảm sút được phân bổ đều cho các thị trường nhập khẩu sản phẩm của Công ty. Tuy nhiên, nếu liên hệ lại với Biểu số 7 thì thấy chỉ có mặt hàng lạc nhân là giá trị kim ngạch xuất khẩu bị giảm còn các mặt hàng khác đều tăng kim ngạch. Như vậy, có thể khẳng định chắc chắn rằng chỉ có mặt hàng lạc nhân xuất khẩu của Công ty là mặt hàng chính đang bị cạnh tranh ghê gớm trên thị trường quốc tế, sự cạnh tranh này không chỉ xảy ra trên một thị trường mà ở nhiều thị trường. Qua nhận định này, Công ty hiện nay đã và đang tìm biện pháp khắc phục bằng cách dần dần chuyển hướng kinh doanh tập trung vào mặt hàng khác thay thế và những mặt hàng mới có hiệu quả hơn như: hạt điều, chè, ... những mặt hàng này hiện vẫn còn chỗ trống trên thị trường thế giới, nếu Công ty tìm được phương thức kinh doanh phù hợp thì chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả kinh doanh cao hơn hiện nay. 3-/ Thị trường xuất khẩu: Công ty xuất nhập khẩu VIPEX kinh doanh trên phạm vi cả nước và ở nước ngoài. Trong nước, bạn hàng của Công ty là các đơn vị kinh tế sản xuất kinh doanh những mặt hàng Công ty kinh doanh, chủ yếu là các đơn vị thuộc Bộ thương mại và nhiều Công ty thuộc các địa phương. Ở nước ngoài, Công ty có quan hệ lâu dài với các bạn hàng Đông Âu và Liên Xô cũ. Thị trường nước ngoài nhìn chung là ổn định, có khả năng cung cấp nhiều mặt hàng cho một số thị trường lớn như Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật, Singapore, Maylaysia, Thái Lan, Anh, Pháp, Hà Lan, Đức, Ý, Hungari. Điều nổi bật là Công ty đã mở rộng quan hệ trực tiếp với Trung Quốc và Mỹ là 2 thị trường đầy triển vọng, chi phí vận chuyển thấp, dung lượng thị trường lớn. 4-/ Các phương thức xuất khẩu: Với mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận nên hiện nay Công ty cũng đang áp dụng một cách đa dạng các loại hình xuất khẩu nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu. Những mặt hàng nông sản tham gia vào hoạt động xuất khẩu của Công ty đều không cần phải có hạn ngạch nên cũng tạo ra lợi thế cho Công ty. 4.1-/ Xuất khẩu tự doanh: Số lượng hàng nông sản xuất khẩu tự doanh chiếm tới 67% giá trị xuất khẩu nông sản, trong đó chủ yếu là lạc nhân, hạt tiêu, cao su, hạt điều, cà phê. Hàng năm Công ty tự tổ chức thu mua nông sản của các đầu mối thu gom trong nước sau đó xuất khẩu ra nước ngoài. Ngoài ra Công ty cũng đang đầu tư xây dựng xí nghiệp chế biến hạt điều và một số nông sản phục vụ xuất khẩu. 4.2-/ Xuất khẩu uỷ thác: Hình thức xuất khẩu uỷ thác hiện nay vẫn đem lại cho Công ty một khoản lợi nhuận khá lớn, khoảng 30% giá trị xuất khẩu nông sản hàng năm. Đây là hình thức kinh doanh thụ động vì nó phụ thuộc vào đơn vị có hàng, nếu các đơn vị này không có nhu cầu xuất khẩu hay khối lượng hàng xuất khẩu không ổn định thì cũng làm giảm doanh số xuất khẩu của Công ty. 4.3-/ Xuất khẩu theo nghị định thư: Hình thức xuất khẩu này có những ưu thế riêng là khối lượng xuất khẩu lớn, khả năng thanh toán được bảo đảm. Tuy nhiên, xuất khẩu theo hình thức này lại không thường xuyên vì chỉ khi nào được Nhà nước giao chỉ tiêu, Công ty mới có thể thực hiện hoạt động xuất khẩu. Đến nay Công ty đã thực hiện được hàng chục hợp đồng theo hình thức này với trị giá hàng triệu USD doanh thu. 4.4-/ Xuất khẩu đối lưu (hàng đổi hàng): Đây là hình thức giao dịch mà Công ty sử dụng khi xuất khẩu kết hợp chặt chẽ nhập khẩu. Trong quá trình kinh doanh, đôi lúc Công ty cũng sử dụng hình thức này để xuất khẩu nông sản, chấp nhận việc thanh toán bằng hàng hoá thay cho các loại tiền tệ. Trường hợp này tính linh hoạt kém, đôi khi lại gặp khó khăn khi tiêu thụ hàng nhập về. 5-/ Quy trỡnh hoạt động xuất khẩu nụng sản của Cụng ty: 5.1-/ Nghiên cứu, lựa chọn thị trường xuất khẩu hàng nông sản: Nghiên cứu lựa chọn thị trường xuất khẩu là khâu đầu tiên của quá trình xuất khẩu hàng hoá. Nó là khâu quan trọng trong việc đưa ra quyết định: xuất khẩu mặt hàng nông sản nào để đem lại lợi nhuận lớn nhất. Việc tìm kiếm thông tin, thăm dò thị trường là rất khó vì hiện nay Công ty vẫn chưa có nhiều kinh nghiệm trong tìm kiếm và xử lý thông tin. Trước kia Công ty xuất khẩu hàng sang các nước Đông Âu và Liên Xô là chủ yếu và mục đích của xuất khẩu là để trả nợ theo Nghị định thư của Nhà nước nên việc tìm kiếm và xử lý thông tin gần như không cần phải quan tâm. Từ năm 2000 tình hình quốc tế đã thay đổi, thị trường Đông Âu ngày càng co hẹp, thị trường Tây Âu, Châu Phi, Châu Á mở rộng, cơ chế hoạt động cũng rất khác so với thị trường Đông Âu cũ. Để giải quyết những khó khăn này, Công ty phải đưa ra một kế hoạch chi tiết và phù hợp để giải quyết những khó khăn. Công ty cần phải nghiên cứu thị trường quốc tế một cách thật nghiêm túc, có thể tìm kiếm thông tin từ các trung tâm thông tin thương mại, các văn phòng đại diện thương mại, phòng tư vấn thương mại, các tạp chí thương mại trong và ngoài nước . Một thực tế khả quan là từ năm 2000 đến nay Công ty đã mở rộng quan hệ với những thị trường lớn giàu tiềm năng, lại có vị trí địa lý rất gần với Việt Nam, đó là Nhật Bản, Hàn Quốc, Malayxia, Singapore, Phillippin, Thái Lan, Trung Quốc. Hàng năm số hàng nông sản xuất khẩu sang các thị trường này chiếm từ 65-80% tỷ trọng xuất khẩu hàng nông sản. Trong tương lai, Công ty vẫn muốn tiếp tục duy trì quan hệ làm ăn ở các thị trường này và khối lượng hàng xuất khẩu sang khu vực này trong tương lai sẽ còn tăng mạnh. Bên cạnh việc nghiên cứu thị trường quốc tế, Công ty cũng cần phải nỗ lực nghiên cứu thị trường trong nước để tạo nguồn hàng xuất khẩu bảo đảm cả về số lượng, chất lượng, thời gian,... 5.2-/ Ký hợp đồng xuất khẩu: Sau khi nghiên cứu về thị trường, mặt hàng xuất khẩu, tìm hiểu đối tác và đàm phán, dể thoả thuận mọi điều kiện có liên quan thì Công ty sẽ tiến hành nghiệp vụ ký hợp đồng xuất khẩu. Khi hợp đồng đã được ký, có nghĩa là Công ty và đối tác cùng bị ràng buộc với nhau thông qua các điều khoản qui định trong hợp đồng. Chính vì vậy, khi ký kết hợp đồng với đối tác, Công ty thường dựa vào các căn cứ sau: - Các định hướng kế hoạch của nhà nước, các chính sách, chế độ, các chuẩn mực KT - XH hiện hành. - Khả năng phát triển của sản xuất kinh doanh, chức năng hoạt động kinh tế của mỗi bên. - Nhu cầu của thị trường, đơn đặt hàng, chào hàng. - Tính hợp pháp của hợp đồng kinh tế và khả năng đảm bảo về tài sản của mỗi bên khi tham gia ký kết hợp đồng. 5.3-/ Xin giấy phép xuất khẩu: Đây là công việc quen thuộc đối với Công ty, đối với các hàng nông sản xuất khẩu không cần hạn ngạch thì Công ty có thể nhanh chóng đăng ký hải quan, kê khai hải quan để kiểm tra hàng hoá và nộp thuế hải quan. Một số hàng hoá phải qua kiểm nghiệm, kiểm dịch. Sau đó cơ quan hải quan cấp cho Công ty giấy phép xuất khẩu hàng hoá. 