MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM CHUNG 1
1. Các khái niệm 1
2. Các nội dung của giai đoạn tiền đầu tư bao gồm: 2
3. Các công việc chuẩn bị tiền đầu tư bao gồm: 4
4.Xúc tiến đầu tư 4
CHƯƠNG 2: Vai trò của xúc tiến đầu tư 6
1. Nội dung của hoạt động xúc tiến đầu tư: 6
A, Xây dựng một hình ảnh tích cực về đất nước: 6
B, Năng động trong việc thu hút các dự án đầu tư: 8
C, Tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của đầu tư mới và quản lý các nhà đầu tư. 12
2.Vai trò của xúc tiến đầu tư 12
3. Nhiệm vụ của xúc tiến đầu tư 14
CHƯƠNG 3 THỰC TRẠNG XÚC TIẾN ĐẦU TƯ VÀ CÔNG VIỆC CHUẨN BỊ TIỀN KHẢ THI TRONG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯÍC NGOÀI Ở VIỆT NAM 19
1. Sự cần thiết phải xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam 19
2. Môi trường đầu tư Việt Nam 19
3.Thực trạng xúc tiến đầu tư Việt Nam 20
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1849 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng xúc tiến đầu tư và công việc chuẩn bị tiền khả thi trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g án huy động các nguồn vốn , khản năng hoàn trả vốn và cả nợ, thu lãi
-Tính toán sơ bị hiệu quả đầu tư về kinh tế-xã hôịi của dự án
-Xác định tính độc lấp khi vận hành, khai tháccủa các dự án thành phần hoặc tiểu dự án.
4.Xúc tiến đầu tư
Xúc tiến đầu tư là các hoạt động nhằm giới thiệu, quảng cáo cơ hội đầu tư và hỗ trợ đầu tư của nước chủ nhà,hoặc của từng địa phương. Xúc tiến đầu tư thường nhằm vào đối tượng chủ yếu là các nước, tổ chức, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, ngoài ra còn vào các doanh nghiệp trong nước, trong từng địa phương . Hoạt động XTĐT này do các quan chức chính phủ, các nhà khoa học các nhà tổ chức, các doanh nghiệp,… thực hiện dưới nhiều hình thức như các chuyến viếng thăm ngoại giao cấp chính phủ, tổ chức các hội thảo khoa học, diễn đàn đầu tư, tham quan, khảo sát,.. và thông qua các phương tiện phương tiện thông tin, xây dựng các mạng lưới văn phòng đại diện ở nước ngoài. Một môI trườnh đầu tư tốt song ít được thế giới biết đến hoặc biết không đầy đủ, sai lệch thì cũng kém thu hút các nhà đầu tư. Đây là biện phát được áp dụng khá phổ biến và mang lại hiệu quả cao ở những nước phát triển và một số nước NICS ( bởi môI trường đầu tư ở những nước này đã rất tốt ). Riêng trong năm 1996. Malayxia đã tổ chức được 7 hội thảo tại nhiều địa điểm khác nhau trên thế giới với sự tham gia của 3000 người. Tại những hội thảo này các nhà đầu tư nước ngoài đã được các nhà nghiên cứu chuyên môn, các nhà doanh nhân, … cung cấp nhiều thông tin cân thiết về môI trường đầu tư trong nước.
CHƯƠNG 2: Vai trò của xúc tiến đầu tư
1. Nội dung của hoạt động xúc tiến đầu tư:
A, Xây dựng một hình ảnh tích cực về đất nước:
Một nước muốn thu hút đầu tư nước ngoài, trước hết, phải xây dựng một hình ảnh tích cực đang tồn tại ở đất nước mình có tính thuyết phục đối với các nhà đầu tư, hình ảnh về một đất nước “mở” với môi trường cạnh tranh tự do và một môi trường hấp dẫn cho hoạt động kinh doanh. Kết quả mong muốn là một lượng lớn các nhà đầu tư sẽ quan tâm đến việc khám phá nhiều hơn về đất nước này. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả, những thông tin phổ biến đó phải chính xác, nếu không các nhà đầu tư sẽ có thể mất đi một cách đáng kể sự tin tưởng nếu như có sự khác biệt giữa những hiểu biết ban đầu với sự thật qua những hình ảnh của chiến dịch xúc tiến. Một cơ quan xúc tiến đầu tư vì vậy cần xác định rõ cơ sở cho việc xây dựng những hình ảnh đáng tin tưởng.
