MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU Trang
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
1.1 Nguồn gốc ra đời thuế thu nhập cá nhân . 2
1.2 Vai trò của thuế thu nhập cá nhân: . 3
1.3 Nội dung cơ bản luật thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam . 5
1.3.1 Đối tượng nộp thuế . . . 5
1.3.2 Thu nhập chịu thuế . 5
1.3.3 Thu nhập được miễn thuế . 7
1.3.4 Giảm thuế - kỳ tính thuế . . . 9
1.3.5 Căn cứ tính thuế . 9
1.3.5.1 Đối với cá nhân cư trú . 9
1.3.5.2 Đối với cá nhân không cư trú . 15
1.3.6 Quản lý và hoàn thuế . 18
1.4 Mô hình thuế thu nhập cá nhân ở một số nước . 18
1.4.1. Phần Lan. . 19
1.4.2. Nh ật Bản. . 20
1.4.3. Hà Lan . . . 23
1.4.4. Trung Quốc. . . . 26
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH THU THUẾ THU NHẬP ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ THU NHẬP CAO - CHUẨN BỊ ÁP
DỤNG LUẬT THUẾ MỚI
2.1 Tình hình thu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao giai đoạn 2000-200729
2.2 Chuẩn bị áp dụng luật thuế thu nhập cá nhân mới . 31
2.2.1. Những mặt hạn chế về chính sách và biện pháp quản lý. . 31
2.2.2. Nguyên nhân ban hành luật thuế TNCN. . 33
2.2.3. Những điểm mới của luật thuế TNCN . . 35
2.2.4. Thuận lợi cho ngành thuế và người nộp thuế . . 38
2.2.5. Khó khăn cho ngành thuế và người nộp thuế . 39
CHƯƠNG 3: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP
3.1 Tình hình ngành thuế sau khi Việt Nam gia nhập WTO. . 41
3.2 Các kiến nghị . 45
3.3 Giải pháp . 46
3.3.1. Hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý ngành thuế.46
3.3.2. Tăng cường tuy ên truy ền, phổ biến đến người dân. .47
3.3.3. Những điểm mới của luật thuế TNCN . . 49
3. 3.4. Hạn chế sử dụng tiền mặt . . . 50
3.3.5. Đẩy mạnh việc kết hợp quản lý thuế TNCN . 51
3. 3.6. Hoàn thiện phương pháp quản lý thu thuế . . 52
KẾT LUẬN . 55
57 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5962 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thuế thu nhập cá nhân – lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6.600.000 10.000.000 1.860.000 10
10.000.000 2.200.000 5
(Nguồn: Cục thuế TP.HCM)
Biểu 6 : Biểu thuế cấp quốc gia ở Nhật năm 2001
Thu nhập chịu thuế ¥ Thuế suất (%)
Trên Không quá
0 3.300.000 10
3.300.000 9.000.000 20
9.000.000 18.000.000 30
18.000.000 37
(Nguồn: Cục thuế TP.HCM)
Ở Nhật Bản biểu thuế được quy định theo hai dạng, theo cấp quốc gia và theo địa
phương, với biểu thuế này sẽ thể hiện sự phù hợp với mức sống của từng địa phương và
thành thị là khác nhau ở Nhật Bản.
55
Đề tài nghiên cứu khoa học
Biểu 7 : Biểu thuế địa phương (cấp quận, cấp tỉnh) ở Nhật năm 2001
Thu nhập chịu thuế ¥ Thuế suất (%)
Trên Không quá
0 2.000.000 5
2.000.000 7.000.000 10
7.000.000
(Nguồn: Cục thuế TP.HCM)
Người nộp thuế được trừ một khoản trợ cấp trị giá 380.000¥ đối với thuế cấp quốc
gia và 330.000¥ đối với cấp địa phương cho chính mình, cho vợ/chồng phụ thuộc, cho
những người ăn theo. Nếu thu nhập người chịu thuế dưới 10.000.000¥ thì họ được hưởng
một khoản trợ cấp trị giá đặc biệt 380.000¥ đối với thuế cấp quốc gia và 330.000¥ đối với
cấp địa phương cho chính mình, cho vợ/chồng phụ thuộc. Và một khoản trợ cấp khác trị
giá 150.000¥ đối với thuế cấp quốc gia và 80.000¥ đối với cấp địa phương cho người phụ
thuộc tuổi từ 16-22.
Người không cư trú tại Nhật chịu thuế suất 20% trên tổng thu nhập.
