Đề tài Thực trạng xuất khẩu lao động ở Việt Nam - Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả

 

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

I. Việc làm và tạo việc làm

1. Việc làm.

a) Khái niệm và phân loại.

b) Các đặc trưng của việc làm

c. Các chỉ tiêu đo lường

2. Tạo việc làm.

a) Khái niệm

a) Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tạo việc làm.

b) Các chính sách tạo việc làm.

II. XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG

1. Khái niệm và nội dung.

a) Khái niệm.

b) Nội dung

2. Các hình thức xuất khẩu lao động.

3. Đặc điểm của xuất khẩu lao động.

a) Xuất khẩu lao động là một hoạt động kinh tế đồng thời cũng là hoạt động mang tính xã hội cao.

b) Xuất khẩu lao động là một hoạt động mang tính cạnh tranh mạnh.

c) Không có sự giới hạn theo không gian đối với hoạt động xuất khẩu lao động.

d) Xuất khẩu lao động thực chất cũng là việc mua_bán một loại hàng hoá đặc biệt vượt ra phạm vi biên giới quốc gia.

4) Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu lao động.

a)Nhóm nhân tố khách quan.

b) Nhóm nhân tố chủ quan.

5) Rủi ro và hạn chế trong xuất khẩu lao động.

a) Rủi ro trong xuất khẩu lao động.

6. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của hoạt động xuất khẩu lao động.

IV. HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

1. Khái niệm

2. Những thời cơ và thách thức hội nhập kinh tế quốc tế đem lại.

3. Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu khách quan.

V. MỐI QUAN HỆ GIỮA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG, GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM, HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM

A. Tình hình lao động và việc làm ở Việt Nam trong thời gian qua.

B. Xuất khẩu lao động Việt Nam thời kỳ 1980- 2003.

I. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG

1. Giai đoạn 1980 đến 1990.

2. Giai đoạn 1991 đến 2003.

II. LỢI ÍCH VÀ HẠN CHẾ TỪ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG.

1.Lợi ích

a) Hiệu quả về kinh tế.

b) Hiệu quả về xã hội.

III. NHỮNG HẠN CHẾ VÀ RỦI RO TRONG XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG VÀ NGUYÊN NHÂN.

1. Hạn chế.

2. Rủi ro trong xuất khẩu lao động.

CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ

I, QUAN ĐIỂM VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ, XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG NHẰM GIẢI QUÝÊT VIỆC LÀM .

II. MỤC TIÊU CỦA XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG.

III. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN.

1. Các biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu trước mắt.

2. Các biện pháp thực hiện mục tiêu lâu dài.

 

 