Để thực hiện được điều đó, các chính sách, luật và những điều lệ liên quan đến đầu tư trực tiếp nước ngoài phải tạo dựng được môi trường có khả năng kinh doanh, dẫn đường cho nguồn vốn chảy vào. ấn tượng sâu sắc của các chính sách, luật và điều lệ trong thu hút đầu tư nước ngoài là sự dễ hiểu, rõ ràng và hợp lý, đủ điều kiện cho nhà đầu tư có cơ hội mở rộng và kinh doanh tự do mà không bị sự can thiệp của chính phủ và sự thay đổi đơn phương trong các điều kiện đầu tư của chính phủ.
Các chính sách, luât và điều lệ gồm khung đầu tư của một nước phải bao trùm một diện rộng các vấn đề, nhưng phải nhằm tới mục đích phục vụ xúc tiến đầu tư nước ngoài, và những vấn đề sau đây là những điều quan trọng nhất:
-Luật và các điều lệ chi phối sự phát triển hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư, ví dụ như công ty, đối tác và luật kinh doanh, thanh toán và bất cứ những điều khoản đặc biệt nào liên quan đến quyền sở hữu nước ngoài đều phải là nền tảng phục vụ khung đầu tư nước ngoài. Những yêu cầu đặc biệt, ví dụ như trong lĩnh vực dầu khí, mỏ có thể là những vấn đề quan tâm đặc biệt. Những điều lệ tác động đến quản lý kinh doanh như quản lý lao động, nhân viên nhập cư hay những vấn đề khác liên quan cũng nằm trong hạng mục này. Thêm vào đó, có những điều lệ liên quan đến việc sử dụng đất, quyền sở hữu hay buôn bán bất động sản, và cung cấp điện, nước, viễn thông, giao thông và những dịch vụ khác. Những vấn đề mà một nhà đầu tư có thể quan tâm thường xuyên là quyền lợi và sự ưu đãi, dịch vụ cần thiết mà nhà đầu tư có thể tiếp tục được cung cấp, ngay cả khi giá cả được điều chỉnh và nhà đầu tư được bảo vệ về thuế quan.
-Bảo hộ đầu tư cũng là vấn đề quan trọng được quan tâm, thường dựa trên cơ sở sự thoả thuận song phương hay đa phương, nhưng cũng đôi khi dựa trên sự bảo hộ theo hiến pháp, hoặc những trợ giúp chung.
- Chế độ tài chính áp dụng đối với nhà đầu tư là một yếu tố quyết định. Nó bao gồm những vấn đề như là thuế thu nhập, thuế lợi tức công ty, thuế doanh thu, thuế hải quan, thuế giá trị gia tăng (value-added-tax) và thuế bán hàng, thuế xuất nhập khẩu, thuế đất và các loại thuế khác.
Một dạng của hoạt động mang tính xây dựng hình tượng tích cực là tập trung nhiều hơn vào việc kinh doanh trong cộng đồng nói riêng và vào việc liên lạc với các hãng tư nhân vì mục đích chung và đặc biệt. Các niên giám thương mại và tài liệu tham khảo cũng như các mối đầu tư, các cuộc triển lãm thương mại và công tác giao dịch là những công cụ nâng đỡ cho bước đầu của quá trình đầu tư. Quảng cáo là một công cụ khác cho bước khởi đầu của sự tiếp xúc. Tuy nhiên điều này thường đòi hỏi các cơ quan xúc tiến đầu tư phải quảng cáo trên các phương tiện truyền thông của nước ngoài. Mặc dù, quảng cáo trên những phương tiện truyền thông là tác động trực tiếp nhất đến phần lớn các nhà đầu tư nước ngoài trong tương lai nhưng có thể lại rất tốn kém, đặc biệt khó khăn đối với các quốc gia đang phát triển để có thể tập trung vào hệ thống thông tin của dân cư thủ đô ở các nước khác nhau. .