1.4.3. Hà Lan
Từ ngày 01-01-2001, Hà Lan bắt đầu áp dụng một hệ thống thuế mới. Việc cải cách
thuế lần này đã thực hiện theo hướng giảm dần thuế xuất đánh vào thu nhập cá nhân và
tăng thuế xuất đối với các loại thuế gián thu như VAT, thuế môi trường. Cũng như những
loại thuế khác, thuế TNCN ở Hà Lan kể từ ngày 01-01-2001 cũng có một sự thay đổi về
căn bản.
1.4.3.1.Đối tượng nộp thuế
Cũng giống như thuế THCN ở Việt Nam, đối tượng nộp thuế thu nhập ở Hà Lan cũng
bao gồm: Công dân Hà Lan ở trong nước và nước ngoài, người nước ngoài đang công tác,
học tập tại Hà Lan. Thu nhập chịu thế và các khoản giảm trừ được xác định riêng cho từng
55
Đề tài nghiên cứu khoa học
cá nhân. Tuy nhiên một số khoản thu nhập và giảm trừ của vợ, chồng hoặc những người
sống chung như vợ, chồng (có đăng ký chính thức) có thể gộp chung lại để tính thuế.
1.4.3.2. Thu nhập chịu thuế
Kể từ ngày 01-01-2001, thu nhập chịu thuế bao gồm: thu nhập từ công việc và nhà ở,
thu nhập từ các hoạt động tài chính, các khoản tiết kiệm và đầu tư.
a. Nhóm thu nhập thứ nhất: Thu nhập từ công việc và nhà ở bao gồm:
Lợi nhuận kinh doanh cá thể hoặc các hoạt động mang tính chuyên nghiệp.
Tiền lương, tiền thưởng, tiền nhà và xe riêng do người sử dụng lao động
trả, tiền lương hưu, trợ cấp thất nghiệp. Tuy nhiên nếu một số người sử dụng các
phương tiện giao thông công cộng hoặc xe đạp để đi làm thì các khoản chi phí đó
sẽ được trừ ra. Chẳng hạn: nếu một cá nhân sử dụng xe đạp ít nhất 3 ngày/tuần và
khoảng cách từ nhà đến nơi làm việc hơn 10km thì người đó sẽ được trừ 339
EUR/năm.
Thu nhập từ nhà ở (phần lớn người dân phải thuê nhà ở, nhưng những
người ở nhà riêng không phải trả tiền thuê nhà và khoản tiền này được xem là
khoản thu nhập nhà ở).
Thu nhập khác
Các khoản được giảm trừ:
Bảo hiểm nhân thọ (không quá 1.036 EUR/năm)
Chi phí thuê giữ trẻ dưới 13 tuổi (không quá 8.800 EUR/năm)
Trả các khoản cấp dưỡng
Chi phí cho đến 27 tuổi; Chi phí y tế
Chi phí cho các kỳ nghỉ cuối tuần của con bị tàn tất từ 27 tuổi trở lên.
Chi phí cho học tập (Cho đối tượng nộp thuế)
Các khoản đóng góp từ thiện.
b. Nhóm thu nhập thứ hai: Thu nhập từ các hoạt động tài chính.
c. Nhóm thu nhập thứ ba: Thu nhập từ các khoản tiết kiệm và đầu tư.
Thu nhập từ các khoản tiết kiệm và đầu tư = Tài sản ròng x 4%
Tài sản ròng = Tổng giá trị tài sản - nợ và các khoản phải trả
Mỗi cá nhân sẽ được miễn trừ 17.600 EUR từ tài sản ròng trước khi tính thuế. Nếu họ
55
Đề tài nghiên cứu khoa học
có con dưới 18 tuổi, thì mỗi người con sẽ được khấu trừ thêm 2.349 EUR.
1.4.3.3. Thuế suất.
Đối với nhóm thu nhập thứ nhất, thuế suất được sử dụng là thuế suất tỷ lệ
luỹ tiến từng phần và biểu thuế được áp dụng như sau:
Biểu 8 : Biểu thuế lũy tiến từng phần ở Hà Lan năm 2005
Bậc Thu nhập chịu thuế (EUR/năm) Thuế suất (%)
1 Đến 1.870 32,35
2 Từ 14.870 đến 27.009 37,60
3 Từ 27.009 đến 46.309 42,00
4 Trên 46.309 52,00
(Nguồn: Cục thuế TP.HCM)
Đối với nhóm thu nhập thứ hai, thuế suất tỷ lệ cố định được áp dụng là 25%.