doc51 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 13065 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng xuất khẩu lao động ở Việt Nam - Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ố- nguồn lao động năm 2001 thì dân số từ 15 tuổi trở lên có việc làm thường xuyên chia theo thành phần kinh tế như sau: Bảng 4: Dân số có việc làm chia theo thành phần kinh tế. Thành phần KT Số lao động (người) Tỷ lệ trong tổng số lao động (%) Nhà nước 3769151 10 Tập thể 6144862 16,32 Tư nhân và hỗn hợp 1361376 3,61 Cá thể 26048291 69,14 FDI 353750 0,94 Nguồn: bộ lao động-thương binh và xã hội. Kết luận: So với các nước trong khu vực thì tỷ lệ thất nghiệp của Việt Nam tương đối cao. Khu vực nông thôn vẫn là khu vực thu hút chủ yếu lực lượng lao động và là khu vực tạo ra đựơc nhiều việc làm mới cho người lao động. Nhưng thực tế điều tra cũng cho thấy tỷ lệ sử dụng thời gian làm việc ở khu vực này chưa cao chỉ chiếm khoảng hơn 70%. Và đó là một sự lãng phí nguồn lao động. Mặt khác, thu nhập ở khu vực này còn thấp lại chủ yếu làm công cho hộ gia đình mình nên cuộc sống của người lao động chưa được cải thiện là mấy. Chính bởi vậy, giải quyết việc làm cho đối tượng là lao động ở nông thôn là điều cần làm trước hết. Và xuất khẩu lao động là một trong những biện pháp đã được áp dụng. B. Xuất khẩu lao động Việt Nam thời kỳ 1980- 2003. Trước tình trạng sức ép việc làm đã có những tác động xấu không nhỏ lên nền kinh tế, lên đời sống xã hội của quần chúng nhân dân và nhiều khía cạnh khác, Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều chủ trương, chính sách, biện pháp để giải quyết việc làm cho người lao động nhằm giảm bớt sức ép về việc làm.Tuy chưa xoá bỏ được sức ép về việc làm nhưng chúng ta cũng đã đạt đựơc những kết quả đáng ghi nhận. Đóng góp vào trong đó có phần không nhỏ của công tác xuất khẩu lao động. Công bằng mà nói, ngay từ đầu dù xác định xuất khẩu lao động là một biện pháp quan trọng để giải quyết việc làm nhưng Đảng và Nhà nước ta vẫn chưa nhận thức đúng đắn hoàn toàn về nó. Chỉ đến khi xuất khẩu lao động được tiến hành và đem lại các kết quả tốt đẹp thì nhận thức của Đảng và Nhà nước ta dần dần thay đổi và coi nó như một biện pháp chiến lược trong giải quyết việc làm và phát triển kinh tế đất nước. Sự chuyển biến trong nhận thức cũng dẫn đến sự ban hành hàng loạt các chính sách, sự nới lỏng, tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu lao động. Nhờ vậy mà trong những năm gần đây có thể nói hoạt động xuất khẩu lao động đang trên đường khởi sắc. Chúng ta có thể phân chia xuất khẩu lao động thành hai chặng đường cơ bản sau: + Giai đoạn từ 1980 đến 1990 + Giai đoạn từ 1991 đến 2003. Sở dĩ phân chia như trên vì xuất khẩu lao động trong hai giai đoạn trên có những đặc trưng cơ bản rất khác biệt. Giai đoạn từ 1980-1990: là giai đoạn xuất khẩu lao động được sự bao cấp hoàn toàn của nhà nước, do chính nhà nước tiến hành và hầu như không chịu sự tác động của thị trường. Giai đoạn 1991-2003: là giai đoạn xuất khẩu lao động chịu sự tác động của thị trường, chủ thể tham gia chủ yếu trong việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài không phải nhà nước mà là các doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Phân chia như vậy cho thấy con đường trưởng thành, phát triển của xuất khẩu lao động Việt Nam cũng đồng thời phản ánh bối cảnh kinh tế xã hội của Việt Nam và quan điểm chủ trương của Đảng, nhà nước ta trong từng thời kỳ. I. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG Giai đoạn 1980 đến 1990. Từ đầu năm 1980 chính phủ ra quyết định QĐ 46/ CP ngày 11/02/1980 “về việc đưa công nhân và cán bộ đi bồi dưỡng nâng cao trình độ và làm việc có thời hạn ở các nước xã hội chủ nghĩa”. Trong khuôn khổ hịêp định và nghị định thư đã ký kết giữa nước ta và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu (Liên Xô, CHDC Đức, Bungari, Tiệp Khắc) ta đã đưa được 277183 lao động và chuyên gia đi làm việc ở nứơc ngoài, bình quân mỗi năm đưa được khoảng 2,5 vạn lao động. Lao động có nghề chiếm khoảng 42%, lao động không có nghề chiếm 58%. Đặc biệt những năm 1988, 1989, 1990 lao động không có nghề chiếm khoản 70%. Đa số lao động trước khi đi không qua đào tạo, bồi dưỡng. Lao động sang các nước Đông Âu chủ yếu là lao động trong lĩnh vực xây dựng, kỹ thuật. Lao động được bố trí làm việc tại nhà máy, xí nghiệp theo hình thức đội, đơn vị, đoàn, vùng và đựơc đào tạo nghề theo hình thức kèm cặp trong sản xuất tại xí nghiệp của bạn. Nước bạn bố trí sử dụng, tổ chức, chịu chi phí đào tạo hoàn toàn với nguồn lao động do ta cung ứng. Đối tượng được đưa đi thường là cán bộ, công nhân, bộ đội xuất ngũ và con em của các cán bộ công nhân viên đang công tác. Người lao động không phải trả bất cứ một khoản chi phí nào do được nhà nước bao cấp. Các cơ quan quản lý nhà nước phải làm tất cả từ đàm phán ký kết đến phân bổ chỉ tiêu tuyển lao động, khám sức khoẻ, kiểm tra hồ sơ, làm thủ tục xuất cảnh, biên chế lực lượng lao độngđược tuyển thành các đơn vị đưa đi, thu tài chính. Do được tuyển chọn, giáo dục kỹ trước khi đi lại được quản lý chặt chẽ ở nước ngoài nên lao động Việt Nam được nứơc bạn tin dùng và đánh giá cao. Trong thời kỳ này chúng ta cũng đã tổ chức đưa lao động sang làm việc ở Trung Phi chủ yếu dưới hình thức hợp tác chuyên gia trong lĩnh vực y tế, giáo dục, tài chính ở một số nước như: Ăngola, Angieri, Modămbich, Cônggô. Tại khu vực Trung Đông chúng ta cũng đã đưa lao động đi làm việc trong các lĩnh vực công nghiệp, xây dựng. Trung Đông là khu vực bao gồm một số nước ở TÂY NAM Á VÀ BẮC PHI trải dài từ Libia đến Afganistan gồm chủ yếu các nước theo đạo Hồi, chiếm 2/3 nguồn dầu mỏ của thế giới. Năm 1980 Việt Nam bắt đầu đưa lao động sang Iraq thông qua hiệp định chính phủ gồm có gần 20.000 lượt lao động Việt Nam làm việc tại các công trình thuỷ lợi lớn. Do chiến tranh vùng Vịnh số lao động nói trên phải trở về nước. Đặc trưng của giai đoạn này là: sự hợp tác lao động mang tính chất tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các nứơc là thành viên của khối “SEV” (Hội đồng tương trợ kinh tế). Vì thế xuất khẩu lao động ít chịu tác động của thị trường, tính cạnh tranh không cao và nói chung hiệu quả kinh tế chưa cao. Giai đoạn 1991 đến 2003. Bắt đầu từ giai đoạn này chính phủ Việt Nam đã có những nhận thức mới mẻ hơn, đúng đắn hơn về xuất khẩu lao động. Chỉ thị 41_CT/ TƯ(22/9/1998) khẳng định: “Xuất khẩu lao động và chuyên gia là một hoạt động kinh tế xã hội góp phần phát triển nguồn nhân lực, giải quyết việc làm, tạo thu nhập và nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, cùng với các giải pháp giải quyết việc làm trong nước là chính, xuất khẩu lao động và chuyên gia là một chiến lược quan trọng, lâu dài, góp phần xây dựng đội ngũ lao động cho công cuộc xây dựng đất nứơc trong thời kỳ CNH, HĐH”. Mặt khác, cùng với sự chuyển biến tính chất của nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường nên đặc trựng của xuất khẩu lao động trong giai đoạn này là xuất khẩu lao động chịu sự tác động của quy luật thị trường, mang tính cạnh tranh cao hơn và chắc chắn sẽ hiệu quả hơn nhiều. Các kết quả đạt đựơc của xuất khẩu lao động trong giai đoạn này là: Số lượng lao động đựơc đưa đi làm việc có thời hạn ở nứơc ngoài và số thị trường xuất khẩu lao động. Trong thời gian qua chúng ta đã đưa đựơc tổng số 279.008 lao động đi làm việc tại 