Một số nước ở khu vực ASEAN đã là những thực thể đơn lẻ rất hữu hiệu trong việc thu hút đầu tư, họ đã coi các bước hội nhập khu vực thành một khối là một địa điểm cho đầu tư. Quyết định mà các cơ quan xúc tiến tiến hành không chỉ ở quốc gia của họ mà còn cần thiết cho cả các nước thành viên khác, điều này đã được thông qua và nhấn mạnh tại diễn đàn ASEAN năm 1996 ở Thái Lan. Sự kiện này cho thấy các cơ quan xúc tiến đầu tư nước ngoài có thể đạt được cả sự cạnh tranh và hợp tác trong việc thu hút đầu tư nước ngoài
B, Năng động trong việc thu hút các dự án đầu tư:
Các nhà hoạch định chính sách ở các nước phát triển và đang phát triển đã và đang tìm hướng xác định vai trò thường nhật của họ căn cứ vào sự ra đời của thể chế tự do đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hầu hết các chính phủ vẫn muốn việc chuyển vốn sang các ngành công nghiệp được chọn lọc, khuyến khích và các ngành công nghiệp này có được sự ảnh hưởng của các kỹ năng và công nghệ của nước ngoài, thêm sức mạnh nhằm cải thiện ngành công nghiệp. Tuy nhiên các quan chức chính phủ cũng nhận thức được rằng việc khuyến khích đầu tư không chỉ dựa vào chính sách. Một vấn đề mà các nhà làm luật quan tâm và cần có sự trao đổi kinh nghiệm là việc một số chính sách có vẻ tương tự nhau đã được áp dụng và thất bại ở một số quốc gia này nhưng lại thành công ở một số quốc gia khác.
ở thời điểm khởi đầu, một cơ quan xúc tiến đầu tư năng động trong việc định hướng đầu tư sẽ có khả năng thu hút các loại hình đầu tư phù hợp với mục tiêu đầu tư lâu dài của nước mình tốt hơn là những cơ quan xúc tiến đầu tư kém năng động hoặc những cơ quan xúc tiến đầu tư áp dụng sự tiếp cận rộng khắp đối với tất cả các ngành công nghiệp. Vì vậy, những nước này có thể nhận được những loại hình đầu tư tạp nham, không cần thiết và không đồng bộ. Ví dụ, các nước như Malaysia và Singapore đã bỏ việc thu hút đầu tư vào các ngành thu hút lao động rộng thay vào đó là nguồn nhân lực được đào tạo chính quy và nay họ đang tập trung vào các hoạt động nâng cao tay nghề. Vì vậy, trong một khuôn khổ tự do, khi mà các ưu tiên và các mục tiêu đặc biệt của chính phủ ở dạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thì nó sẽ có một ảnh hưởng đặc biệt tích cực tới sự phát triển quốc gia; một chương trình xúc tiến đầu tư được định hướng rõ ràng bởi một cơ quan xúc tiến đầu tư có thể cung cấp những phương tiện để đạt được những mục tiêu trên.Những ưu tiên hoặc những mục tiêu đặc biệt này có thể liên quan tới mức phát triển của quốc gia, các chương trình phát triển trong khu vực, sự mở rộng lao động trong sản xuất, quy mô của các hãng và trình độ kỹ thuật... Nhiều ví dụ cho thấy, xúc tiến đầu tư có định hướng có thể là một nhân tố quyết định bởi các nhà đầu tư tương lai có thể sẽ bỏ qua những yếu tố thiếu tính thuyết phục trước đó. Cũng cần phải tính đến các đặc thù riêng của từng quốc gia trước khi áp dụng một biện pháp chung với các mục tiêu tương tự trong việc thu hút đầu tư.
