Đề tài Thuế giá trị gia tăng và vấn đề kế toán thuế gtgt đầu vào trong các doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu trừ thuế ở Việt Nam hiện nay

Lời nói đầu 1

Phần I. Tổng quan về thuế GTGT 2

1. Những vấn đề chung về thuế GTGT 2

1.1. Các khái niệm chung 2

1.2. Căn cứ và phương pháp tính thuế 3

2. Đặc điểm của thuế GTGT 4

3. Vai trò của thuế GTGT 5

4. Những ưu, nhược điểm của thuế GTGT so với thuế doanh thu ở Việt Nam 6

5. Vấn đề thuế GTGT đầu vào 9

5.1. Khấu trừ thuế GTGT đầu vào 9

5.2. Hoàn thuế GTGT 10

5.3. Kế toán thuế GTGT đầu vào trong các doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu trừ 11

Phần II. thực trạng vấn đề thuế GTGT đầu vào ở việt nam trong thời gian qua 15

1. Sự cần thiết phải áp dụng thuế GTGT ở việt nam 15

2. Những thành công của việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào trong thời gian qua 16

3. Những bất cập trong việc hạch toán thuế GTGT đầu vào 17

3.1. Về tài khoản sử dụng 17

3.2. Về văn bản quy phạm pháp luật về khấu trừ thuế GTGT đầu vào 18

3.3. Về quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ 20

3.4. Vấn đề hoàn thuế GTGT 21

3.5. Với vấn đề khấu trừ thuế đầu vào cho hàng hoá xuất khẩu 24

3.6. Với vấn đề khấu trừ thuế GTGT của hàng nhập khẩu 24

Phần III. Một số kiến nghị nhằm tiếp tục hoàn thiện vấn đề kế toán thuế GTGT đầu vào 25

1. Về tài khoản sử dụng và phương pháp hạch toán 25

1.1. Về tài khoản sử dụng 25

1.2. Về phương pháp hạch toán một số nghiệp vụ chủ yếu 26

2. Bổ sung việc khấu trừ thuế GTGT đối với hàng xuất nhập khẩu 27

3. Quy định lại việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào 27

4. Nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác hoàn thuế 28

5. Hoàn thiện các văn bản hướng dẫn 29

6. Cải tiến công tác hoá đơn chứng từ 29

7. Tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục 30

8. Hình thành và phát triển dịch vụ tư vấn thuế 30

9. Xử lý nghiêm khắc những doanh nghiệp, cá nhân có các hành vi vi phạm các quy định, những cán bộ thuế, hải quan tiếp tay cho các hành vi vi phạm 32

Kết luận 33

Danh mục tài liệu tham khảo 34

 

