LỜI MỞ ĐẦU 1
Chương I 3
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ VỚI VIỆC THỰC HIỆN MỤC TIÊU 3
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 3
1. Tăng trưởng kinh tế-một mục tiêu kinh tế vĩ mô quan trọng 3
1.1 . Tăng trưởng kinh tế và các mục tiêu tăng trưởng kinh tế 3
1.2. Nguồn gốc của sự tăng trưởng kinh tế 4
1.3. Chất lượng tăng trưởng kinh tế và các tiêu chí của chất lượng tăng trưởng kinh tế 4
1.4. Mục tiêu tăng trưởng của kinh tế vĩ mô 5
2. Tác động của thuế đối với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế 5
2.1. Thuế - Chính sách thuế 5
2.2 Tác động kinh tế của thuế 8
Chương 2 16
THUẾ VỚI VIỆC THỰC HIỆN MỤC TIÊU TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ CỦA VIỆT NAM THỜI GIAN QUA 16
1. Sơ lược tình hình kinh tế, thuế Việt Nam thời gian qua 16
1.1. Tình hình kinh tế Việt Nam thời gian qua 16
1.2 .Tình hình thuế Việt Nam thời gian qua 17
2. Sơ lược về tình hình sử dụng công cụ thuế của Việt Nam nhằm thúc đẩy kinh tế 19
2.1. Tác động của thuế đến sản xuất nông nghiệp 19
2.2. Tác động của thuế đến lãi suất công-thương nghiệp 20
2.2 Tác động của thuế đến hoạt động xuất nhập khẩu 23
3. Đánh giá chung về thực trạng sử dụng công cụ thế thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian qua 25
3.1.Những kết quả đạt được 25
3.2.Những tồn tại của hệ thống chính sách thuế 26
Chương III 28
MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT ĐỔI MỚI HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH THUẾ GÓP PHẦN THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 28
1. Xây dựng một hệ thống thuế đồng bộ và hợp lý 28
2. Thay đổi mức thuế suất 29
3. Áp dụng các chính sách ưu đãi về thuế 30
4. Các giải pháp bãi bỏ, sửa đổi bổ sung các luật thuế cũ và ban hành luật thuế mới 30
KẾT LUẬN 32
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 33
34 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1265 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thuế với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n toàn như vậy. Những tác động của thuế đối với sản phẩm tiêu dùng trên thị trường cạnh tranh có thể minh họa theo đồ thị.
Cung trước thuế
Cung sau thế
Sản lượng sản phẩm
Giá
Qo
Q1
E1
E2
P1
Po
P2
Hình 2.1. Tác động của thuế đối với giá và sản lượng
Giả định khi Nhà nước chưa đánh một loại thuế nào vào sản phẩm A, cung cầu sản phẩm này cân bằng tại Eo, sản lượng sản phẩm A tiêu thụ là Q với giá Po.
Bây giờ Nhà nước đánh thuế tiêu dùng vào sản phẩm A với thuế suất t tính trên giá bán chưa thuế Po. Số thuế phải nộp là Po x t = T.
Với các yếu tố không thay đổi, phản ứng thị trường là: người bán nâng giá để đảm bảo thu nhập sau thuế như cũ. Khi giá tăng, nhu cầu về sản phẩm A co giãn theo, điểm cân bằng lúc này là E1, với sản lượng Q1 và giá P1.
Thu nhập sau thuế của mỗi đơn vị sản phẩm của người cung cấp sau khi có thuế sẽ là P1 - T = P2. Nghĩa là gánh nặng thuế chia sẻ cho người cung cấp và tiêu dùng cùng chịu. Trên hình vẽ ta thấy người tiêu dùng chỉ chịu đoạn P1Po, người sản xuất chịu PoP2. Hiện tượng này gọi là sự chuyển thuế.
Tỷ lệ phân chia gánh nặng thuế phụ thuộc vào dạng của đường cung và đường cầu.