Việc thực hiện các phương pháp xúc tiến đầu tư có định hướng đòi hỏi các cơ quan xúc tiến đầu tư liên lạc trực tiếp với một hãng đặc biệt hoặc một nhóm các hãng trong một ngành công nghiệp để giới thiệu những lợi thế cho họ khi đầu tư vào quốc gia của cơ quan xúc tiến. Thông lệ này ở dưới dạng các diễn đàn hay các hội thảo về công nghiệp hay về lĩnh vực đầu tư, nhưng tính chất của nó lại đặc biệt hơn việc định hướng xây dựng “hình tượng” mang tính tích cực. Những hoạt động này tập trung vào tiềm năng đặc biệt ở cấp độ ngành hoặc cấp độ dự án. Ví dụ, nó có thể bao gồm điều khoản quy định của các nghiên cứu có tính khả thi cho các dự án đầu tư tương lai. Qua khảo sát, có 50% các nước phát triển và đang phát triển hướng các nghiên cứu có tính khả thi của họ vào các dự án đầu tư tiềm năng. Chi phí cho các nghiên cứu có tính khả thi này rất tốn kém và đòi hỏi có nhiều thời gian để chuẩn bị, thêm nữa, các điều kiện kinh tế và thương mại thay đổi liên tục ở một nước dẫn tới kết quả là vào thời điểm khi các nghiên cứu được hoàn thành thì cũng là lúc nó bị lỗi thời và vô dụng. Trong bất cứ trường hợp nào, các nhà đầu tư nước ngoài thường hoài nghi về dữ kiện và các con số mà họ được cung cấp và họ sẽ thường tính toán lấy.
Để đạt được mục tiêu, các nước chủ nhà phải tập trung nỗ lực trong xúc tiến đầu tư của họ đối với các quốc gia chủ đầu tư hoặc các nước đang đầu tư kinh tế tương tự trên quốc gia chủ đầu tư. Trong bất cứ trường hợp nào, các hãng đã xác định mục tiêu nên sẵn sàng quan tâm đến việc tìm một địa điểm đầu tư ở nước ngoaì và đang chuẩn bị tìm kiếm điều kiện đầu tư đặc biệt của nước có sức hút đặc biệt. Đó chính là lý do tại sao sự lựa chọn ban đầu lại có ích trước khi đưa ra một loạt các diễn đàn và hội thảo về công nghiệp hoặc lĩnh vực đầu tư. Do vậy, việc theo dõi môi trường thương mại quốc tế rất cần thiết trong việc lựa chọn các “ứng cử viên”. Quá trình lựa chọn này đòi hỏi một hệ thống nhằm xác định và thu hút các nhà đầu tư cũng như nhằm khẳng định thế mạnh kinh tế cũng tài chính của họ. Tiếp cận với các dữ liệu nước ngoài và sự vi tính hoá các dữ liệu hiện tại có thể sẽ thuận lợi cho việc quản lý môi trường quốc tế và vì vậy sẽ giúp đỡ một cách tích cực vào việc chọn ra các “ứng cử viên” có tiềm năng. Tuy nhiên việc vi tính hoá các hệ thống thông tin xúc tiến đầu tư cũng như việc tiếp cận được với các dữ liệu điện tử nước ngoài sẽ rất đắt, và có thể sẽ bất lợi đối với các nước nghèo hơn hay các nước đang phát triển. Theo khảo sát của UNCTAD, 28% các nước đang phát triển đã và đang vi tính hoá hệ thống thông tin xúc tiến đầu tư; có ít nhất khoảng 53% các nước phát triển có hệ thống này.
Để năng động hướng mục tiêu vào các nhà đầu tư, có lẽ các biện pháp khuyến khích cho đầu tư đã hình thành và tạo cơ hội đầu tư trong khung pháp lý và khung chính sách đầu tư ở hầu hết các nước. “Khuyến khích” là một lợi thế hoặc một sự nhượng bộ nào đó mà nước chủ nhà đưa ra nhằm thúc đẩy đầu tư. Các biện pháp khuyến khích có tiềm năng bao phủ toàn bộ hoạt động kinh doanh bao gồm những ảnh hưởng về doanh thu,đầu vào,vốn,Chi phí cho các khoản vay ,chi phí tài sản cố định ,thuế công ty,lao động và đất đai. Biện pháp khuyến khích có thể là về tài chính, ví dụ miễn hoặc giảm thuế trong một giai đoạn nhất định hoặc không nhũng nhiễu về tài chính, như khả năng có thể hoạt động sau hàng rào phi thuế quan. Khảo sát cho thấy 86% các quốc gia sử dụng các biện pháp khuyến khích để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Các biện pháp khuyến khích hình thành một yếu tố quyết định trong các chương trình xúc tiến đầu tư mà các nhà làm luật thường sử dụng như là một tiêu chuẩn để so sánh với cách thúc đẩy đầu tư của nước khác. Nhưng việc này thường đem lại một số vấn đề khó khăn bởi các vấn đề đa dạng nảy sinh trong các điều khoản tương đối liên quan đến các biện pháp khuyến khích gây khó khăn cho đánh giá sát thực ảnh hưởng của chúng.