46 quốc gia và vùng lãnh thổ. Chúng ta có bảng sau: Bảng 5: Số lượng lao động đi làm việc ở nước ngoài. Năm Số lao động(người) Tăng so với năm trước(%) Thị trườngXKLĐ 1991 1.020 --- 1992 810 -20,59 12 1993 3.960 388,89 1994 9.230 133,1 1995 10.050 8,88 15 1996 12.660 25,97 1997 18.470 45,89 1998 12.240 -33,73 27 1999 21.240 78,19 38 2000 31.468 44,28 40 2001 36.168 14,93 2002 46.122 27,52 2003 75.000 62,6 46 Tổng 279.008 46 Nguồn: Tổng hợp từ nhiều nguồn. Qua bảng trên chúng ta có thể nhận thấy một số điểm mốc quan trọng trong hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam trong giai đoạn vừa qua. Năm 1992, 1998 tỷ lệ tăng số lao động được đưa đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài so với năm trước đó đều sụt giảm một cách nghiêm trọng. Liên hệ với bối cảnh kinh tế trong nước, khu vực và thế giới trong khoảng thời gian đó ta giải thích như sau: + Cuối thập kỉ 80 đầu thập kỉ 90 sau sự sụp đổ của Liên Xô, hàng loạt các nước XHCN ở Đông Âu cũng liên tiếp sụp đổ. Sau biến cố chính trị này tất cả lao động nước ngoài ở các nước này đều phải trở về nước trong đó có lao động Việt Nam. Mặt khác, từ trước cho đến thời điểm đó Liên Xô và các nước Đông Âu vốn là thị trường xuất khẩu lao động truyền thống của Việt Nam nên khi xảy ra biến cố này Việt Nam thực sự rơi vào tình thế bị động trong cả việc giải quyết việc làm, ổn định đời sống cho người lao động về nước và việc tiếp tục duy trì hoạt động xuất khẩu lao động. Vì thế số lao động được đưa đi làm việc ở nước ngoài năm 1992 chỉ dừng lại ở con số 810 người. + Năm 1997 diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực châu á mà đầu tiên là ở ThaiLan. Cuộc khủng hoảng kéo theo nó là sự sụp đổ, trì trệ nền kinh tế của các nước trong khu vực, làm giảm nhu cầu nhập khẩu lao động nước ngoài tại các nước này. Bảng 2: ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng khu vực tại một số nứơc châu á. Nước, lãnh thổ Tỷ lệ tăng trưởng GDP(%) Tỷ lệ thất nghiệp(%) Sự giảm giá đồng tiền 6/97-5/98 Số lao động nứơc ngoài Chính sách điều chỉnh về lao động 95-97 1998 1997 1998 Nhật Bản 2 2,0 3,4 4,3 - 1354 +Duy trì c/t TNS. +G/hạn HĐ về ĐT Singapo 7,8 2,5 1,8 - -19 (12/97) H/chế nhập l/đ phổ thông Hàn Quốc 7,2 <1,0 2,6 6,5 -55 (12/97) 210 Tạm dừng Malaysia 8,6 2,0 2,5 3,7 -48(1/98) 2500 Hồi hương lao động bất hợp pháp Đài Loan 297 Nhập lao động xd, dịch vụ các nước ĐNA Hồng Kông 5,00 3,5 2,9 4,0 Hạn chế Nguồn: Niên giám thống kê di dân châu á. Những năm sau đó tỷ lệ tăng so với năm trước được khôi phục (93, 94) và rồi lại có xu hướng giảm dần. Điều đó cho thấy: + Thứ nhất, chính phủ Việt Nam đã nhanh chóng áp dụng các biện pháp khắc phục kịp thời, nhạy bén với thời cuộc để chuyển từ thế bị động sang thế chủ động. Trong thời gian ngắn hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam lại nhanh chóng đi vào sự ổn định. + Thứ hai, hoạt động xuất khẩu lao động thực sự đã bị yếu tố thị trường chi phối nghĩa là phụ thuộc vào quan hệ cung- cầu trên thị trường, xuất hiện tính cạnh tranh gay gắt với các nứơc xuất khẩu lao động khác, đặc biệt là các nứơc trong khu vực như ThaiLan, Philippin, Indonexia. Dù vậy, hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam vẫn khởi sắc. Năm 2003 số lao động được đưa đi làm việc ở nứơc ngoài chiếm tới 26,88% tổng số lao động trong cả giai đoạn 1990-2003. Về thị trường xuất khẩu lao động: không ngừng đựơc mở rộng và khai thác. Từ chỗ chỉ có 12 thị trường năm 1992 lên tới 46 thị trường vào năm 2003. Những kết quả đó cho thấy trong tương lai hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam sẽ còn gặt hái nhiều thành công hơn nữa. Cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động. Hiện