Nếu độ dốc đường cầu càng lớn hoặc độ dốc đường cung càng nhỏ thì gánh nặng thuế có xu hướng nghiêng về phía người tiêu dùng. Trường hợp đặc biệt nếu đường cầu thẳng đứng, hoặc cung nằm nganh, người tiêu dùng sẽ chịu hoàn toàn thuế.
Cung trước thuế
Cung sau thuế
Sản lượng sản phẩm
Giá
Qo
Q1
E1
Eo
P1
Po=P2
Hình 2.2.a) Người tiêu dùng chịu thuế hoàn toàn
Thuế
Cung trước thuế
Cung sau thuế
Sản lượng sản phẩm
Giá
Q1=Qo
E1
Eo
P1
Po=P2
Hình 2.2.b) Người tiêu dùng chịu thuế hoàn toàn
Thuế
Ngược lại, nếu độ dốc của đường cung càng lớn, hoặc độ dốc đường cầu càng nhỏ thì gánh nặng thuế càng nghiêng về người sản xuất. Trường hợp đặc biệt nếu đường cung thẳng đứng hoặc đường cầu nằm ngang thì gánh nặng thuế do người sản xuất chịu hoàn toàn
Cung trước và sau thuế
Sản lượng sản phẩm
Giá
Q1=Qo
Eo
Po=P1
P2
Hình 2.3.a) Người sản xuất chịu thuế hoàn toàn
Thuế
Cầu
Cung trước thuế
Cung sau thuế
Sản lượng sản phẩm
Giá
Q1
E1
Eo
Po=P1
P2
Hình 2.3.b) Người sản xuất chịu thuế hoàn toàn
Thuế
Cầu
Qo
Có thể thấy được điều này trên thực tế khi nhu cầu về một loại sản phẩm nào đó nhạy cảm với sự thay đổi của giá cả thì người bán rất khó nâng giá vì khi đó người tiêu dùng lập tức giảm bớt nhu cầu tiêu dùng loại hàng này. Vì vậy người bán không thể nâng giá ngang bằng thuế phải nộp mà sẽ phải chịu đa phần gánh nặng thuế.
2.2.2 Tác động thuế thu nhập đánh vào tiền lương, tiền công
Trong môi trường cạnh tranh hoàn hảo, mức lương cũng được quyết định bởi mối quan hệ cung cầu lao động. Ta có thể thấy rõ điều này qua mô hình sau:
Cầu trước thuế
Cung
Số lượng lao động
Lương
Lo
Wo
W1
Hình 2.4. Tác động của thuế với cung và cầu lao động
W2
Cầu sau thuế
Eo
L1
E1
E2
Thuế
Trước khi đánh thuế cung và cầu lao động cân bằng tại điểm Eo. Tại Eo số lượng lao động cung cấp là Lo với mức lương Wo.
Bây giờ Nhà nước đánh thuế thu nhập vào tiền lương với thuế suất t. Số thuế mà Nhà nước có được sẽ là T = Wo x t. Sau khi có thuế, thu nhập còn lại của người làm công giảm. Công nhân sẽ đòi tăng lương để bù vào phần thuế đã mất. Khi đó, chi phí đối với chủ doanh nghiệp sẽ tăng, cầu về lao động giảm xuống. Kết quả là đường cầu sẽ dịch chuyển xuống dưới một khoảng đúng bằng T.
Điểm cân bằng mới là E1. Tại E1 số lượng lao động là L1 và tiền lương là W1. Trong khi đó, chi phí đối với chủ doanh nghiệp lúc này là W2 (tức W1 + T)
Gánh nặng thuế được phân chia cho cả người lao động và giới chủ cùng chịu. Việc phân chia gánh nặng thuế này hoàn toàn phụ thuộc vào dạng của đường cung và cầu lao động.
Nếu độ dốc của đường cung càng nhỏ hoặc độ dốc của đường cầu càng lớn thì gánh nặng thuế có xu hướng nghiêng về phía chủ. Trường hợp đặc biệt nếu đường cung hoàn toàn nằm ngang hoặc đường cầu hoàn toàn thẳng đứng thì thuế lương do giới chủ gánh chịu.