C, Tạo điều kiện thuận lợi cho sự tham gia của đầu tư mới và quản lý các nhà đầu tư.
Các chính phủ có sự lựa chọn giữa việc cho phép đầu tư nước ngoài mà không cần sự thông qua đặc biệt hoặc đầu tư có định hướng. Mối liên quan của sự lựa chọn này với sự khuyến khích đầu tư là để đánh giá sức hấp dẫn của một môi trường đầu tư. Vì vậy một sự cân nhắc quan trọng của các nhà làm luật là làm thế nào để bảo đảm không có sự bế tắc trong quy chế và thể chế ở thời điểm đầu tư ban đầu.
2.Vai trò của xúc tiến đầu tư
- Xúc tiến đầu tư nước ngoài không ngoài mục đích thiết thực là để thu hút vốn đầu tư nước ngoài mà cụ thể là các hoạt động xúc tiến phải làm tăng số lượng và chất lượng các dự án của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Hiện nay mục tiêu vận động đầu tư của ta là chú trọng thu hút vốn của các tập đoàn lớn trên thế giới và nguồn vốn từ các nước có tiềm năng kinh tế lớn, thị trường lớn, công nghệ cao như Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản... Các khu vực mà đang cần vận động đầu tư là các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao và một số khu kinh tế mở. Về lĩnh vực đầu tư mà ta đang cần xúc tiến mạnh mẽ là nông lâm nghiệp, ứng dụng công nghệ sinh học, chế biến xuất khẩu, các ngành công nghiệp mũi nhọn, kỹ thuật cao cũng như những ngành sử dụng nhiều lao động, nguyên liệu của Việt Nam. Đây là vai trò chính và quan trọng nhất của xúc tiến đầu tư. Thu hút vốn đầu tư là nền tảng để tạo ra hoạt đông đầu tư cũng như phát triển kinh tế xã hội vùng xúc tiến đầu tư.Thu hút được vốn đầu tư càng nhiều thì càng chứng tỏ hoạt động xúc tiến đầu tư có hiệu quả. Tuy nhiên cần phải chú ý đến viêc sử dụng vốn đầu tư.
- Xúc tiến đầu tư còn để xây dựng, tăng cường lợi thế môi trường đầu tư, những lợi thế cạnh tranh trong thu hút đầu tư nước ngoài vào một nước sở tại. Xúc tiến đầu tư cũng như quảng cáo một sản phẩm để mọi người chú ý hơn sản phẩm khác.Như vậy quảng cáo chính tạo ra lợi thế cho sản phẩm hay nói cách khác mục tiêu của xúc tiến đầu tư là tăng cường lợi thế cạnh tranh cho vùng xúc tiến đầu tư. Việt Nam ta vốn có những lợi thế cho đầu tư nước ngoài như chế độ chính trị ổn định, luật đầu tư thông thoáng, giá nhân công rẻ, dân trí cao, tính thích nghi linh hoạt của đội ngũ lao động.
Đi vào cụ thể, xúc tiến đầu tư phải tạo ra khả năng hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài tích cực chuyển vốn vào Việt Nam, đồng thời xúc tiến đầu tư cũng phải hướng nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài theo mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài phải là công cụ để chuyển tải những yếu tố thuận lợi của môi trường đầu tư thông qua các cơ chế hữu hiệu của hệ thống các khuyến khích tác động đến nhà đầu tư tiềm tàng ở nước ngoài.Bởi đầu tư có rẩt nhiều loại hình đầu tư ,phương thức đầu tư rất đa dạng và phong phú. Trong khi đó mỗi thời kì , mỗi vùng lại đòi yêu cầu khác nhau về đầu tu như yêu cầu về đầu tư công nghệ, yêu cầu về đầu tư khai thác tài nguyên thiên nhiên, yêu cầu đầu tư trong nông nghiệp, v.v… Vì vậy XTĐT phảI có mục tiêu hướng nguồn đầu tư theo mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, địa phương.Tránh lãnh phí nguồn lực cũng như đồng vốn đầu tư ,phát huy hiệu quả của XTĐT.