5.4-/ Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu: Phần lớn khối lượng hàng hoá thu mua của Công ty được thực hiện với các bạn hàng truyền thống, đó là các cơ sở sản xuất, doanh nghiệp sản xuất chế biến, doanh nghiệp thu mua thu gom. Những đơn vị này được Công ty đánh giá là bạn hàng có uy tín cao trong kinh doanh. Nghiệp vụ thu mua tạo nguồn hàng bao gồm các khâu nghiên cứu, lựa chọn nguồn hàng, phương thức mua, ký kết hợp đồng mua bán, hình thành đơn nguyên hàng xuất khẩu. Nhiệm vụ chủ yếu là tìm kiếm nguồn hàng, lựa chọn khu vực đặt hàng, địa điểm giao hàng, phương thức mua bán nhằm có được hàng đúng chất lượng, đúng thời gian và thuận tiện cho vấn đề tài chính, huy động vốn. Hiện nay Công ty thường dùng các hình thức: mua đứt bạn đoạn, xuất khẩu, uỷ thác, liên doanh liên kết sản xuất hàng xuất khẩu. Tuỳ từng trường hợp cụ thể để lựa chọn cho thích hợp trên cơ sở căn cứ vào yêu cầu của bên nhập khẩu, về hiện trạng Công ty, về cán bộ kỹ thuật viên, lao động, vốn,... Ở khâu này, việc ký hợp đồng của Công ty được cân nhắc cẩn thận, có sự thoả thuận bằng văn bản giữa 2 bên về chất lượng sản phẩm, tiêu chuẩn kỹ thuật, bao bì, ký mã hiệu, giá cả, thời gian địa điểm giao hàng và mức độ thưởng phạt. Việc ký kết hợp đồng phải được dựa trên pháp lệnh hợp đồng kinh tế mà thực hiện đối với hàng nông sản trên nguyên tắc 2 bên cùng có lợi. Khi hợp đồng ký xong, hình thành đơn nguyên hàng nông sản nhằm phân định rõ ràng các mẫu mã, tiện cho việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng, đồng thời giúp cho người nhập khẩu phân chia hàng được thuận tiện. Phương pháp này hiện nay được sử dụng là lập bảng kê chi tiết (packing list) trong đó hàng được bao gói theo yêu cầu, được đánh số thứ tự sau đó ghi chi tiết lên bảng kê gồm: số lượng hàng bên trong, trọng lượng tịnh của kiện hàng. 5.5-/ Nghiệp vụ kiểm tra, bảo quản hàng hoá: Vận chuyển hàng, bốc dỡ và dự trữ, bảo quản hàng hoá bao gồm các bước: - Tổ chức kiểm tra giám định hàng hoá: bước này được hình thành sau khi lên đơn nguyên hàng. Đây là khâu kiểm tra toàn diện xem có phù hợp với điều khoản của hợp đồng không, Công ty trung gian được Công ty xuất nhập khẩu VIPEX thuê là Vinacontrol, tổ chức giám định hàng quốc tế là SGS. Đôi khi, cán bộ Công ty trực tiếp kiểm tra nếu hợp đồng không ghi rõ cấp giám định. Mục tiêu chủ yếu của Công ty là nhằm phát hiện sai sót và khuyết tật của hàng hoá xuất khẩu để nhanh chóng khắc phục, kịp thời giao hàng đúng thời hạn. Kết thúc kiểm tra bao giờ cũng phải lập một chứng từ bằng tiếng Việt và một bằng tiếng nước ngoài theo yêu cầu của phía bên kia. - Tổ chức tiếp nhận và bảo quản hàng xuất khẩu: Công ty có một hệ thống kho hàng rộng lớn ở một số tỉnh miền Bắc. Sau khi thu mua nếu chưa xuất khẩu được thì hàng xuất khẩu có thể đem vào tạm bảo quản trong kho. Trong các kho này có đầy đủ phương tiện vận tải, cần cẩu, xe nâng phục vụ cho việc sắp xếp, di chuyển hàng hoá. Riêng đối với các hàng đòi hỏi phải tươi sống thì hiện nay Công ty chưa có các kho làm lạnh vì thế nên chỉ bảo quản được những hàng hoá thông thường. Trong quá trình xuất kho, nhập kho, thủ kho lập đầy đủ các chứng từ như đối với trường hợp thuê kho để làm cơ sở hạch toán lỗ lãi. 5.6-/ Thuê tàu lưu cước cho lô hàng, giao hàng lên tàu : Dựa vào điều kiện cơ sở giao hàng quy định trong hợp đồng, Công ty tổ chức ký