Cầu trước thuế
Cung
Số lượng lao động
Lương
Lo
Wo=W1
Hình 2.5a) Thuế do giới chủ gánh chịu hoàn toàn
W2
Cầu sau thuế
Eo
L1
E1
E2
Thuế
Cầu trước và sau thuế
Cung
Số lượng lao động
Lương
Wo=W1
Hình 2.5b) Thuế do giới chủ gánh chịu hoàn toàn
W2
L1=L1
E1=Eo
E2
Thuế
Ngược lại, nếu độ dốc của đường cung càng lớn hoặc độ dốc của đường cầu càng nhỏ thì gánh nặng thuế có xu hướng nghiêng về người lao động. Trường hợp đặc biệt, nếu đường cung hoàn toàn thẳng đứng hoặc đường cầu hoàn toàn nằm ngang thì gánh nặng thuế do người lao động chịu hoàn toàn.
Cầu trước thuế
Cung
Số lượng lao động
Lương
W1
Hình 2.6a) Thuế do người lao động gánh chịu hoàn toàn
W2=W2
Cầu sau thuế
L1=Lo
E1
E2=Eo
Thuế
Cầu trước thuế
Cung
Số lượng lao động
Lương
W1
Hình 2.6b) Thuế do người lao động gánh chịu hoàn toàn
Wo=W2
L1
E1
E2
Thuế
Cầu sau thuế
Eo
Lo
Qua phân tích ta thấy:
Việc đánh thuế làm tăng giá cả sản phẩm hàng hóa tiêu dùng và hàng hóa sức lao động
Gánh nặng thuế được chia sẻ cho cả người tiêu dùng và người cung cấp cùng chịu.
2.2.3 Thuế tác động đến thu nhập cá nhân
Thuế tác động đến thu nhập cá nhân chính là thuế thu nhập cá nhân với thuế suất lũy tiến từng phần. Cơ chế lũy tiến là cơ chế mà trong đó tỷ suất thuế bình quân tăng cùng với mức thu nhập cá nhân Chính phủ thu của người giàu tỷ lệ cao hơn người nghèo.
Thu nhập của doanh nghiệp và của cá nhân tạo thành thu nhập của hộ gia đình và thu nhập xã hội. Thu nhập khả dụng của doanh nghiệp sẽ sử dụng vào tiêu dùng và đầu tư. Thu nhập của hộ gia đình sẽ dùng vào hai việc là tiêu dùng và tiết kiệm (để đầu tư). Thực tế tồn tại một quy luật mà Keynes gọi là “quy luật tâm lý cơ bản”: Khi thu nhập khả dụng tăng lên thì tiêu dùng và tiết kiệm tăng nhưng tiêu dùng tăng chậm hơn so với thu nhập khả dụng, còn tiết kiệm tăng nhanh hơn”
Do vậy thuế đánh vào thu nhập sẽ tác động trực tiếp đến cả khả năng tiêu dùng và đầu tư, làm ảnh hưởng đến cung cầu thị trường, chi phối hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi nền kinh tế quốc gia.
2.2.4 Thuế tác động đến thương mại quốc tế và các họat động kinh tế khác
Thuế tác động tới Thương mại quốc tế thông qua hình thức thuế quan hay thuế nhập khẩu. Thuế điều tiết cao hay thấp tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất nhập khẩu hàng hóa và sản xuất tiêu dùng nội địa. Thuế quan yêu cầu người nhập khẩu hàng hóa phải nộp thuế nhập khẩu bằng một tỷ lệ % tính trên giá quốc tế cho Ngân sách Nhà nước.
Như đã trình bày ở trên, chính sách thuế tác động vào giá cả hàng hóa dịch vụ làm thay đổi quan hệ cung cầu trên thị trường giá cả hàng hóa dịch vụ đầu vào và đầu ra của họat động sản xuất kinh doanh khi gánh thêm tiền thuế gián thu làm giá cả thị trường tăng lên. Thu nhập cá nhân, doanh nghiệp cũng phải chịu điều tiết bởi các loại thuế trực thu đã làm giảm đi phần thu nhập khả dụng làm hạn chế khả năng thanh toán trong tiêu dùng và tiết kiệm đầu tư của hộ gia đình. Tuy nhiên mức thuế đánh cao hay thấp sẽ tạo sự dịch chuyển đầu tư sản xuất kinh doanh theo hướng có lợi nhất cho doanh nghiệp. Đây là điểm mấu chốt của việc gắn kết tác động của thuế với cơ chế thị trường để điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế.