3. Nhiệm vụ của xúc tiến đầu tư
- Cung cấp các thông tin về môi trường đầu tư, sự phát triển kinh tế của đất nước hoặc địa bàn cần đầu tư, hỗ trợ và tư vấn cho các nhà đầu tư về cơ hội kinh doanh.
-Ngoài việc ban hành những chính sách, Nhà nước và các bộ, các ngành, UBND và các cơ quan liên quan đến hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài cần phải có hành động thực tế, cụ thể trong hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài.Có thể ban hành thêm các chính sách ưu đãi đầu tư cho một ngành nghề, hoặc ưu đãi đầu tư ở một địa phương nào đó.
-Tăng cường quảng bá ,sử dụng các phương tiện thông tin để tuyên truyền về tình hình đầu tư Việt Nam, thiết lập hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử, ngân hàng dữ liệu và cung cấp các dịch vụ cần thiết khác nhằm hình thành nên những trung tâm đầu mối đầu tư tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nâng cao hiệu quả nghiên cứu môi trường đầu tư Việt Nam, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư.
- Các cơ quan liên quan đến công tác xúc tiến đầu tư qua quá trình hoạt động phải có đóng góp ý kiến cho Chính phủ, Bộ Kế hoạch Đầu tư trong việc hoạch định các chính sách thu hút đầu tư, lên kế hoạch cho các chiến lược xúc tiến đầu tư. Đồng thời, các cơ quan này cũng phải có sự trợ giúp, hướng dẫn đối với các nhà đầu tưi trong quá trình thực hiện dự án từ khi xin giấy phép đầu tư cho đến khi được các cấp thẩm quyền phê duyệt và tiến hành dự án đầu tư.
Yêu cầu đối với chương trình xúc tiến đầu tư:
Xúc tiến đầu tư phải căn cứ vào nhu cầu phát triển kinh tế xã hội của đất nước, địa phương trong từng giai đoạn cụ thể để có các chiến lược xúc tiến đầu tư phù hợp ở từng ngành, từng địa phương,...
Hoạt động xúc tiến đầu tư mặc dù để thúc đẩy đầu tư nhưng không được vì lợi ích tối đa của đầu tư là lợi nhuận mà bất chấp những đòi hỏi tôn trọng truyền thống văn hoá, xã hội của dân tộc.
Hoạt động xúc tiến đầu tư không được để nhà đầu tư khai thác sự yếu kém của người tiếp nhận đầu tư và các nhà doanh nghiệp vì các chủ đầu tư thường chú ý khai thác những sơ hở, yếu kém về luật lệ, thủ tục và cán bộ.
Các công cụ của xúc tiến đầu tư :
Để thu hút đầu tư, mỗi nơi đều phải có những biện pháp xúc tiến để tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi nhất cho các nhà đầu tư trong khuôn khổ pháp luật, văn hoá chấp nhận được.
Hình thức “quảng cáo” môi trường đầu tư: sử dụng triệt để các phương tiện thông tin để tuyên truyền, thông báo môi trường đầu tư có tính thuyết phục của nơi cần XTĐT cho các nhà đầu tư, hay các cơ quan tư vấn đầu tư, các tổ chức có liên quan đến lĩnh vực đầu tư.