hợp đồng thuê tàu biển chuyên chở lô hàng xuất khẩu. Nếu điều kiện cơ sở giao hàng là CIF thì bên cạnh ký hợp đồng thuê tàu chuyên chở giống như CFR, còn phải mua hợp đồng bảo hiểm cho lô hàng xuất khẩu. Căn cứ vào trọng lượng, kích thước, loại hàng mà Công ty thuê tàu chuyến hay tàu chợ, ứng với mỗi loại tàu Công ty phải ký những hợp đồng khác nhau. Đối với tàu chuyến phải đặc biệt lưu ý tới vấn đề sở hữu tàu, tình hình tài chính của Công ty vận tải biển đó vì trên thực tế đã có nhiều vụ tranh chấp xảy ra do tàu bị lưu giữ vì không thanh toán tiền thuê tàu với chủ sở hữu tàu. Còn đối với điều kiện cơ sở giao hàng là FOB thì Công ty chỉ cần tổ chức vận chuyển hàng tới cảng xuất khẩu và thuê cẩu hàng hoá lên boong tàu. Khi hàng hoá vượt qua lan can tàu, Công ty làm thủ tục giao nhận hàng với người chuyên chở và lấy lại vận đơn đường biển để làm cơ sở thanh toán. 5.7-/ Nghiệp vụ thanh toán: Để đảm bảo an toàn, Công ty thường sử dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ L/C. Với hình thức này, sau khi lấy được vận đơn đường biển, Công ty đem vận đơn cùng hợp đồng đến Ngân hàng làm thủ tục thanh toán. Tại đây Công ty có thể rút tiền mặt ra để thanh toán trực tiếp hoặc chuyển vào tài khoản riêng của Công ty. CHƯƠNG III PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CỦA CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU VIPEX 1-/ Phương hướng xuất khẩu: Tổng kim ngạch XNK: 75 triệu USD trong đó nhập khẩu đạt 40 triệu USD, xuất khẩu đạt 35 triệu USD. Văn phòng Công ty: Bố trí, sắp xếp lại tổ chức Công ty, các đơn vị, phòng ban để hoạt động tốt hơn phù hợp hơn. Thực hiện chế độ khoán trong kinh doanh, trong các hoạt động khác, có thưởng, phạt rõ ràng,đảm bảo đời sống tối thiểu cho CBCNV. Đối với chi nhánh TPHCM: Tăng cường xuất khẩu hàng nông sản từ đầu vụ như lạc, đậu đỗ, sắn theo nguyên tắc đảm bảo cân bằng thu chi. Đối với hệ thống các cơ sở sản xuất: Khai thác năng lực và công suất của nhà máy để thực hiện kế hoạch sản xuất chế biến có hiệu quả tối đa. Tổ chức và triển khai các kinh doanh phụ như xuất nhập khẩu, chế biến kinh doanh hàng nội địa và gia công cho đơn vị khác. Trực tiếp tổ chức quản lý vùng nguyên liệu cho nhà máy, ổn định tổ chức của nhà máy từ sản xuất đến hành chính, kỹ thuật..v.v... Chi nhánh Hải Phòng: Tổ chức khai thác tốt kho hàng có sẵn, tìm đối tác để sớm tăng hiệu quả của kho hàng.Tổ chức kinh doanh xuất nhập khẩu và các dạng khác. Công ty cũng khẳng định rằng thị trường chính của mình vẫn là các nước Đông Âu đồng thời từng bước tìm kiếm thị trường mới để tránh việc phải phụ thuộc quá lớn vào thị trường này. Tiếp tục khai thác và đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản, đồ hộp, đồ khô đi Trung Quốc. Khai thác phục hồi trở lại mặt hàng xuất khẩu như lạc, cà phê, hạt tiêu..v.v... Đồng thời công ty cũng cố gắng tích cực tìm kiếm mặt hàng mới phục vụ cho xuất khẩu. Mở rộng quan hệ hợp tác với các ngân hàng bảo đảm vay đủ vốn cho sản xuất kinh doanh của Công ty. Giải quyết dứt điểm vấn đề VAT từ những năm trước và một số tồn tại lâu trong kinh doanh cần phải giải quyết ngay. Toàn thể cán bộ công nhân viên của Công ty quyết tâm đạt cho được kế hoạch đã đề ra. Về thị trường thì ngoài việc tiếp tục khai thác các thị trường chính Đông Âu và Liờn Xụ cũ, Công ty còn cố gắng cải thiện chất lượng hàng hoá để thâm nhập