doc35 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 1534 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thuế giá trị gia tăng và vấn đề kế toán thuế gtgt đầu vào trong các doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu trừ thuế ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thuế theo phương pháp khấu trừ cũng được cơ quan thuế xem xét để thực hiện. * Kê khai thuế: Cơ sở kinh doanh phải kê khai thuế GTGT từng tháng và nộp cho cơ quan thuế trong 10 ngày đầu của tháng sau, theo mẫu tờ khai thuế. Cơ sở kinh doanh, người nhập khẩu thì kê khai theo từng lần nhập khẩu cung với việc kê khai thuế nhập khẩu. Cơ sở kinh doanh buôn chuyến thì phải kê khai theo từng chuyến và nộp trước khi mua hàng. Kinh doanh nhiều chủng loại hàng hoá phải kê theo từng mức thuế suất, nếu không xác định được sẽ phải tính và nộp thuế theo mức thuế cao nhất. * Nộp thuế: Cơ sở kinh doanh nộp thuế GTGT phải đầy đủ, đúng hạn; thời hạn chậm nhất không quá 25 ngày của tháng sau. Thuế phải nộp bằng Đồng Việt Nam. Nếu cơ sở kinh doanh có số thuế đầu vào lớn hơn số thuế đầu ra thì được khấu trừ vào kỳ tính thuế sau. * Quyết toán thuế: Thuế GTGT quyết toán hàng năm theo năm dương lịch, trong 60 ngày từ khi kết thúc năm. Nếu còn thiếu thì phải nộp trong 10 ngày kể từ ngày nộp báo cáo quyết toán; nếu nộp thừa thì được trừ vào số thuế phải nộp kỳ sau. Nếu sát nhập, giải thể, chia, tách, phá sản phải gửi báo cáo quyết toán thuế với cơ quan thuế trong 45 ngày kể từ ngày có quyết định sát nhập, giải thể... Tóm tắt ở chương này ta đã trình bày những lí luận chung cơ bản nhất về thuế GTGT và kế toán thuế GTGT đầu vào. Ta đã nêu ra được phần nào vai trò của thuế GTGT và vấn đề thuế GTGT đầu vào là hết sức quan trọng. Do đó, chúng ta đã và đang xây dựng cho mình một Luật thuế GTGT hoàn chỉnh. ở phần sau chúng ta sẽ xem xét cụ thể vấn đề thuế GTGT đầu vào trong luật Thuế GTGT được ban hành ở Việt Nam từ năm 1999 và đang từng bước thể hiện vai trò của mình trong quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam. Phần II thực trạng vấn đề thuế GTGT đầu vào ở việt nam trong thời gian qua 1. Sự cần thiết áp dụng thuế GTGT ở Việt Nam. Từ năm 1986 Việt nam thực hiện chủ trương đổi mới sự phát triển kinh tế từ một nền kinh tế mang nặng tính tự túc, tự cấp quản lý theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước bằng cách phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế và tăng cường hợp tác liên doanh với nước ngoài. Điều đó đã tạo động lực cho phát triển kinh tế. Bước vào thời kỳ hội nhập với các nước trên thế giới, hệ thống thuế hiện hành, trong đó có thuế doanh thu bộc lộ rõ nhưng nhược điểm vốn có của nó, khiến cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn. Luật thuế doanh thu đã được chính thức áp dụng thống nhất trong các thành phần kinh tế từ ngày 01/01/1991, thay thế cho Pháp lệnh thuế công thương nghiệp, chế độ thu quốc doanh áp dụng riêng cho các thành phần kinh tế trước đây. Bên cạnh những ưu điểm của loại thuế này như đã đảm bảo nguồn thu tập trung tương đối ổn định, số thu tăng nhanh qua các năm và chiếm tỷ trọng lớn trong NSNN, mức thuế suất thống nhất không phân biệt thành phần kinh tế đã tạo nên sự bình đẳng về nghĩa vụ thuế, đơn giản trong tính toán và kiểm tra .v.v... thì Luật thuế doanh thu hiện hành đã bộc lộ những hạn chế và nhược điểm chủ yếu sau: + Thuế thu trên doanh thu vì vậy bị thu trùng lắp qua các khâu luân chuyển hàng hoá, thuế tính trùng lên thuế trong một số trường hợp đã gây tác động xấu tới sản xuất kinh doanh và giá cả của một số sản phẩm. + Thuế doanh thu hiện hành quy định quá nhiều nhóm thuế suất cụ thể khác nhau. Sự phân biệt thuế suất vừa phản ánh tình hình kinh