Các phương tiện thông tin ngày nay rất đa dạng gồm cả phát thanh, truyền hình, báo chí, tài liệu... là những phương tiện thông tin truyền thống. Nhưng đặc biệt ngày nay phải kể đến một phương tiện thông tin mới rất phổ biến ở các nước phát triển và cả các nước đang phát triển là hệ thống mạng Internet đã liên kết toàn thế giới. Trong những năm gần đây việc sử dụng khai thác mạng Internet phát triển một cách đáng kinh ngạc. Việc đưa các thông tin về các vấn đề hoạt động liên quan đến đầu tư đã được đề ra trong Chương trình hành động xúc tiến đầu tư á-Âu của Hội nghị á-Âu tổ chức tại Bangkok ngày 2 tháng 3 năm 1996. Chưa bao giờ trong lịch sử thông tin lại có một công nghệ phát triển nhanh và có ảnh hưởng lớn lao như vậy. Internet đã trở thành một công cụ làm tăng tốc độ cung cấp thông tin, tạo ra những hy vọng của sự ảnh hưởng rộng lớn đối với sự cải thiện xã hội tốt hơn. Người ta dự đoán rằng có hơn 50 triệu người đang sử dụng mạng World Wide Web; và tới năm 2000, sẽ có đến hàng trăm triệu người sử dụng mạng này. Phương tiện thông tin Internet này giúp các nước có thể “tung” những thông tin về môi trường đầu tư nước mình lên mạng để những thông tin này đến được với số lượng lớn các nhà đầu tư. Một trong những đề nghị được nêu ra trong Hội nghị á-Âu là Chương trình hành động xúc tiến đầu tư ASEM (ASEM: Hội nghị thượng đỉnh á-Âu) sẽ phối hợp thiết lập một trung tâm trao đổi thông tin lưu trữ ASEM dưới hình thức hộp thư trong đó những thông tin liên quan có thể lưu trữ và nối với từng quốc gia một và chương trình thông tin được liệt kê. Mục tiêu của trung tâm trao đổi thông tin này là cung cấp cơ sở dữ liệu của các công ty và các cơ hội đầu tư của các khu vực để tạo điều kiện cho các nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận. Trung tâm trao đổi thông tin này cũng sẽ hoạt động như một “diễn đàn ảo” để các doanh nghiệp trong khu vực khai thác cơ hội kinh doanh và để xác định và tiếp xúc với các đối tác có tiềm năng. Nếu như cần thiết, ngoài việc sử dụng Internet, các thông tin đầu tư có thể sử dụng thông qua việc lưu hành các cuốn sách hướng dẫn đầu tư, đĩa CD, hoặc các phương tiện thông tin khác.
Những thông tin cần cung cấp cho các nhà đầu tư bao gồm:
Số liệu thông tin kinh tế vĩ mô cơ bản
Bắt đầu và triển khai hoạt động kinh doanh như thế nào
Những vấn đề pháp lý cơ bản
Hệ thống thuế
Chương trình ưu đãi đầu tư và các quy định đầu tư khác
“Danh mục” các công ty cung cấp dịch vụ như môi giới bất động sản, xây dựng dân dụng, luật sư, các nhà tài chính, tư vấn kinh doanh, nghiên cứu thị trường, công ty tư vấn công nghệ thông tin...
Các hoạt động đầu tư cụ thể theo ngành
Chi phí kinh doanh, lao động và đất công nghiệp
Các mối tiếp xúc với các cơ quan và chính phủ
Các mối tiếp xúc với hiệp hội khu vực tư nhân
Phòng họp ảo để các nhà kinh doanh có thể tìm thấy đối tác tiềm năng và/ hoặc thống kê những mối quan tâm kinh doanh cụ thể của họ.
Tuyên truyền là một công cụ xúc tiến marketing nói chung và cũng là một công cụ xúc tiến đầu tư nói riêng. Hình thức tuyên truyền sẽ có tác động đến đông đảo lực lượng các nhà đầu tư nước ngoài. Hành động cụ thể của tuyên truyền để xúc tiến đầu tư có thể thông qua hình thức họp báo, hội thảo hay trong các cuộc gặp gỡ giữa các nhà lãnh đạo các nước, hay trong những buổi ký kết các biên bản liên quan đến lĩnh vực đầu tư, trao đổi thương mại giữa các nước trong khu vực hay giữa các khu vực trên thế giới.
Ngoài việc “quảng cáo” tuyên truyền cho môi trường đầu tư và kinh doanh, cần phải kết hợp với các đại diện của nhà nước ở nước ngoài như đại sứ quán, thương vụ nhằm giới thiệu và vận động đầu tư, thiết lập quan hệ với cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư của một số nước để trao đổi thông tin, kinh nghiệm, đẩy mạnh quan hệ với công ty tư vấn pháp luật, dịch vụ đầu tư quốc tế để có nguồn thông tin và có sự trợ giúp trong công tác xây dựng luật, vận động đầu tư.
Cũng cần tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế để giới thiệu môi trường đầu tư. Các bộ, các ngành, ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh và các Ban quản lý khu công nghiệp cấp tỉnh, thành phố cần tổ chức các cuộc vận động đầu tư ở nước ngoài nhằm thu hút các nhà đầu tư.