Chương 2
Thuế với việc thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam thời gian qua
1. Sơ lược tình hình kinh tế, thuế Việt Nam thời gian qua
1.1. Tình hình kinh tế Việt Nam thời gian qua
1.1.1. Kinh tế nước ta từ 1991 đến 2004
Sau 20 năm đổi mới đặc biệt những năm gần đây tăng trưởng kinh tế Việt Nam có thể đánh giá chung trong những năm 1991-1995, sản xuất phát triển, lưu thông hàng hóa thông thoáng, giá cả ổn định dần. Nền kinh tế tăng trưởng tương đối cao, cơ cấu chuyển dịch tích cực. Tính chung năm 1991-1995 tổng sản phẩm trong nước tăng 48,3%, bình quân mỗi năm tăng 8,2%. Trong đó năm 1991 tăng 6,0%; năm 1992 tăng 8,6%, 1993 tăng 8,1%, 1994 tăng 8,8% và năm 1995 tăng 9,%. Nền kinh tế nước ta giai đoạn này tăng trưởng khá tốt, năm sau cao hơn năm trước.
Giai đoạn 1996-2000 nền kinh tế nước ta đứng trước những khó khăn, nhịp độ tăng trưởng kinh tế chững lại, năm 1999 đạt mức tăng trưởng 4,8% là mức thấp nhất trong 10 năm đổi mới. Nền kinh tế bắt đầu khôi phục được là tăng trưởng từ nửa sau của 1999-2000, GDP đạt tăng trưởng 6,75%, năm 2001 tăng 6,84%, năm 2002 tăng 7,1%, năm 2003 tăng 7,24% và cuối 2004 tăng 8%.
1.1.2 Tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong năm 2006
Trong năm 2006 vừa qua, nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao đạt và vượt kế hoạch. Tổng sản phẩm trong nước GDP tăng gần 8,2% (mức kế hoạch là 8%). Trong đó khu vực nông lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,23% (kế hoạch 3,8%), khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,46% (kế hoạch là 10,2%). Riêng công nghiệp tăng 10,28% và khu vực dịch vụ tăng 8,26% (kế hoạch là 8%). Tốc độ tăng trưởng kinh tế thời kỳ sau lớn hơn thời kỳ trước, trong đó quý I tăng 7,2%, quý II tăng 7,4%, quý III tăng 7,8%, quý IV tăng 8,4%.
Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tiến bộ:
Tỷ trọng khu vực I là 20,9% GDP năm 2005 giảm còn 20,36% năm 2006
Tỷ trọng khu vực II tằng từ 41,03% (2005) đến 41,56% (2006)
Tỷ trọng khu vực III tăng từ 38,07% (2005) đến 38,08% (2006) trong hai năm tương ứng.
GDP bình quân đầu người đạt trên 11,5 triệu đồng (xấp xỉ 720 USD) tăng 80 USD so với 2005.
Tổng thu ngân sách 2006 ước đạt trên 261,1 nghìn tỷ đồng, vượt mức dự toán 9,8% (dự toán 237,9 nghìn tỷ đồng), tăng 20,3% so với năm 2005. Tổng chi ngân sách đạt trên 31 nghìn tỷ đồng, vượt mức chi dự toán là 294,4 nghìn tỷ đồng, tăng 20% so với 2005.
Kinh tế Việt Nam luôn đạt mức tăng trưởng cao thứ hai Châu á và trên thế giới chỉ sau Trung Quốc, được cộng đồng thế giới đánh giá cao. Tuy vậy tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam còn nhiều điều phải làm sáng tỏ về cả lý luận và thực tiễn như: tốc độ và chất lượng tăng trưởng đã tương xứng với tiềm năng Việt Nam chưa? Chất lượng tăng trưởng đạt mức nào? Làm thế nào để tăng trường vững và nâng cao chất lượng tăng trưởng Việt Nam, thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực. Đó là những vấn đề đặt ra cho nền kinh tế nước ta trong thời gian tới.