Tương tự đối với nhóm thu nhập thứ ba, thuế suất áp dụng là 30%.
Như vậy nhìn chung ưu điểm lớn nhất của thuế TNCN ở Hà Lan là tạo ra sự công
bằng và hợp lý trong tính thuế giữa các đối tượng nộp thuế. Điều này được thể hiện thông
qua chính sách khấu trừ các khoản chi phí liên quan đến thu nhập chịu thuế: Chi phí y tế,
học tập, đóng góp từ thiện… Ngoài ra việc sử dụng thuế xuất luỹ tiến cũng có tác dụng
tạo ra sự công bằng trong điều tiết thu nhập của loại thuế này. Việc cho khấu trừ các
khoản chi phí nuôi dưỡng con và những người không tự tạo ra thu nhập, các khoản đóng
góp từ thiện, bảo hiểm nhân thọ… thể hiện rõ tính nhân đạo của thuế. Tạo sự nhất quán
trong cách tính giữa thuế thu nhập cá nhân và thuế thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế
TNCN ở Hà Lan đã bao quát tất cả các khoản thu nhập của các tầng lớp dân cư. Ngoài ra,
thuế này còn có tác động tích cực đến các vấn đề xã hội khác. Việc cho khấu trừ các
khoản chi phí đi lại nếu một cá nhân sử dụng các phương tiện giao thông công cộng để đi
làm hoặc sử dụng xe đạp có tác động tích cực đối với môi trường và vấn đề giao thông.
55
Đề tài nghiên cứu khoa học
1.4.4. Trung Quốc.
Hệ thống thuế của Trung Quốc khác biệt so với các nước thu nhập vừa và thấp trên
thế giới, và cũng khác biệt so với cá quốc gia Đông Á và khu vực Thái Bình Dương. Điều
gì làm nên sự khác biệt của hệ thống thuế Trung Quốc và những sự thay đổi về cơ cấu
thuế của trung quốc khi nuớc này gia nhập WTO?
Thuế thu nhập cá nhân, phát sinh từ những điều chỉnh thuế cá nhân và thuế thu nhập
doanh nghiệp năm 1994 có doanh số thấp do diện chịu thuế bị thu hẹp lại và đối tượng
miễn giảm tương đối cao. Cải cách năm 1994 hợp nhất thuế thành thuế đơn khâu đối với
các đối tượng nộp thuế nội địa và nước ngoài với các loại thu nhập từ luơng đồng hạng từ
5% - 45% và từ 5 – 35 %....
Thuế cũng rất phức tạp với sự chênh lệch về các loại được khấu trừ. Chính quyền địa
phương được giữ lại các khoản thuế thu đuợc từ thuế TNCN.
Đối với người sống ở Trung Quốc dưới 1 năm, thuế TNCN phải nộp tính trên thu
nhập họ làm được ở Trung Quốc. Đối với người sống ở Trung Quốc trên 1 năm nhưng
dưới 5 năm, thuế TNCN phải nộp tính trên thu nhập họ làm được ở Trung Quốc hoặc bên
ngoài Trung Quốc. Đối với người sống tại Trung Quốc trên 5 năm, tổng thu nhập cá nhân
được cân nhắc phần phát sinh bên ngoài Trung Quốc tính từ năm thứ 6.
Thuế TNCN Trung Quốc được xây dựng trên cơ sở thu nhập: Lương tháng và thu
nhập khác, Tiền bồi thường của các dịch vụ, tiền đặc quyền, bản quyền, lãi suất, lãi cổ
phần, và tiền thưởng, từ cho thuê tài chính, thu nhập từ chuyển giao tài sản , các loại thu
nhập đặc biệt khác do Bộ tài chính qui định.
Biểu 9 : Biểu thuế TNCN của Trung Quốc năm 2005
Đơn vị tính: NDT (Nhân dân tệ)
Bậc Tỉ lệ Thu nhập tháng
1 5 % 1-500
2 10 % 501 – 2 000
3 15 % 2 001 – 5 000
4 20 % 5 001 – 20 000
55
Đề tài nghiên cứu khoa học
5 25 % 20 001 – 40 000
6 30 % 40 001 – 60 000
7 35 % 60 001 – 80 000
8 40 % 80 001 – 100 000
9 45 % 100 001 trở lên
(Nguồn: Cục thuế TP.HCM)
Người nước ngoài làm việc và biểu diễn dịch vụ cá nhân tại Trung Quốc không quá
90 ngày trong một năm lịch (183 ngày cho các mục đích từ các quốc gia theo Hiệp ước
thuế), được miễn thuế TNCN trong số thu nhập từ lương có được từ ngoài Trung Quốc.