nay lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài đang tham gia lao động ở 30 nhóm ngành, nghề khác nhau như: xây dựng, cơ khí, điện tử, dệt, máy, chế biến thuỷ sản, vận tải biển, đánh bắt hải sản, dịch vụ, chuyên gia y tế, giáo dục, nông nghiệp, Cụ thể là: 45% lao động làm trong lĩnh vực công nghiệp nhẹ, 26% trong lĩnh vực xây dựng, 20% trong lĩnh vực cơ khí, 6% trong lĩnh vực nông nghiệp và chế biến thuỷ sản, 3% trong lĩnh vực khác. Tỷ lệ lao động có tay nghề là khoảng 65%; ở một số nước như Nhật Bản, Libia tỷ lệ này đạt gần 100%. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì nhu cầu lao động phổ thông có xu hướng giảm và tăng nhu cầu lao động có tay nghề (trước khi đi làm việc ở nứơc ngoài đã được đào tạo). Bảng 6: Lao động trong các ngành giai đoạn 1991-1999. Lĩnh vực Số lao động(người) Tỷ lệ lao động (%) Xây dựng 23.000 29,43 Dệt may 11.000 14,08 Thuyền viên, đánh cá 14.500 18,56 Các nghề p/thông khác 29640 37,93 Tổng 78140 100 Nguồn: tổng hợp từ nhiều nguồn Yêu cầu một số ngành nghề mà các nước nhập khẩu lao động đòi hỏi. + Thuyền viên: cường độ làm việc cao dù là thuyền trưởng hay thuyền viên, tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro, đòi hỏi người thuyền viên phải có thể lực tốt, chịu được sóng gió, có tay nghề, có tác phong công nghiệp và vốn ngoại ngữ khá để thực hiện chính xác mệnh lệnh của thuyền trưởng. Thuyền viên Việt Nam nói chung chưa đáp ứng được những yêu cầu trên đây. + Thợ xây dựng: là loại lao động nặng nhọc chủ yếu diễn ra ngoài trời, công nghệ và máy móc xây dựng khá hiện đại, tổ chức thi công trên công trường rất khoa học, kỉ luật lao động nghiêm khắc, tiền công không cao, bình quân 250 USD/ người/tháng. Thợ lao động xây dựng Việt Nam khéo léo, dễ tiếp thu công nghệ nhưng tính vô kỷ luật cao nên chiếm tỷ lệ cao nhất trong tổng số lao động bị trả về nước. + Công nhân nhà máy: làm việc trong các nhà máy có trình độ tự động và chuyên môn hoá cao, đòi hỏi người lao động phải có sức chịu đựng, cường độ lao động cao, tính bền bỉ trong công việc cao, ý thức kỷ luật lao động cao để hoà nhập với công nhân nước khác. Thu nhập bình quân 500 USD/người/ tháng _ bằng 50-60% thu nhập của công nhân nước sở tại. Lao động Việt Nam ở nhóm này nói chung trình độ kỹ thuật đáp ứng được yêu cầu nhưng trình độ ngoại ngữ kém, vô kỷ luật_ nhiều lao động phá vỡ hợp đồng bỏ ra làm ngoài. + Lao động giúp việc gia đình: Yêu cầu ngoại ngữ tốt để giao tiếp hàng ngày với đối tượng phục vụ, phải sử dụng thành thạo các dụng cụ sinh hoạt, trung thực, tận tụy với công việc. Lao động Việt Nam làm việc trong lĩnh vực này chưa nhiều, một phần do ngoại ngữ yếu, một phần do quan niệm xã hội Việt Nam mấy năm gần đây mới coi giúp việc gia đình là một nghề. Tuy nhiên lao động Việt Nam trong lĩnh vực này cũng được đánh giá khá cao. Thị trường xuất khẩu lao động. Nếu như giai đoạn 1980-1990: Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu là thị trường xuất khẩu lao động truyền thống của Việt Nam thì đến giai đoạn 1991-2003 thị trường đó lại là: Hàn Quốc, Nhật Bản, Lybia, CHDCND Lào. Các thị trường mới tiềm năng như: Đài Loan, Malaysia. Thị trường Trung Đông và Châu Phi: chủ yếu là xuất khẩu chuyên gia trong lĩnh vực nông nghiệp, y tế, giáo dục. Chúng ta đang dần tiến đến các thị trường khó tính nhưng đầy sức hấp dẫn như Mỹ, Nga, Canada, Singapor, Hylap, CH Ailen. Sau đây là tình hình cụ thể về lao động Việt Nam tại một số thị trường: Tại Trung Đông. + Lybia: bắt đầu có quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ năm 1990 thông qua hai hình thức: Một là, hợp tác trực tiếp theo thoả thuận giữa bộ quốc phòng hai nước. 1990-1994 đưa gần 2000 lao động cơ khí và lắp ráp sang làm việc tại các nhà máy của Lybia. Năm 1994 sự hợp tác tạm dừng. Năm 1997 chương trình hợp tác được tiếp nối và triển khai với quy mô tính đến năm 2002 là 1000 người. Hai là, hợp tác gián tiếp thông qua một số công ty của Hàn Quốc, CHLB Đức, Hylap, Thụy Điển, Manta, Ba Lan trúng thầu tại Lybia. Từ năm 1992-2002 có 9000 người lao động trong đó 99% làm việc trong lĩnh vực xây dựng, còn lại là nghề khác. Thu nhập bình quân khoảng 210 USD/ người/ tháng. Tại thị trường này ít xảy ra các vấn đề với người lao động và đặc biệt là không có lao động bỏ trốn ra làm việc ngoài hợp đồng. + Coet: bắt đầu có quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ 1996. Từ 1996-2002 mới có 4 công ty (VINACONEX, CONSTREXIM, OLECO, LOD) ký kết và thực hiện hợp đồng nhận thầu xây dựng trên 1000 biệt thự 2 tầng, đưa được trên 200 lao động đi làm việc tại Coet. Tuy nhiên, do đối tác chưa thực sự nghiêm túc trong thực hiện hợp đồng. Mặt khác thời tiết nắng nóng, vật liệu cũng quá nặng so với sức khoẻ của người lao động Việt Nam, kỹ thuật khác xa với Việt Nam,…nên đến nay đây vẫn là thị trường bỏ ngỏ. + Các tiểu vương quốc ả rập thống nhất (UAE): bắt đầu có quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ năm 1995. Trong giai đoạn 1995- 2002 Việt Nam đã đưa được trên 1000 lao động đi làm việc ở khu vực này. Số ở lại tính đến năm 2002 là 500 người. Ngành nghề chủ yếu là may mặc, xây dựng, phục vụ nhà hàng. Thu nhập của công nhân xây dựng khoảng 180-280 USD/ người/tháng, nghề may khoảng 150 USD/ người/tháng. Tại châu á. + Nhật Bản: bắt đầu có quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ năm 1992. Hình thức hợp tác chủ yếu là thông qua “chương trình tu nghiệp sinh nghề và thực tập kỹ thuật” cho phép lao động Việt Nam (gọi là tu nghiệp sinh) tham gia thu nghiệp nghề và thực hành tại các xí nghiệp vừa và nhỏ của Nhật Bản. Thị trường Nhật Bản là thị trường khó tính vì: thứ nhất, người Nhật ít thiện cảm với lao động ngụ cư nước ngoài nên có quy định khá ngặt nghèo với lao động làm thuê nước ngoài; thứ hai, đặc điểm nổi bật của thị trường Nhật Bản là chỉ nhận lao động có tay nghề kỹ thuật từ một số cơ sở sản xuất công nghiệp như điện tử, xây dựng,… và lao động phải được học tiếng Nhật trước khi đi. Nhưng thị trường Nhật Bản cũng rất hấp dẫn bởi mức thu nhập cao. Mức lương cho người học nghề Việt Nam ở năm đầu tiên khoảng 700 USD/ tháng, sau khi thi tay nghề là 800 USD/ tháng. Khi làm thêm giờ người lao động sẽ được trả 150%so với mức lương chính. Từ năm 1992-2002: có 40 doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam phối hợp với tổ chức hợp tác lao động quốc tế Nhật Bản (JITCO) đưa được khoảng 10.000 lao động sang Nhật Bản tu nghiệp, chủ yếu trong lĩnh vực dệt, may, cơ khí, xây dựng phân bố trên khắp nước Nhật. Từ năm 1994 theo thoả thuận về chương trình tiếp nhận tu nghiệp sinh y tá. Theo đó, hàng năm Việt Nam đưa 15-20 người sang học ở một số trường y tá Nhật Bản. Sau khi tốt nghiệp các y tá này đựơc làm việc 4 năm tại bệnh viên Nhật Bản và được hưởng lương + chế độ khác như lao động Nhật Bản. Thị trường Nhật Bản ít coi trọng tầm vóc, ngôn ngữ của người lao động nước ngoài nhưng lại rất đề cao tính trung thực và kỷ luật trong lao động. Thế nhưng, lao động Việt Nam sang tu nghiệp tại Nhật đã phá vỡ hợp đồng ra làm ngoài không ít gây thịêt hại về kinh tế cho cả hai bên và sự mất uy tín cho phía Việt Nam. Trong tương lai do dân số Nhật đang già hoá nên sẽ có nhu cầu rất lớn về nhập khẩu lao động nhưng chủ yếu là các lao động có trình độ kỹ thuật cao. + Hàn Quốc: chính thức đặt quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ năm 1993 chủ yếu thông qua chế độ tu nghiệp sinh. Tính đến năm 2000 có 8 doanh nghiệp xuất khẩu lao động Việt Nam được phép cung ứng TNS cho Hàn Quốc. Đó là: LOD, TRACIMEXCO, TRACODI, VINACONEX, OLECO, IMS, SULECO, SOVILACO đưa được tổng số lao động sang làm việc tại Hàn Quốc là 29.000 người chiếm khoảng 40% thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam kể từ khi thực hiện theo cơ chế mới. Năm 1996 số lao động đưa đi đạt mức kỷ lực ở con số 6.275 người. Năm Số lao động (người) 1996 6275 1999 3700 Đầu 2000 5500 2003 Trên 4000 Mức thu nhập bình quân là 500. 