.Tình hình thuế Việt Nam thời gian qua
Để thực hiện sự nghiệp đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trên mọi lĩnh vực cải cách thuế đóng vai trò quan trọng. Trong giai đoạn 1986-1990, Việt Nam vẫn áp dụng các chính sách thuế cũ đã ban hành trong thời kỳ trước đổi mới kinh tế. Đồng thời, Nhà nước đã tập trung nghiên cứu xây dựng hệ thống chính sách thuế mới. Tiến trình cải cách thuế được thực hiện thông qua hai bước.
Cải cách thuế bước 1 (1990-1996)
Thực hiện chủ trương của Đảng đã đề ra yêu cầu về công tác thuế trong Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (6/1991) với nội dung “Tiếp tục đổi mới và bổ sung các luật thuế, kiện toàn hệ thống thu thuế, chống thất thu lạm phát, chống mọi biểu hiện tiêu cực trong công tác thuế”. Nước ta đã ban hành Quyết định số 05-CT ngày 12/1/1989 thành lập tổ chức chỉ đạo soạn thaoe dự án luật mới, lần lượt thông qua và ban hành các loại thuế dưới hai hình thức:
Bằng hình thức luật, có: Thuế doanh thu (30/6/1990), thuế tiêu thụ đặc biệt (30/6/1990), thuế lợi tức (30/6/1990), thuế xuất nhập khẩu (26/12/1991), thuế sử dụng đất nông nghiệp (24/7/1993), thuế chuyển quyền sử dụng đất (1/7/1994).
Bằng hình thức pháp lệnh: Thuế tài nguyên (30/3/1990), thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (27/12/1990), thuế nhà đất (31/7/1992)
Kết quả cải cách thuế bước 1
Nhìn chung, công cuộc cải cách thuế bước 1 (1990-1996) đã đạt được nhiều kết quả đáng kể. Hệ thống chính sách thuế mới gồm 9 loại đã từng bước điều tiết các nguồn thu có thể động viên vào Ngân sách Nhà nước, góp phần điều chỉnh hoạt động kinh tế, áp dụng chính sách thuế thống nhất cho các thành phần kinh tế tạo sự bình đẳng trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Thuế thúc đẩy các doanh nghiệp phải hạch toán kinh doanh đầy đủ nhằm củng cố, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước. Thuế góp phần thu hút chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ mà vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng ở tất cả các ngành. Vai trò của thuế trong cơ chế thị trường ngày càng rõ nét hơn.
Tuy nhiên hệ thống chính sách thuế còn khá phức tạp bởi còn quá nhiều thuế suất trong một luật thuế, quy định quản lý Nhà nước về thuế còn rườm rà cần sửa đổi sao cho phù hợp hơn với tình hình kinh tế xã hội nước ta.
Cải cách thuế bước 2 (1997-2000)
Đối với thời kỳ đổi mới, công nghiệp hiện đại hoá đất nước phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, hội nhập kinh tế quốc tế thì hệ thống chính sách thuế hiện hành đã bộc lộ một số khuyết điểm như: hệ thống thuế còn phức tạp và trùng lặp, trong mỗi loại thuế cùng một lúc vừa phải thực hiện mục tiêu thu cho Ngân sách Nhà nước, vừa phải thực hiện chính sách xã hội làm nội dung chính sách thuế thiếu bình đẳng gây khó khăn cho quản lý thuế.
Đại hội Đảng lần thứ VIII nă 2006 đề ra phương hướng cho công tác thuế: “Tiếp tục đổi mới chính sách thuế theo hướng vừa đảm bảo nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước, vừa khuyến khích sản xuất kinh doanh, vừa thúc đẩy thực hành tiết kiệm trong sản xuất và têu dùng để tăng tích luỹ. Đơn giản hoá hệ thống thuế và biểu thuế suất, nâng tính ổn định của thuế, áp dụng thuế GTGT thay cho thuế doanh thu; bổ sung thuế sử dụng tài nguyên thiên nhiên trong tái tạo; tách thuế nhập khẩu, không nhập làm một với thuế doanh thu (GTGT) và thuế tiêu thụ đặc biệt, thu hẹp biểu thuế suất và giảm dần mức thuế suất nhậ khẩu”.