Những cá nhân khác là đối tượng chịu thuế thu nhập từ nguồn trong lãnh thổ Trung
Quốc. Thuế TNCN áp dụng như sau:
Tiền lương (thuế lũy tiến 5 - 45%)
Thu nhập của thương nhân kinh doanh cá thể (thuế lũy tiến từ 5 – 45%)
Thu nhập từ dịch vụ cá nhân (mức chung 20%)
Nhuận bút, lợi tức (tiền lãi – interest) và cổ tức, có thu nhập bất thường thuộc
loại chịu thuế theo quy định của Chính phủ có thuế suất cùng mức 20%.
Những danh mục sau được loại trừ khỏi thuế TNCN:
Lãi từ trái phiếu chính phủ
Bồi thường của quốc gia hoặc trợ cấp
Trợ cấp thất nghiệp, lương hưu và các loại phúc lợi khác
Bồi thường của bảo hiểm
Thu nhập của viên chức ngoại giao được miễn trừ theo luật của Trung Quốc.
Thu nhập khác được chấp thuận (cho phép) theo quy định của Bộ tài Chính.
Thuế TNCN được nộp háng tháng, thu nhập 4.000 NDT đầu tiên được khấu trừ
không tính thuế. Ngoài ra còn có mức khấu trừ riêng theo quy định với thu nhập
của thương nhân, tác quyền…
55
Đề tài nghiên cứu khoa học
Như vậy nhìn chung thuế thu nhập cá nhân ở Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng
với Việt Nam. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải tham khảo kinh nghiệm hoạch định
chính sách, quản lý và thu thuế thu nhập cá nhân của Trung Quốc, vì so với các nước
tham khảo thì Trung Quốc là một nước có nhiều điều kiện tương đồng với Việt Nam nhất
trong giai đoạn hiện nay.
55
Đề tài nghiên cứu khoa học
CHƯƠNG 2 : TÌNH HÌNH THU THUẾ THU NHẬP ĐỐI VỚI
NGƯỜI CÓ THU NHẬP CAO – CHUẨN BỊ ÁP DỤNG LUẬT
THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN MỚI
2.1. Tình hình thu thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao giai đoạn 2000
đến 2007
Số thu thuế thu nhập trong giai đoạn từ 2000 – 2007 (đơn vị : tr.đồng)
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Số
thu
784,169 888,108 1,028,143 1,315,861 1,597,052 1,875,938 2,229,000 3,379,288
(Nguồn: Cục thuế TP.HCM)
BIỂU ĐỒ TÌNH HÌNH THU THUẾ TNC GIAI ĐOẠN 2000 - 2007
0
500,000
1,000,000
1,500,000
2,000,000
2,500,000
3,000,000
3,500,000
4,000,000
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
NĂM
S
Ố
T
H
U
Số thu
Qua biểu đồ ta thấy kể từ năm 2000 cho đến năm 2007 tốc độ thu thuế TNC liên tục
tăng qua các năm, đạt gấp nhiều lần, cao nhất vào năm 2007 đạt 3.379.288 bằng 4,31 lần
so với năm 2000. So sánh cùng mức tăng của thu ngân sách năm 2007 với năm 2000 là
3,82 lần ta thấy tốc độ tăng của thu thuế TNC tương đương với tốc độ tăng thu nói chung.
55
Đề tài nghiên cứu khoa học
Có được kết quả này là do nhiều nguyên nhân:
Kinh tế - xã hội càng phát triển, hội nhập kinh tế càng ngày càng sâu rộng thì nhu
cầu chi tiêu của Nhà nước để giải quyết các vấn đề an ninh, quốc phòng, an sinh
xã hội, phát triển sự nghiệp, giáo dục y tế... cũng ngày một gia tăng. Bên cạnh đó
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế dẫn đến cơ cấu thu ngân sách cũng thay đổi theo
hướng nguồn thu từ tích lũy trong nước được tăng dần và chiếm tỷ trọng ngày
càng cao trong tổng thu NSNN. Vì vậy thuế TNC được chú ý phát triển để góp
phần đảm bảo nhu cầu chi tiêu của Chính phủ.