tế phát triển không đồng đều, vừa phản ánh chính sách kinh tế xã hội lồng trong chính sách thuế. Vì vậy, trong Luật thuế doanh thu còn thể hiện quá nhiều mục tiêu điều chính khác nhau đã làm hạn chế tính trung lập của loại thuế này. Thuế suất quy định khác nhau và trong một số trường hợp có thuế suất chênh lệch lớn, không chỉ khó xác định thuế suất cụ thể đối với từng loại sản phẩm trong tình hình biến động thị trường mà đã không còn thể hiện được quan điểm mục tiêu khi thiết kế nó. Bên cạnh đó là chi phí quản lý thuế của ngành Thuế cao và dễ gây sai phạm trong công tác quản lý và thu thuế. + Thuế doanh thu hiện hành tuy đã được áp dụng rộng rãi đối với nhiều ngành hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhưng vẫn chưa bao quát được đối với lĩnh vực nhập khẩu, sản xuất mặt hàng chịu thuế TTĐB. Đối với hàng xuất khẩu mặc dù không thu đối với đơn vị sản xuất cuối cùng những vẫn thu ở các khâu trước vì vậy giá hàng xuất khẩu vẫn có kết cấu thuế doanh thu lớn làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam. + Do cách thu còn dàn trải, chưa thực hiện tốt chế độ chứng từ hoá đơn nên tình trạng thất thu còn lớn. Sự phân tích lý luận về thuế GTGT và sự đánh giá Luật thuế doanh thu ở nước ta trên đây cho thấy sự cần thiết xây dựng chế độ thuế GTGT thay thế thuế doanh thu hiện hành ở Việt Nam: + Ban hành thuế GTGT để khắc phục, hạn chế những tồn tại nhược điểm của thuế doanh thu hiện hành, xây dựng chính sách thuế dần phù hợp với cơ chế thị trường. + Xây dựng thuế GTGT đồng thời với cải cách, sửa đổi bổ sung các Luật thuế khác nhằm xây dựng một hệ thống chính sách thuế phù hợp với cơ chế thị trường ở Việt Nam và có tính tương đồng với hệ thống thuế của các nước khu vực và thế giới, góp phần thu hút và thúc đẩy đầu tư của các nước phát triển vào Việt Nam. + Thúc đẩy và tạo tiền đề đổi mới công tác thu thuế hạ thấp chi phí công tác quản lý và thu thuế; thúc đẩy áp dụng chế độ kế toán, chứng từ hoá đơn. Thông qua đó thực hiện mục tiêu tập trung khâu thu và nguồn thu thuế GTGT vào NSNN tốt hơn thuế doanh thu và hạn chế thất thu thuế. Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, Việt nam đã chính thức thông qua Luật thuế GTGT tại kỳ họp lần thứ 11 (từ ngày 2/4/1997 đến 10/5/997) Quốc hội khoá IX và có hiệu lực thi hành từ 1/1/1999. 2. Những thành công của việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào trong thời gian qua Với việc thực hiện luật thuế GTGT, việc cho các doanh nghiệp khấu trừ thuế GTGT đầu vào đã tạo được những thành tựu điển hình sau: * Khuyến khích xuất khẩu Để khuyến khích xuất khẩu, đại bộ phận hàng hoá xuất khẩu đều được áp dụng mức thuế xuất khẩu 0%. Một số loại hàng chịu thuế xuất khẩu như : gạo, than đá, sản phẩm từ gỗ rừng trồng, bàn ghế, sản phẩm chế biến từ từ kim loại (dây đồng, dây nhôm...) trong năm đầu tiên thực hiện luật Thuế GTGT (1999) đến nay được giảm thuế xuất khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu. Cùng với các biện pháp khuyến khích xuất khẩu như : lập quỹ hỗ trợ xuất khẩu...thì việc khấu trừ thuế GTGT đầu vào có tác dụng rõ nét nhất, trực tiếp đến khuyến khích xuất khẩu. Theo quy định của Luật thuế GTGT hàng hoá xuất khẩu được hưởng thuế suất 0% tức là được hoàn toàn bộ Thuế GTGT đã nộp ở đầu vào, việc hoàn Thuế GTGT đối với hàng hoá xuất khẩu thực chất là nhà nước trợ giá cho hàng hoá xuất khẩu nên đã giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu tập trung được nguồn hàng trong nước để xuất khẩu và có lợi thế hơn trước do giảm được giá vốn hàng xuất khẩu và vì thế góp phần tăng khả năng cạnh tranh với hàng hoá trên thị trường quốc tế. Trong năm đầu tiên áp dụng luật thuế giá trị gia tăng (1999) số tiền đã hoàn