000 WON/tháng (trên 400USD/ tháng theo tỷ giá năm 2000: 1USD = 1.100 WON). Lao động Việt Nam tại Hàn Quốc thường phải làm các công việc 3D (nặng nhọc, kém hấp dẫn, độc hại) nên thu nhập thường không cao. Với các TNS thì trong 3 tháng đầu chỉ được hưởng mức lương bằng 60-70% lương chính thức. Người lao động nước ngoài trong đó có lao động Việt Nam không được hưởng các quyền lợi về lao động như lao động Hàn Quốc nên nhiều lao động đã phá vỡ hợp đồng ra làm ngoài. Năm 2003 có tới 14.000 lao động Việt Nam là lao động bất hợp pháp. Theo ông Phạm Tiến Vân_ đại biện lâm thời đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc “ khoảng 60% số lao động Việt Nam tại Hàn Quốc đã phá vỡ hợp đồng ra làm ngoài”. + Đài Loan: bắt đầu có quan hệ hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ năm tháng 11/1999. Đặc trưng của thị trường này là có nhu cầu rất lớn đối với lao động làm việc trong các nhà máy, giúp việc gia đình và khán hộ công. Lao động nước ngoài được hưởng các quyền lợi gần như lao động trong nước, mức tiền công chênh lệch không nhiều. Thời hạn hợp đồng làm việc ở Đài Loan là 2 năm, đựơc gia hạn hợp đồng 1 lần tối đa không quá 1 năm nhưng chi phí môi giới rất cao khoảng 5-6 tháng tiền lương tiết kiệm của người lao động. Tính đến năm 2000 có 139 doanh nghiệp Việt Nam chuyên doanh xuất khẩu lao động được phép cung ứng lao động cho Đài Loan trong đó có 34 doanh nghiệp được phép thí điểm cung ứng lao động khán hộ công và giúp việc gia đình. Cũng trong năm 2000 có 30/139 doanh nghiệp đã ký kết đựơc hợp đồng xuất khẩu lao động đưa được 6000 lao động (3256 nữ) sang làm việc tập trung ở ngành như điện tử, may mặc, dệt, xây dựng, thuyền viên đánh cá, riêng khán hộ công và giúp việc gia đình là 1950 người. Trong năm 2000 có 306 lao động bị trả về nước trước thời hạn chiếm 5,7% số lao động đưa sang. Nguyên nhân 108 người (35,3%) vì lý do sức khoẻ; 127 (41,5%) do tiếng Hoa kém; 11 người (3,59%) vi phạm kỷ luật; 6 người (1,96%) do phía chủ và công ty môi giới không chấp nhận. Từ tháng 11/1999 đến 2002 có 26.500 lao động phân bố ở 28 ngành nghề khác nhau trong đó làm việc sản xuất chế tạo chiếm 50%, giúp việc gia đình và khán hộ công là 32%, thuyền viên la 7%. Thu nhập bình quân là 250-300 USD/tháng. Năm 2003: 1500 lao động Việt Nam bị bắt giữ vì làm ngoài. + Malaysia: chính thức hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực lao động từ cuối tháng 4/2002. Đây là quốc gia có diện tích bằng diện tích của Việt Nam nhưng dân số chỉ bằng 1/3; tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt trên 8%/năm. Luật pháp Malaysia quy định người lao động nước ngoài ở Malaysia được hưởng sự đối xử như đối với lao động bản xứ về tiền lương và các lợi ích khác. Thời hạn hợp đồng là 3 năm, có thể gia hạn 5 năm đối với lao động tay nghề thấp và 6 năm với lao động tay nghề cao. Thu nhập bình quân khoảng 200 USD/ tháng. Từ tháng 4 đến tháng 8/2002 đưa trên 4000 người đi làm việc, tính bình quân mỗi tháng đưa trên 1000 lao động. Từ tháng 4/2002 đến cuối 2003 có 70 doanh nghiệp được chính phủ cho phép làm thí điểm xuất khẩu lao động sang Malai đã đưa 70.000 lao