Ý thức nộp thuế của người dân dần được nâng cao (bảng số liệu bên dưới), điều đó
cho thấy được phần nào nhận thức của đối tượng nộp thuế đối với việc nộp thuế.
Ngành thuế nói chung và Cục thuế TP.Hồ Chí Minh nói riêng thường xuyên theo
dõi chặt chẽ các khoản thu, sắc thuế, tăng cường quản lý đối tượng, đôn đốc thu
nộp, tận dụng các khoản thu…, trong những năm qua, ngành Thuế đã triển khai
nhiều biện pháp tích cực, ráo riết hơn, đảm bảo tăng cường nguồn thu và chống
thất thu thuế. Như khi mức tăng trưởng thu đạt thấp, lãnh đạo Tổng cục Thuế đã
liên tục có công văn đôn đốc các đơn vị địa phương thực hiện nghiêm các biện
pháp quản lý thu. Trong đó, yêu cầu tập trung giám sát tờ khai ngay từ đầu để kịp
thời điều chỉnh số thu nộp vào ngân sách, không để đến cuối năm quyết toán mới
xem xét, điều chỉnh như mọi năm. Bên cạnh đó là triển khai công tác thanh tra,
kiểm tra với chất lượng cao hơn hẳn.
Các thủ tục hành chính thuế được quy định đơn giản, rõ ràng và minh bạch giúp
nâng cao trách nhiệm và bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người nộp thuế. Từ đây,
Luật quy định rõ các loại giấy tờ của từng loại hồ sơ khai thuế, hồ sơ miễn giảm
thuế, hoàn thuế... để người nộp tự xác định được trách nhiệm của mình và tránh sự
tùy tiện của công chức quản lý thuế trong khi thi hành công vụ.
Việc thu hút các dự án ODA, cơ hội đầu tư cũng như các quy định thủ tục đã có
nhiều bước thay đổi đáng kể tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, công ty liên doanh,
công ty 100% vốn nước ngoài không ngừng tăng lên về cả số lượng và chất lượng,
nhất là kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO đã dẫn đến việc gia tăng thêm một số
lượng lớn các cá nhân nước ngoài, người Việt Nam có thu nhập cao đóng góp vào
tổng số thu của ngành thuế (tham khảo bảng bên dưới).
55
Đề tài nghiên cứu khoa học
Số thuế TNC của người nước ngoài và người Việt Nam qua các năm
Năm 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Người
NN
376,195 391,819 544,408 741,589 882,130 1,152,953 1,442,431 2,022,414
Người
VN
367,336 445,628 421,703 508,130 613,075 629,279 694,067 1,168,641
(Nguồn: Cục thuế TP.HCM)
BIỂU ĐỒ THỂ HIỆN SỐ THU THUẾ TNC ĐỐI VỚI
NGƯỜI VIỆT NAM VÀ NGƯỜI NƯỚC NGOÀI
0
500,000
1,000,000
1,500,000
2,000,000
2,500,000
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
NĂM
S
Ố
T
H
U
Người NN
Người VN
2.2. Chuẩn bị áp dụng luật thuế thu nhập cá nhân mới
2.2.1. Những mặt hạn chế về chính sách và biện pháp quản lý trong việc thực thi
thuế TNC
Ý thức người dân về việc khai nộp thuế TNC:
Qua số liệu kết quả thu thuế TNC ở phần trên, tuy số thu thuế có tăng chứng tỏ ý
thức nộp thuế của người dân được nâng cao. Song, số đối tượng nộp thuế TNC hầu như
được thu thông qua đơn vị ủy nhiệm thu là các doanh nghiệp chi trả cho người lao động,
hoặc đơn vị ủy nhiệm thu là đơn vị quản lý. Việc ủy nhiệm thu được quy định trong Pháp
55
Đề tài nghiên cứu khoa học
lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, mang tính chất bắt buộc các đơn vị có
chi trả phải thực hiện. Đây là một biện pháp tốt để có kết quả thu trong các năm qua,
nhưng cũng đồng thời cho thấy sự thiếu công bằng và bất hợp lý trong việc quy định các
biện pháp hành thu của Pháp lệnh. Bởi lẽ chỉ những người làm công ăn lương trong các
đơn vị được ủy nhiệm thu mới bị quản lý thu nhập và đóng thuế TNC, còn những đối
tượng khác không nằm trong các đơn vị ủy nhiệm thu như trên thì bị bỏ sót, việc ủy
nhiệm thu của ngành thuế cho các đơn vị có tính chất áp đặt, bắt buộc không có sự bàn
bạc, góp ý từ đó dẫn đến sự thiếu nhiệt tình và trách nhiệm của các đơn vị được ngành
thuế ủy nhiệm. Mặt khác, tiền hoa hồng cho các đơn vị được ủy nhiệm thu thuế, kê khai
và quyết toán thuế TNC quá thấp cũng là yếu tố làm cho các đơn vị thiếu nhiệt tình. Điều
quan trọng hơn, phải hiểu rằng nghĩa vụ thuế đối với xã hội là trách nhiệm của mọi thành
viên trong cộng đồng xã hội, còn quản lý và thu thuế là trách nhiệm của các cơ quan chức
năng mà trước hết là của ngành thuế, cho nên việc ủy nhiệm cho các đơn vị thu hộ chưa
có chính sách khen thưởng, xử phạt một cách công minh thì không thể khuyến khích các
đơn vị làm việc thay cho ngành thuế được. Hơn nữa, đây là một sắc thuế mới đã quen với
các nước đã phát triển, nhưng rất mới mẻ với suy nghĩ, tập quán của người dân chúng ta;
cho nên ý thức của người dân về việc kê khai nộp thuế chưa cao, chưa phải là niềm tự
hào khi góp một phần thu nhập của mình vào ngân sách Nhà nước.