thuế, tăng vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu khoảng 1.800* tỷ đồng Vì vậy trong điều kiện thị trường xuất khẩu bị hạn chế giá xuất khẩu giảm nhưng với sự cố gắng của các ngành, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu và tác động của cơ chế chính sách nên tổng giá trị xuất khẩu của nước tài sản cố định năm 1999 vẫn tăng so với năm 1998 là 23.18%. Trong đó những mặt hàng được hoàn thuế đầu vào nhiều, xuất khẩu tăng so với năm 1998 như : Cao su 37.7%; cà phê 27.6%; gạo 21.4%; thuỷ sản 14.1%; rau quả 39.6%; dệt may 16%; giày dép 36.4%; thủ công mỹ nghệ 48.6%; điện tử 17.5%.* * Tạo điều kiện cho chống thất thu thuế hiệu quả hơn. Việc khấu trừ thuế GTGT được thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua vào đã buộc người mua đòi hỏi người bán phải xuất hoá đơn, ghi đúng doanh thu với giá trị thực của hoạt động mua bán, khắc phục được tình trạng thông đồng giữa người mua và người bán để trốn lậu thuế. ở khâu bán lẻ thường xảy ra trốn lậu thuế vì người tiêu dùng cuối cùng khi mua hàng không yêu cầu có hoá đơn. Do đó, thay vì quản lý một số lượng lớn đối tượng nộp thuế, cơ quan thuế chỉ cần quản lý một số đối tượng nộp thuế trong khâu bán lẻ. Hơn nữa, ở khâu bán lẻ giá trị tăng thêm thường không lớn nên số thuế thu ở khâu này cũng không nhiều. * Giảm giá thành công trình xây dựng,công trình xây lắp. Việc thực hiện cơ chế khấu trừ và hoàn thuế GTGT của Luật thuế GTGT đã tạo điều kiện cho giá thành công trình đầu tư xây dựng cơ bản giảm khoảng 10% so với trước đây, khi áp dụng thuế doanh thu. Toàn bộ thuế GTGT của công trình đầu tư xây dựng cơ bản được hạch toán riêng, không tính vào giá thành công trình như thuế Doanh thu, vì vậy, chi phí khấu hao tài sản cố định cũng được giảm thấp hơn. Các doanh nghiệp xây dựng mua sắm tài sản cố định có thuế GTGT đều được khấu trừ hoặc hoàn thuế; mặt khác, thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp không phải chịu thuế GTGT cũng làm cho giá thành đầu tư giảm. Từ khi thực hiên Nghị định số 78/NĐ-CP giảm khoảng 50% mức thuế GTGT đối với sản phẩm XDCB thì mức thuế GTGT các doanh nghiệp xây lắp còn phải nộp sau khi khấu trừ đầu vào thấp hơn 4% so với mức khi nộp thuế doanh thu, thậm chí còn được hoàn thuế. Đối với các công trình đầu tư bằng nguồn vốn ODA không hoàn lại thì không phải chịu thuế GTGT; nếu sử dụng nguồn vốn ODA vay thuộc diện được NSNN đầu tư không hoàn trả thì được hoàn thuế GTGT đầu vào. 3. Những bất cập trong việc hạch toán thuế GTGT đầu vào 3.1.Về tài khoản sử dụng Theo quy định, tài khoản(TK) 133-thuế giá trị gia tăng được khấu trừ, dùng để phản ánh thuế GTGT đầu vào được khấu trừ , đã khấu trừ và còn được khấu trừ của doanh nghiệp Tài khoản 133 chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp áp dụng thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, không áp dụng đối với doang nghiệp áp dụng theo phương pháp trực tiếp và hàng hoá, dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT. Tài khoản 133- thuế GTGT được khấu trừ có 2 tài khoản cấp 2 : TK 1331- thuế GTGT được khấu trừ của hàng hoá , dịch vụ: phản ánh thuế GTGT được khấu trừ của vật tư , hàng hoá , dịch vụ mua ngoài dùng vào sản xuất kinh doanh hàng hoá dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thuế. TK 1332 – thuế GTGT được khấu trừ của tài sản cố định: phản ánh thuế GTGT đấu vào của quá trình đầu tư , mua sắm tài sản cố định dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá , dịch vụ chịu thuế theo phương pháp khấu trừ . Doanh nghiệp không được khấu trừ thuế GTGT đầu vào của những hàng hoá ,dịch vụ mua vào dùng cho hoạt động sản xuất kinh doanh những hàng hoá dịch vụ không chịu thuế GTGT, theo thông tư số 122/2000/TT-BTC