Chính phủ cần phối hợp với các bộ, ngành và các hiệp hội, công ty hữu quan để tổ chức các diễn đàn đầu tư, triển lãm về đầu tư trực tiếp nước ngoài, diễn đàn quan hệ hợp tác các khu vực và tổ chức những chiến dịch vận động đầu tư đặc biệt đến các khu vực trên thế giới.
CHƯƠNG 3THựC TRạNG XúC TIếN ĐầU TƯ Và CÔNG VIệC CHUẩN Bị TIềN KHả THI TRONG THU HúT VốN ĐầU TƯ NƯÍc ngoài ở VIệT NAM
1. Sự cần thiết phải xúc tiến đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc phải tích cực xúc tiến đầu tư nước ngoài của Việt Nam:
Ta phải xúc tiến đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trước tiên vì đầu tư nước ngoài có một vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
Có thực hiện xúc tiến đầu tư mới giới thiệu được môi trường đầu tư thuận lợi và có tính cạnh tranh của Việt Nam.
Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam đang giảm sút nên việc thực hiện những hoạt động xúc tiến đầu tư là cần thiết để nâng lên và giữ vững mức đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
2. Môi trường đầu tư Việt Nam
- Sự ổn định về chính trị, kinh tế – xã hội và đường lối đổi mới đúng đắn
-Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam là một bộ luật “thoáng”, hấp dẫn và không ngừng được sửa đổi.
-Việt Nam có lợi thế so sánh về nguồn lao động dồi dào, có trình độ học vấn và giá công nhân rẻ.
- Việt Nam có nguồn tài nguyên đa dạng, tương đối phong phú, vị trí địa lý thuận lợi, cơ sở hạ tầng ngày càng được phát triển và nâng cao
- Việt Nam là một thị trường tiềm năng lớn.
3.Thực trạng xúc tiến đầu tư Việt Nam
Những thành tựu đạt được:
Do những cố gắng, mặc dù có những điểm chưa thật hoàn thiện trong hoạt động xúc tiến đầu tư nước ngoài, Việt Nam đã đạt được một số thành quả.
Về số lượng dự án, kể từ năm 1988 đến 1998 có tới 2488 dự án đầu tư nước ngoài với tổng vốn đăng ký lên tới hơn 35 tỷ USD, trong đó năm 1995 đạt đỉnh cao với 370 dự án gấp 10 lần so với năm thấp nhất là năm 1988 với 37 dự án. Điều này chứng tỏ càng ngày càng có nhiều các nhà đầu tư nước ngoài biết tới Việt Nam- một nước có môi trường đầu tư thuận lợi.
Số liệu thống kê cho thấy, mặc dù quy mô vốn của dự án năm nay (1999) giảm xuống chỉ còn 1/3 mức năm trước, nhưng tỷ lệ vốn pháp định so với vốn đăng ký đã được nâng lên đáng kể. Ví dụ, tỷ lệ này trong lĩnh vực công nghiệp dầu khí tăng từ 63% lên 97%; tài chính-ngân hàng và thuỷ sản từ 31%-44% lên 90%, công nghiệp nhẹ từ 40% lên hơn 50%, nông-lâm nghiệp từ 50% lên hơn 60%... (Nguồn: Báo Đầu tư ngày 13/12/1999).
Trong 11 tháng năm 1999 vừa qua, có 32 tỉnh, thành phố thu hút được dự án mới, trong đó ít nhất là Hà Tĩnh có 1 dự án với vốn đăng ký 43 ngàn USD, cao nhất là TP Hồ Chí Minh thu hút được 82 dự án với tổng vốn đăng ký hơn 316 triệu USD. Trong số các tỉnh, thành phố nói trên, chỉ có Hà Nội, Bình Dương và TP Hồ Chí Minh thu hút vượt 240 triệu USD, các tỉnh, thành phố đạt khá là Khánh Hoà, Phú Thọ, Quảng Ngãi, Đồng Nai, Hải Phòng, Long An và Bà Rịa-Vũng Tàu, thu hút được từ 10 đến 43,2 triệu USD. T
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vai trò của các hoạt động xúc tiến đầu tư và các công việc chuẩn bị tiền đầu tư trong thu hút đầu tư nước ngoài, liên hệ với việt nam.DOC