Về công tác quản lý:
Về công tác quản lý, việc kết hợp các biện pháp và nỗ lực hiện nay của ngành thuế
cũng chưa phải là hữu hiệu khi thực trạng hiện nay người lao động Việt Nam thường
được trả thu nhập và tiêu dùng bằng tiền mặt (không sử dụng tài khoản ngân hàng) thì cơ
quan thuế khó có thể kiểm soát và đối chiếu được thu nhập thực tế. Các cá nhân người
nước ngoài làm việc tại các tổ chức kinh tế xã hội như tổ chức tư vấn, dạy học, công
trường… và các cá nhân người Việt Nam làm việc ở nước ngoài hoặc hành nghề tự do
trong nước như ca sĩ, luật sư môi giới… thì hầu như chưa thể quản lý được.
Về cơ sở pháp lý của chính sách TNC:
Xét về mặt pháp lý, chính sách thuế TNC chưa thật sự vững chắc để thực thi trong
một thời gian lâu dài ổn định. Pháp lệnh thuế TNC được ban hành 27/12/1990, có hiệu
lực thi hành từ tháng 4/1991 và đã qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung nhưng đến nay vẫn còn
hạn chế là không kiểm soát được thu nhập của thành phần có thu nhập cao và rất cao.
55
Đề tài nghiên cứu khoa học
Thuế TNC chưa bao quát hết các nguồn thu và đối tượng thu, hầu như thuế TNC chỉ có
thể kiểm soát được đối với nguồn thu nhập “chính đáng” từ tiền lương và những khoản
thu không thường xuyên mà việc chi trả Nhà nước có thể kiểm soát được.
Phạm vi thu nhập chịu thuế còn hẹp và không còn phù hợp trong bối cảnh kinh tế xã
hội Việt Nam, đặc biệt là khi Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO. Một số khoản
thu nhập chưa phải chịu thuế TNC như thu nhập từ tín phiếu, lãi cổ phần, lãi tiền gởi
ngân hàng, tiết kiệm, quà biếu, thu nhập từ chuyển nhượng tài sản… nhằm khuyến khích
mọi người tạo ra thu nhập, đảm bảo yêu cầu huy động vốn nhàn rỗi cho Nhà nước nhưng
đồng thời làm mất nguồn thu quan trọng và không thực hiện được mục tiêu điều tiết thu
nhập, đặc biệt những cá nhân có thu nhập lớn từ tài sản hoặc chuyển nhượng tài sản. Thu
nhập có được từ các hộ kinh doanh cá thể đang chịu thuế TNDN chưa được chuyển qua
chịu thuế TNCN vì nếu như cá nhân hoạt động kinh doanh thì lợi nhuận họ thu được
cũng chính là thu nhập của họ như thế thay vì họ phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp là
28% trên tổng mức thu nhập của họ thì có thể chuyển sang chịu thuế TNCN, như vậy
việc chuyển đổi này sẽ có lợi cho người dân hơn khi họ được trừ phần khởi điểm chịu
thuế.