ngay 29/12/2000:” đối với hàng hoá dịch vụ mua vào dùng đồng thời cho hàng hoá , dịch vụ chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT thì doanh nghiệp phải hạch toán riêng thuế GTGT được khấu trừ và thuế GTGT không được khấu trừ”. Cũng theo thông tư này quy định :”trường hợp không thể hạch toán riêng được thì toàn bộ số thuế GTGT của hàng hoá , dịch vụ mua vào dùng chung cho hoạt đông sản xuất kinh doanh chịu thuế GTGT và không chịu thuế GTGT được hạch toán vào tài khoản 1331. Cuối kỳ, kế toán phải xác định số thuế GTGT được khấu trừ theo tỉ lệ (%) giữa doanh thu chịu thuế GTGT so với tổng doanh thu bán ra. Số thuế GTGT không được khấu trừ sẽ được tính vào giá vốn hàng bán ra hoặc ttính vào chi phí sản xuất kinh doanh tuỳ vào từng trường hợp cụ thể “. Như vậy , trong trường hợp này , người kế toán phải hạch toán vào bên nợ TK 1331 cả phần thuế GTGT được khấu trừ và không được khấu trừ , việc hạch toán như vậy làm cho thông tin cung cấp sẽ khó chính xác và sẽ gây khó khăn cho việc lập báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. 3.2 về văn bản quy phạm pháp luật về khấu trừ thuế GTGT đầu vào Như theo quy định tại tiểu c, tiết 1.2 điểm 1, Mục III, phần B Thông tư 122/2000/thị trường-BTC ngày 29/12/2000 của Bộ Tài chính hướng dẫn chi tiết thực hiện Luật thuế GTGT thì: “ Thuế đầu vào của hàng hoá, dịch vụ được khấu trừ phát sinh trong tháng nào được kê khai khấu trừ khi xác định số thuế phải nộp của tháng đó, không phân biệt đã xuất dùng hay còn để trong kho. Trường hợp hoá đơn GTGT hoặc chứng từ nộp thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ mua vào phát sinh trong tháng, nhưng chưa kê khai kịp trong tháng thì được kê khai khấu trừ vào các tháng tiếp sau, trường hợp vì lý do khách quan thì được khấu trừ trong thời gian tối đa là 3 tháng tiếp sau”. Với quy định chưa rõ ràng này đã tồn tại nhiều cách hiểu khác nhau ở các địa phương, do vậy cũng có nhiều cách xử lý khác nhau: Có thể hiểu: Về nguyên tắc đầu vào của tháng nào thì kê khai ngay trong tháng. Trường hợp chưa kê khai kịp thời với nguyên nhân khách quan thì được khấu trừ trong thời hạn tối đa là 3 tháng, còn đối với trường hợp chậm kê khai vì lý do chủ quan thì được kê khai khấu trừ vào các tháng tiếp sau - không hạn chế thời gian. Hay cũng có thể hiểu là: Chỉ trường hợp vì nguyên nhân khách quan mới được khấu trừ trong thời hạn 3 tháng và 3 tháng là kể từ ngày phát sinh hoá đơn GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ mua vào. .v.v... + Đặc biệt là vấn đề khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào. Với điều kiện thực tế hiện nay thì việc Luật thuế GTGT cho phép các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ được khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào là cần thiết. Thứ nhất, đại đa số các sản phẩm nguyên vật liệu đầu vào dùng cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các cơ sở sản xuất trong nước hiện nay đều có nguồn gốc từ khu vực sản xuất nông nghiệp, có thể chiếm đến 80%. Nhưng theo Luật thuế GTGT thì các sản phẩm này không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT, nếu không cho khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào thì các doanh nghiệp sẽ phải nộp thuế GTGT trên toàn bộ thuế GTGT đầu ra, con số này là không nhỏ. Hơn nữa trong điều kiện hiện nay, giá nông, lâm, thuỷ sản đang xuống giá liên tục, chính sách khấu trừ khống thuế GTGT có tác dụng rất lớn trong thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm cho nông dân, ngư dân. Thứ hai, do tồn tại hai phương pháp tính thuế, nếu không có các đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ được khấu trừ được khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào thì sự chênh lệch giữa hai phương pháp là rất lớn, không công bằng giữa hai đối tượng nộp thuế theo hai phương pháp khác nhau. Nhưng việc khấu trừ khống đối với một số trường hợp cũng là một bất cập trong quá trình áp dụng thuế GTGT, nó không khuyến khích việc thực hiện hoá đơn chứng từ đối với một số đối tượng. Trước hết, là những hạn chế ngay trong các văn bản pháp quy. Mua nông sản, vật liệu ở thị trường tự do chỉ cần bản kê thu mua nhưng mua nông lâm sản của đối tượng nào thì được áp dụng bản kê thu mua. Điều 10 Luật thuế GTGT quy định rõ là mua của đối tượng thoả mãn hai điều kiện: là người trực tiếp sản xuất bán ra và họ không có hoá đơn tài chính. Tuy nhiên, khái niệm “người sản xuất không có hoá đơn“ đã được cụ thể hoá bằng nhiều thuật ngữ khác nhau hoặc là ghi chung chung. Hay sự thiếu đồng bộ của chính sách dẫn đến sự chênh lệch giữa số thuế mà doanh nghiệp được khấu trừ khống với số thuế GTGT mà doanh nghiệp bán hàng hoá cho doanh nghiệp đó nộp. Và thực tế là số thuế phải nộp là nhỏ hơn số thuế được khấu trừ, mức chênh lệch đó chính là số tiền NSNN bị mất, thiệt hại trong quá trình thực hiện việc khấu trừ khống. Hai là những quy định về hoá đơn, chứng từ liên quan đến việc khấu trừ khống theo thông tư 122 chưa được chặt chẽ, dẫn đến nhiều đối tượng nộp thuế đã lợi dụng làm thất thoát tiền thuế của Nhà nước từ các hành động kê khai sai lệch, khống trên hoá đơn, bảng kê... Điều này được thể hiện ở hai dạng: Từ hoá đơn bán hàng: đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ móc nối với các đối tượng nộp thuế theo phương pháp trực tiếp để lập hoá đơn với số lượng hàng hoá, doanh thu rất lớn, kể cả lập hoá đơn khống, nhưng số thuế GTGT phải nộp vào ngân sách với đối tượng này rất thấp. Từ bảng kê 04/GTGT: do chế độ cho phép được lập bảng kê nên các đối tượng tự ý kê khai không rõ tên, địa chỉ người bán, kê khai tăng cao về số lượng, về giá cả hàng hoá, đặc biệt là giá mua vào. Ngoài việc làm giảm thuế GTGT phải nộp, được khấu trừ thuế, hoàn thuế GTGT, điều này còn làm giảm thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp. Đây cũng là một bước lùi tình thế của thuế GTGT so với mục đích đề ra và về lâu dài thì theo khẳng định của Phó Tổng cục trưởng Tổng cục thuế Nhà nước - Nguyễn Đức Quế, Nhà nước sẽ sớm bãi bỏ khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào theo bảng kê số 04/GTGT đi đôi với việc giảm tỷ lệ thuế suất ở đầu ra đối với các mặt hàng trên. 3.3 Về quản lý và sử dụng hoá đơn chứng từ. Hiện tại, đại bộ phận các đối tượng nộp thuế đều đã chấp hành tốt chế độ quản lý, sử dụng hoá đơn chứng từ. Tuy nhiên, vẫn còn số ít đối tượng thực hiện chưa tốt. Do cơ chế xác định số thuế GTGT phải nộp bằng số thuế GTGT đầu ra trừ số thuế GTGT đầu vào, số thuế GTGT đầu vào lớn hơn số thuế GTGT đầu ra thì được hoàn thuế; vì vậy, thực tế vẫn còn hiện tượng trốn lậu thuế. Việc không kiểm soát được hoá đơn, chứng từ, có thể là: không sử dụng hoá đơn, hay sử dụng hoá đơn nhưng ghi không chính xác, hoặc sử dụng hoá đơn giả. Đây là một trong những hạn chế căn bản và là vấn đề cần khắc phục ngay để tránh gây cản trở việc áp dụng thuế GTGT ở nước ta. Theo các quy định hiện hành, hoá đơn hợp pháp phải là hoá đơn do Tổng cục thuế phát hành hoặc được Tổng cụ thuế uỷ quyền phát hành theo quy định. Hoá đơn phải do người bán hàng lập và giao cho người mua hàng hoá, dịch vụ và phải là bản gốc của liên số 2 (liên giao cho khách hàng). Theo đó, các nội dung quy định phải được ghi đầy đủ, không được tẩy xoá, sửa chữa; tờ hoá đơn phải nguyên vẹn không bị rách hoặc nhàu nát. Trong thực tế đã xuất hiện các thủ đoạn gian lận như sau: + Khai khống hoá đơn đầu vào: Một số doanh nghiệp đã lợi