vào thị trường của các nước công nghiệp phát triển như Mỹ, Tây Âu và một số thị trường như Hồng Kông, Ấn Độ, Đài Loan,..v.v... 2-/ Một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu: 2.1-/ Đa dạng hoá loại hình xuất khẩu và đa phương hoá trong quan hệ với khách hàng trên thị trường quốc tế: Công ty cần phải đa dạng hoá các loại hình kinh doanh xuất khẩu và đa phương hóa trong quan hệ với khách hàng. * Xuất khẩu tự doanh: Với hình thức xuất khẩu tự doanh, Công ty sẽ tự tìm kiếm, giao dịch và thực hiện hợp đồng với bạn hàng. Cũng có nghĩa là Công ty phải năng động, sáng tạo, chủ động hơn trong các hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, đây sẽ phải là loại hình kinh doanh xuất khẩu chủ yếu của công ty, nó phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường, phù hợp với chức năng kinh doanh. Muốn có bạn hàng thường xuyên Công ty cần phải có kế hoạch cụ thể trong các nghiệp vụ nghiên cứu thị trường, đàm phán giao dịch, thu hút sự quan tâm khách hàng, củng cố uy tín. Với loại hình xuất khẩu tự doanh Công ty sẽ chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh, tìm kiếm thị trường, mà điều quan trọng hơn cả là nó khẳng định sức sống của công ty trong nền kinh tế thị trường tranh mua, tranh bán. * Xuất khẩu uỷ thác: Bên cạnh hình thức xuất khẩu tự doanh, Công ty còn có thể tiến hành xuất khẩu uỷ thác cho các đơn vị sản xuất kinh doanh khác để thu phí dịch vụ uỷ thác. Đối với loại hình kinh doanh xuất khẩu này các khâu nghiệp vụ được rút ngắn lại, công ty chỉ phải thực hiện các vấn đề ký kết, thực hiện hợp đồng xuất khẩu với bên nước ngoài và làm những thoả thuận cần thiết (bằng văn bản) với các đơn vị sản xuất trong nước. Loại hình xuất khẩu này đem lại lợi nhuận không cao song tương đối an toàn, ít rủi ro, đặc biệt phù hợp với thời điểm vốn chưa thu hồi kịp. Là một doanh nghiệp thực hiện chức năng xuất khẩu hàng hoá thì việc thực hiện các dịch vụ uỷ thác trong xuất khẩu là phù hợp với Công ty và góp phần tăng doanh thu của toàn bộ hoạt động xuất khẩu. * Xuất khẩu đối lưu: Xuất khẩu theo hình thức buôn bán đối lưu cũng là một hình thức xuất khẩu lớn của Công ty. Với chức năng xuất nhập khẩu tổng hợp, Công ty có thể tham gia vào bất cứ lĩnh vực xuất nhập khẩu nào miễn là đem lại lợi nhuận cao. Với hình thức này, Công ty có thể đáp ứng nhu cầu của phía nước ngoài nếu họ đang tìm kiếm loại hàng hoá nào đó và Công ty sẽ là người tìm kiếm giúp họ. Sau đó 2 bên tiến hành trao đổi hàng hoá có giá trị tương đương với nhau. Những hàng hoá nhập về được Công ty đem bán lẻ ở các cửa hàng hoặc có thể bán lại cho khách hàng trong nước. Ưu điểm của hình thức này là Công ty sẽ thu được lợi nhuận từ cả 2 khâu xuất khẩu và nhập khẩu, Công ty không phải xuất ngoại tệ để nhập khẩu hàng hoá. * Xuất khẩu theo Nghị định thư: Là một doanh nghiệp kinh doanh trong nền kinh tế thị trường năng động, sáng tạo nên Công ty không thụ động chỉ trông chờ vào chỉ tiêu phân phối Nhà nước giao mà luôn tự mình tìm lấy hướng đi phù hợp. Công ty đã từng được Nhà nước tin tưởng giao chỉ tiêu xuất khẩu một số mặt hàng nông sản sang Liên Xô và các nước Đông Âu. Theo hình thức này thì công ty phải tìm nguồn hàng và thu gom đủ khối lượng s

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng xuất khẩu hàng nông sản ở công ty ở công ty xuất nhập khẩu VIPEX.doc
Tài liệu liên quan