Như vậy mặc dù đã có nhiều sự thay đối tích cực trong chính sách thuế thu nhập cá
nhân, nhưng vẫn còn đó một số vướng mắc cần được giải quyết trong thời gian sắp tới để
tiến tới xây dựng một chính sách thuế hoàn thiện, hợp lý, phù hợp với tiêu chí “Góp phần
thực hiện công bằng xã hội”.
2.2.2. Nguyên nhân ban hành luật thuế TNCN
Ban hành luật thuế TNCN là cần thiết để thể chế hóa đường lối, chủ trương của
Đảng và Nhà nước về lĩnh vực tài chính.
Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đề ra: “Áp dụng
thuế TNCN thống nhất và thuận lợi cho mọi đối tượng chịu thuế, đảm bảo công bằng xã
hội và tạo động lực phát triển”. Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng
tiếp tục khẳng định: “Hoàn thiện hệ thống pháp luật về thuế theo nguyên tắc công bằng,
thống nhất và đồng bộ…Điều chỉnh chính sách thuế theo hướng giảm và ổn định thuế
suất, mở rộng đối tượng thu, điều tiết hợp lý thu nhập”. Triển khai các nghị quyết của
Đảng, Bộ Chính trị đã thông qua chiến lược cải cách thuế đến năm 2010, trong đó đặt ra
55
Đề tài nghiên cứu khoa học
yêu cầu: “Cần sớm xác định các bước đi thích hợp để tăng tỉ trọng các nguồn thu trong
nước cho phù hợp với tiến trình hội nhập. Mở rộng diện thuế trực thu và tăng tỉ lệ thu từ
thuế trực thu”.
Ban hành luật thuế TNCN nhằm thực hiện công bằng xã hội, tăng cường kiểm tra,
kiểm soát thu nhập và điều tiết, phân phối lại thu nhập, thu hẹp hợp lý sự chênh lệch về
thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế.
Khác với thuế gián thu (thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt…) động viên
thu nhập xã hội thông qua tiêu dùng của các tổ chức và cá nhân, khác với thuế thu nhập
doanh nghiệp điều tiết thu nhập của doanh nghiệp, thuế TNCN động viên một phần thu
nhập của cá nhân, thể hiện nghĩa vụ cụ thể của công dân đối với đất nước. Công dân được
hưởng những thành quả của đất nước: cơ sở hạ tầng, phúc lợi xã hội, an ninh trật tự,…thì
đồng thời có nghĩa vụ đóng góp một phần thu nhập của mình cho xã hội thông qua việc
nộp thuế. Thuế TNCN được xây dựng trên nguyên tắc “công bằng” và “khả năng nộp
thuế”, được thể hiện: người có thu nhập thấp thì chưa nộp thuế, người có thu nhập cao thì
nộp thuế nhiều hơn, người có thu nhập như nhau nhưng có hoàn cảnh khác nhau thì mức
nộp thuế cũng khác nhau. Thực hiện nộp thuế TNCN góp phần làm giảm hợp lý khoảng
cách chênh lệch giữa các tầng lớp dân cư.
Chính vì vậy mà thuế TNCN đã được nhiều nước áp dụng từ rất sớm, ngay từ khi
nền kinh tế chưa phát triển, thu nhập của dân cư cũng chưa cao, điều kiện kiểm soát thu
nhập còn hạn chế. Đến nay đã có trên 180 nước trên thế giới áp dụng loại thuế này.
Ban hành luật thuế TNCN góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách thuế, đáp ứng
yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hiện nay, việc động viên thu nhập của cá nhân vào ngân sách Nhà nước đang
được thực hiện bởi 3 văn bản pháp luật thuế: thu nhập của cá nhân kinh doanh thực hiện
theo quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, thu nhập từ tiền lương, tiền công,
trúng thưởng xổ số, chuyển giao công nghệ thực hiện theo quy định của Pháp lệnh thuế
thu nhập đối với người có thu nhập cao; thu nhập từ chuyển quyền sử dụng đất thực hiện
theo quy định của Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất. Việc thực hiện chính sách thuế
như nói trên trong thời gian qua là tương đối phù hợp, nên đã phát huy tác dụng trong
quản lý và thu ngân sách.