dụng hoá đơn thật để ghi khống các khoản thuế và chi phí hàng hoá, dịch vụ hợp lý để khấu trừ thuế đầu ra hoặc tăng chi phí nhằm trốn thuế, hoàn thuế. Kết quả kiểm tra của một số địa phương cho thấy, một số cửa hàng kinh doanh xăng dầu, bán lẻ cho người tiêu dùng không cần hoá đơn sau đó thoả thuận với một số doanh nghiệp có nhu cầu để xuất hoá đơn khống. Doanh nghiệp này sử dụng hoá đơn khống để hợp lý hoá chi phí đầu vào, khấu trừ thuế đầu ra nhằm trốn thuế chia nhau. Hay cụ thể: Cục thuế Tp. HCM phát hiện CTy TNHH Phước Bình (quận 8) sử dụng 5 hoá đơn khống của CTy TNHH Việt Vạn Đại (quận Tân Bình) chiếm dụng 78 triệu đồng tiền thuế và trả hoa hồng cho công ty Việt Vạn Đại 30% số thuế chiếm dụng Những hoá đơn khống này do đâu mà có? Ngoài nguồn hoá đơn chính thức mà các doanh nghiệp được mua thì hiện tượng hàng loạt các doanh nghiệp báo mất hoá đơn, các công ty TNHH bỏ trốn sau khi mua hàng trăm quyển hoá đơn. Trong 9 tháng đầu năm 1999, Cục thuế Tp HCM đã thống kê khoảng 110 công ty TNHH bỏ trốn khỏi địa chỉ kinh doanh sau khi mua hàng trăm quyển hoá đơn sử dụng bất hợp pháp, truy thu hàng chục tỷ đồng tiền thuế. + Không xuất hoá đơn khi bán hàng làm giảm giá thanh toán đầu ra để trốn thuế hoặc hoàn thuế. Một căn cứ để xác định số thuế GTGT là giá thanh toán (hoặc giá tính thuế) của hàng hoá, dịch vụ đầu ra. Giả định đầu vào không đổi, muốn giảm số thuế phải nộp, các doanh nghiệp có thể sử dụng biện pháp làm giảm giá đầu ra bằng cách bán hàng không xuất hoá đơn rồi khai báo là hàng tồn kho để trốn thuê. Chẳng hạn, CTy xà phòng Hà Nội nhập một lượng hoá chất lớn rồi bí mật giao cho liên doanh LeverHaso, hàng chuyển đi xong không xuất hoá đơn mà báo cáo là hàng bị tồn kho. Do số thuế GTGT đầu vào lớn nên công ty đã nhận được 1,8 tỷ đồng tiền hoàn thuế trong 6 tháng đầu năm 1999. + Ghi giá trong hoá đơn bán hàng thấp hơn giá thực tế để trốn thuế GTGT. Do người tiêu dùng trực tiếp không cần hoá đơn khi mua hàng nên một số doanh nghiệp đã lợi dụng, lấy hoá đơn này ghi khống giá bán hàng thấp hơn giá thực tế để giảm giá thanh toán đầu ra (hoặc giá tính thuế) nhằm trốn thuế GTGT. Hay ghi tổng số giá trị hàng hoá không khớp giữa các liên của hoá đơn, liên giao cho khách hàng cao hơn liên lưu rất nhiều hoặc để trống để khách hàng tự ghi. Nhờ đó giúp đơn vị bán hàng phải nộp thuế ít hơn và đơn vị mua hàng lại được khấu trừ thuế nhiều so với giá trị thật của hàng hoá, dịch vụ. + In và sử dụng hoá đơn giả. Hiện nay trên thị trường tồn tại nhiều hoá đơn in lậu lưu hành mà bằng mắt thường rất khó phân biệt. + Một số đơn vị được tự in hoá đơn đặc thù đã in hai hoá đơn cùng một seri để trốn thuế đầu ra. Việc không sử dụng hoặc sử dụng hoá đơn bất hợp pháp trên thực tế có thể gây ra tác hại sau: + Đối với Ngân sách Nhà nước: Ngân sách Nhà nước sẽ bị thất thu thuế do không thu được thuế hoặc thu số thuế it hơn so với thực tế và hậu quả còn nặng nề hơn khi phải trả tiền hoàn thuế cho các hoá đơn không hợp pháp này. + Đối với các doanh nghiệp: Tạo nên sự không bình đẳng trong hoạt động của các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp sẻ dụng hoá đơn giả sẽ có lợi thế trong cạnh tranh do trốn thuế đầu ra, thuế đầu vào được khấu trừ nhiều cho nên họ có thể hạ thấp giá bán. Điều đó làm cho các đơn vị thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán hoá đơn chứng từ gặp không ít khó khăn. + Đối với nền kinh tế xã hội: Tình hình trên kéo dài có thể gây phản ứng dây chuyền làm cho hoạt động kinh tế xã hội vô cùng lộn xộn. Khi hoá đơn thật giả lẫn lộn, tồn tại song song một cách phổ biến sẽ làm mất lòng tin của dân chúng. Điều đó gắn liền với tệ nạn tham ô, móc ngoặc .v.v... gây hậu quả vô cùng nghiêm trọng. 