động đi làm việc, chủ yếu là lao động phổ thông cho lĩnh vực xây dựng, sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ. Năm 2003 đưa được 40.000 lao động. Đầu năm 2004, hơn 700 lao động Việt Nam trong ngành xây dựng bị mất việc. Đặc trưng của thị trường này là có nhu cầu về lao động có tay nghề và chuyên môn vừa phải, chi phí đi lại thấp. Trong tương lai thị trường Malai có thể tiếp nhận tới 200.000 lao động Việt Nam. Tóm lại, ta thấy rằng thị trường xuất khẩu lao động của Việt Nam tập trung chủ yếu mới chỉ ở khu vực châu á, chưa phát triển được ở các khu vực khác. Mặt khác, ngay trên chính thị trừơng truyền thống của mình thì tỷ lệ lao động Việt Nam trong tổng số lao động nước ngoài vẫn còn rất thấp. Doanh nghiệp xuất khẩu lao động. Năm 1996 mới có 20 doanh nghiệp được cấp giấy phép xuất khẩu lao động thì đến năm 2003 con số này đã lên tới 156 trong đó có 15 doanh nghiệp chuyên xuất khẩu lao động, 141 doanh nghiệp ngành nghề khác được bổ sung chức năng xuất khẩu lao động; cũng trong số này thì có 85 doanh nghiệp thuộc 19 bộ, ngành, cơ quan trực thuộc chính phủ, 57 doanh nghiệp thuộc 31 tỉnh, thành phố, 11 doanh nghiệp thuộc 5 đoàn thể ở trung ương và 3 doanh nghiệp tư nhân đựơc làm thí điểm xuất khẩu lao động. Các công ty có uy tín lớn, đóng góp nhiều cho hoạt động xuất khẩu lao động của Việt Nam trong thời gian qua như: công ty SONA, VIETRACIMEX ( thuộc bộ GTVT), VINACONEX ( thuộc bộ xây dựng). Bên cạnh đó còn tồn tại nhiều doanh nghiệp hoạt động chưa hiệu quả. Năm 2001, 1 doanh nghiệp đã bị thu hồi giấy phép do vi phạm nghiêm trọng nghị định 152/CP và 4 doanh nghiệp do hoạt động kém hiệu quả; đình chỉ hoạt động của 1 doanh nghiệp; khiển trách, cảnh cáo một số doanh nghiệp; công bố huỷ giấy phép hết thời hạn hoạt động của 7 doanh nghiệp. Đây chỉ là những con số thống kê trên sổ sách, trên thực tế còn tồn tại rất nhiều doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này không hiệu quả nhưng chưa bị khiển trách và còn rất nhiều doanh nghiệp ma mà các cơ quan quản lý nhà nước trong lĩnh vực này chưa nắm rõ hết đựơc. Cơ chế tài chính. Trong giai đoạn đầu (1980-1990) người lao động được sự bao cấp từ phía nhà nước và nước tiếp nhận lao động nên vấn đề tài chính không phải là một sức ép với người lao động. Nhưng trong giai đoạn này (từ 1991 trở đi) khi xuất khẩu lao động chịu sự tác động của quy luật thị trường thì nhà nước thôi không bao cấp nữa. Thay vào đó nhà nứơc ban hành một loạt các nghị định và thông tư hướng dẫn chế độ tài chính đối với ngưới lao động đi làm việc ở nước ngoài trong đó phân định rõ trách nhiệm thu chi tài chính đối với người lao động, các tổ chức kinh tế và nghĩa vụ của họ với nhà nứơc. Luật xem ra là hợp lý nhưng vấn đề thực hiện nó thì còn gây nhiều bức xúc, tồn tại. Thứ nhất, vì lợi nhuận nhiều tổ chức kinh tế vẫn thu phí cao hơn so với pháp luật quy định và dĩ nhiên người lao động không biết điều này. Thứ hai, chưa có một cơ quan tài chính nào chính thức ra đời để hỗ trợ về tài chính cho người lao động. Người lao động muốn vay vốn thì phải thế chấp rất lớn ở ngân hàng, số tiền vay được cũng chỉ bằng 80% tổng chi phí hợp pháp ghi trong hợp đồng, thủ tục lại rườm rà, lãi suất cao. Nói chung, các thủ tục của khâu tài chính chưa tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động. Cung cấp tài chính cho người lao động đi làm việc ở nứơc ngoài chưa phải là lĩnh vực quan tâm của các ngân hàng và quỹ tín dụng. LỢI ÍCH VÀ HẠN CHẾ TỪ XUẤT KHẨU LAO ĐỘNG. 1.Lợi ích Hiệu quả về kinh tế. Xuất

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng xuất khẩu lao động ở Việt Nam - Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả.doc
Tài liệu liên quan