55
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trong những năm tới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
tiếp tục hoàn thiện và phát triển mạnh mẽ (thị trường tài chính tiền tệ, thị trường vốn,
chứng khoán, thị trường lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công
nghệ,…) tạo điều kiện cho các cá nhân có thêm nhiều nguồn thu nhập khác nhau ngoài
nguồn thu nhập từ tiền lương, tiền công (đầu tư vào sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đầu tư
tài chính, chuyển nhượng vốn, chứng khoán,…). Đồng thời cùng với tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế, không chỉ có người Việt Nam mà người nước ngoài đến làm ăn, sinh
sống, có thu nhập tại Việt Nam cũng ngày càng gia tăng. Trong bối cảnh đó, việc tiếp tục
áp dụng 3 loại thuế như hiện hành đối với thu nhập của cá nhân là không còn phù hợp:
Chưa đảm bảo sự công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ thuế: cũng là thu nhập của
cá nhân nhưng thu nhập từ kinh doanh thì nộp thuế 28% trên tổng thu nhập;
nhưng thu nhập từ tiền công; tiền công, tiền lương trên mức 5 triệu đồng/ tháng
mới nộp thuế theo biểu thuế lũy tiến từng phần từ 10% đến 40%;
Nghĩa vụ thuế còn phân biệt giữa người Việt Nam và người nước ngoài (người
Việt Nam nộp thuế cao hơn).
Chưa có chính sách thuế điều tiết thống nhất TNCN trong 1 văn bản pháp luật
như thông lệ quốc tế.
Do vậy, việc ban hành Luật thuế TNCN là để hoàn thiện một bước hệ thống chính
sách thuế của nước ta, góp phần khuyến khích cá nhân tích cực lao động, đầu tư phát
triển sản xuất kinh doanh, làm giàu chính đáng và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ổn
định, bền vững.
2.2.3. Những điểm mới của Luật thuế TNCN so với chính sách thuế hiện đang áp
dụng:
Thuế TNCN có diện điều chỉnh rộng, áp dụng đối với hầu hết cá nhân có thu nhập.
Thu nhập chịu thuế rất đa dạng, bao gồm: thu nhập từ tiền lương, tiền công; thu nhập từ
kinh doanh; từ đầu tư gián tiếp như cho vay, tham gia mua cổ phần, góp vốn liên doanh;
thu nhập từ chuyển nhượng vốn; chuyển nhượng bất động sản; thu nhập về trúng thưởng,
từ tiền bản quyền; thu nhập từ quà biếu, quà tặng, thừa kế. Do đặc điểm của thuế TNCN
có tính đến khả năng của người nộp thuế, hướng tới mục tiêu công bằng xã hội nên bên
cạnh các loại thu nhập chịu thuế, luật thuế của nhiều nước có quy định cụ thể một số
55
Đề tài nghiên cứu khoa học
khoản thu nhập không chịu thuế, một số khoản thu nhập được miễn thuế cùng với quy
định về giảm trừ gia cảnh.
Các nước châu Âu đã coi thuế TNCN là “Nữ hoàng”, ở Châu Á như Nhật Bản lại
gọi thuế TNCN là “Vua” của các loại thuế. Sắc thuế này có vị trí quan trọng bậc nhất ở
hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Trước hết, loại thuế này thường chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn thu của ngân sách
Nhà nước như: thuế TNCN của Mỹ chiếm 56% tổng thu, Đức và Thụy Điển 45%, Anh
36%, Nhật 29%, Pháp 28%. Tỷ trọng thuế TNCN trong tổng thu ngân sách của một số
nước châu á đang phát triển có thấp hơn như: Philippin 17%, Malaysia 15%, Thái Lan
13%.
Thứ hai, cùng với khả năng huy động nguồn thu, thuế TNCN còn có chức năng
quan trọng hơn, đó là điều tiết, phân phối lại thu nhập trong xã hội. Việc điều tiết được
thiết kế phù hợp với khả năng đóng góp của cá nhân, trên cơ sở xem xét đến hoàn cảnh
cụ thể của người nộp thuế: đảm bảo người có thu nhập thấp thì chưa nộp thuế, người có
thu nhập cao hơn thì nộp thuế nhiều hơn, người có thu nhập như nhau, nhưng nếu có
hoàn cảnh khó khăn hơn thì nộp thuế ít hơn.
Thứ ba, việc thiết kế biểu thuế luỹ tiến từng phần đối với những thu nhập chủ yếu
như thu nhập từ kinh doanh, thu nhập từ tiền lương, tiền công đảm bảo chính sách điều
tiết được công bằng. Biểu thuế luỹ tiến từng phần được thiết kế theo mức độ tăng dần về
thu nhập tính thuế và thuế suất, do đó số thuế phải nộp cũng luỹ tiến tă
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bai hoan chinh (3).pdf