3.4 Vấn đề hoàn thuế GTGT Hầu hết các nước áp dụng thuế GTGT đều sử dụng phương pháp khấu trừ. Do vậy khi thuế đầu vào nhiều hơn thuế đầu ra có nghĩa là được hoàn thuế. ở nước ta, việc hoàn thuế thực sự là một khó khăn đang đặt ra cho Nhà nước. + Sự bất hợp lý trong việc quy định thời gian hoàn thuế Theo quy định tại điểm 1a, Thông tư số 93/1999/thị trường-BTC ngày 28/07/1999 của Bộ Tài chính, các cơ sở sản xuất, kinh doanh nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ nếu luỹ kế 3 tháng liên tục mà số thuế GTGT đầu vào được khấu trừ lớn hơn số thuế GTGT đầu ra thì thuộc đối tượng được hoàn thuế. Nhưng với những quy định thời gian hoàn thuế hiện nay phần nào đã làm giảm tác dụng của công tác hoàn thuế: Theo quy định hiện nay, đơn vị phải kê khai thuế GTGT với cơ quan thuế chậm nhất là 10 ngày đầu của tháng tiếp theo. Sau khi nhận được tờ khai thuế GTGT của đơn vị cơ quan thuế kiểm tra xác nhận sau đó tiến hành thông báo nộp thuế đến cho cơ sở. Kể từ khi doanh nghiệp gửi tờ khai đên khi nhận được thông báo nộp thuế sau do bưu điện chuyển đến cũng phải mất 5 ngày. Như vậy là tối thiểu vào ngày 15 của tháng đơn vị mới có số liệu chính thức của cơ quan thuế thông báo số thuế GTGT phải nộp. Thông báo này chính là một trong những cơ sở vững chắc nhất cho đơn vị thiết lập hồ sơ đề nghị hoàn thuế. Cũng giả sử doanh nghiệp thiết lập ngay thủ tục hoàn thuế gửi cho cơ quan thuế trong ngày 15 và hồ sơ hoàn toàn hợp lệ, bảo đảm tính chính xác thì theo quy định hiện nay cơ quan thuế tiến hành hoàn thuế trong 15 ngày làm việc (19-21 ngày thực tế). Và như vậy, nếu tính hết thời gian cho phép là 15 ngày thì cơ quan thuế có thể ra quyết định hoàn thuế vào ngày 4-6 của tháng tiếp theo. Sau khi ra quyết định hoàn thuế, cơ quan thuế gửi quyết định qua cơ quan kho bạc, cơ quan kho bạc thực hiện việc chi hoàn thuế trong vòng 3 ngày làm việc (3-5 ngày thực tế) kể từ khi nhận quyết định. Vậy đối với đơn vị khi nhận số tiền hoàn thuế là ngày 7-11 (chưa tính ngày đi đường theo đường công văn) và đây cũng chính là thời điểm đơn vị kê khai và nộp thuế GTGT cho tháng tiếp theo. Tóm lại, là với quy trình quản lý thu thuế và hoàn thuế như hiện nay thì việc xảy ra tình trạng số thuế GTGT vừa được hoàn ngay lập tức phải nộp thuế phát sinh dương của kỳ tiếp theo. Nếu chậm có thể nộp thuế phát sinh dương trước khi kịp nhận số thuế được hoàn. Và trường hợp xảy ra là nếu số thuế GTGT phải nộp tháng tiếp theo của kỳ hoàn thuế lớn hơn hoặc bằng số thuế được hoàn thì đơn vị đề nghị hoàn thuế không được lợi gì trong việc hoàn thuế, ngoài ra còn chịu chi phí phát sinh cho việc thực hiện các bước của việc hoàn thuế. Cơ quan thuế, kho bạc cũng phát sinh chi phí quản lý cho công việc này dẫn đến tốn kém cho xã hội. + Hoàn thuế còn chậm so với thời gian quy định. Công việc hoàn thuế hiện nay không phải được diễn ra suôn sẻ, mà còn nhiều nhân tố làm cho việc hoàn thuế chậm hơn so với quy định . Đặc biệt, đối với hàng nhập khẩu. theo một nguồn tài liệu đã công bố, số thuế GTGT của hàng nhạp khẩu dự kiến phải hoàn cho các doanh nghiệp trong năm 1999 là khoảng 5000 tỷ đồng . nhưng đến hết tháng 6/1999 số thuế đã được xét hoàn mới chỉ được 350 tỷ đồng . điều đó chứng tỏ các doanh nghiệp đã và đang bị chiếm dụng một số vốn quá lớn . hậu quả tất yếu là kinh doanh của các doanh nghiệp bị lỗ vì phải trả lãi tiền vay để nộp thuế GTGT. Thủ tục hoàn thuế còn rất phức tạp. Hồ sơ hoàn thuế tưởng chừng như đơn giản nhưng các doanh nghiệp phải chạy đi chạy lại nhiều lần mới có thể hoàn tất được hồ sơ (do thông báo bổ sung hoặc trả hồ sơ không ghi rõ lý do mà chủ yếu do cán bộ thuế hướng dẫ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV192.doc
Tài liệu liên quan