Quốc hội khoá IX, kỳ họp 11 ngày 10/5/1997 thông qua Luật thuế GTGT và Luật thuế thu nhập doanh nghiệp có hiệu lực từ 1/1/1999. Luật thuế tiêu thụ đặc biệt bổ sung thêm một số dịch vụ phải gánh chịu thuế như: kinh doanh vũ trường, karaoke (20%), kinh doanh casino, trò chơi (25%).
Cùng với việc ban hành các luật thuế mới, sửa đổi bổ sung các luật và pháp lệnh về thuế, phí làm hệ thống chính sách thuế Việt Nam được cải tiến về cơ bản, kích thích tăng trưởng và phát triển kinh tế, góp phần ổn định kinh tế, chính trị, xã hội của nước ta.
2. Sơ lược về tình hình sử dụng công cụ thuế của Việt Nam nhằm thúc đẩy kinh tế
Hệ thống thuế nước ta đã trở thành công cụ Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế trong cơ chế thị trường. Có thể nói thuế là công cụ nhạy cảm và hiệu quả để thực hiện sự quản lý của Nhà nước. Thông qua các chính sách thuế đã khuyến khích cá nhân, tổ chức và các cơ sở sản xuất kinh doanh đầu tư chiều sâu, đầu tư mở rộng, tạo động lực thúc đẩy sự chuyển dịch đầu tư dẫn tới sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ trong khi vẫn duy trì tốc độ tăng trưởng ở các ngành khác một cách toàn diện.
2.1. Tác động của thuế đến sản xuất nông nghiệp
2.1.1. Sản xuất nông nghiệp phát triển
Trong thời gian vừa qua, sản xuất nông nghiệp nước ta đã vượt qua khó khăn, đạt được kết quả tích cực. Cụ thể năm 2005 gần gấp đôi năm 1990. Nói cách khác trong 15 năm, chúng ta đã tạo ra sản lượng lương thực lớn hơn sản lượng của cả hai châu thổ lớn nhất đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long. Xuất khẩu gạo tăng liên tục: năm 2005 đã đạt mức kỷ lục về lương thực (trên 5 triệu tấn) cũng như kim ngạch (trên 1,3 tỷ USD). Diện tích lúa, cà phê, dừa, đay, mía… giảm trong khi diện tích trồng ngô, chè, bông, hồ tiêu, điều, cây ăn quả… tăng. Tổng đàn trâu, gia cầm giảm trong khi tổng đàn bò, lợn gia tăng. Tỷ trọng Nông nghiêp giảm trong khi tỷ trọng Thuỷ sản tăng, tỷ trọng khai thác giảm trong khi tỷ trọng nuôi trồng tăng…
Nhìn chung, Nông nghiệp những năm vừa qua đạt được những thành tựu nhất định nhờ sự tác động tích cực của chính sách thuế mà chủ yếu là thuế sử dụng đất nông nghiệp.
2.1.2. Tác động của thuế đến sản xuất nông nghiệp
Thuế sử dụng đất nông nghiệp khuyến khích sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả đảm bảo công bằng về nghĩa vụ nộp thuế của tất cả các cá nhân, tổ chức sử dụng đất nông nghiệp. Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp đã được đổi mới hợp lý bao quát đầy đủ nguồn thu hơn theo hướng giảm nhẹ mức điều tiết vào Ngân sách Nhà nước từ hoạt động sản xuất nông nghiệp.
Căn cứ vào năm yếu tố: chất đất, vị trí địa hình, điều kiện khí hậu, thời tiết và điều kiện tưới tiêu để phân dạng đất khoa học và công bằng. Hạng đất tính thuế được ổn định trong 10 năm để khuyến khích thâm canh tăng năng suất và thu nhập cho nông dân. Định suất thuế 1 năm tính kg thóc/ha của từng hạng đất đối với cây hàng năm và lâu năm ở mức sản lượng bình thường.
Để tăng đầu tư và mở rộng sản xuất, Nhà nước đã thực hiện chế độ miễn giảm thuế được mở rộng theo hướng khuyến khích khai hoang, phục hoá và chuyển đổi cây trồng kinh tế hơn. Từ 2003 đến 2010, Nhà nước có chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp trong hạn mức sản xuất nông nghiệp cho tất cả hộ nông dân, miễn toàn bộ cho hộ nghèo, cho tổ chức, gia đình, cá nhân đặc biệt khó khăn, miền núi theo Quyết định QĐ135/1998/GĐ-TTG ngày 31/7/1998; giảm 50% thuế sử dụng đất nông nghiệp cho tất cả các trường hợp không được miễn thuế.
Tất cả các chính sách to lớn của Đảng và Nhà nước nhằm thu hút đầu tư, tích cực tham gia lao động sản xuất, khuyến khích phát triển đột phá trong lĩnh vực kinh tế nông nghiệp hàng hoá, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2.2. Tác động của thuế đến lãi suất công-thương nghiệp
2.2.1. Chính sách thuế trong sản xuất công- thương nghiệp
Công thương nghiệp và xây dựng trong những năm qua tăng trưởng với tốc độ cao, góp một khoản tiền lớn vào Ngân sách Nhà nước với tỷ trọng GDP của nhóm ngành Công nghiệp-xây dựng tăng từ 36,7% (2000) lên 41% (2005). Việc ban hành và áp dụng các luật thuế như thuế doanh thu (GTGT), thuế lợi tức (thuế thu nhập doanh nghiệp), thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế tài nguyên có ảnh hưởng lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành này.
Thuế Giá trị gia tăng (GTGT)
Thuế GTGT là sắc thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh ở từng khâu trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng.
Thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư (phần lớn là 10% giá trị tài sản) có giá trị khá lớn sẽ được Nhà nước hoàn thuế hoặc khấu trừ vào thuế GTGT đầu ra giúp doanh nghiệp lấy lại phần vốn ứng trước nộp thuế khi mua tài sản để đầu tư mới. Với phương pháp khấu trừ thuế, hoàn thuế đã khuyến khích đầu tư tài sản cố định, mở rộng quy mô sản xuất, kích thích chuyên môn hoá, hợp tác hoá sản xuất, tăng năng suất chất lượng sản phẩm mang lại nhiều lợi nhuận.
Thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN)
Thuế thu nhập doanh nghiệp là sắc thuế tính trên thu nhập chịu thuế của các doanh nghiệp trong kỳ tính thuế.
Thuế TNDN hiện hành ở Việt Nam được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật như: Luật thuế TNDN số 09/2003/QH11 ngày 17/6/2003, Nghị định số 152/2004/NĐ-CP ngày 8/6/2004, thông tư số 88/2004/TT-BTC ngày 1/9/2004… đã ưu đãi cho đầu tư mới và đầu tư mở rộng sản xuất, thu hút nhiều lao động, đầu tư vào những vùng kinh tế xã hội còn nhiều khó khăn. Mặt khác, thực hiện mở rộng thêm đối tượng hưởng ưu đãi đối với công nghiệp trọng điểm, công nghiệp đóng tàu có trọng tải trên 11500 tấn, sản xuất động cơ, sản xuất lắp ráp ti vi, sản phẩm công nghiệp phần mềm nhằm thu hút vốn đầu tư và bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Ngoài ra hoạt động thương nghiệp phát triển theo chiều hướng tích cực như việc ký kết hợp đồng thương mại song phương với 86 nước, hợp đồng bảo hộ đầu tư với 46 nước, đã góp phần không nhỏ thúc đẩy sản xuất công thương nghiệp ngày càng mở rộng hơn.
Thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB)
Thuế TTĐB là sắc thuế đánh vào một số hàng hoá dịch vụ đặc biêt nằm trong danh mục Nhà nước quy định.
Hiện nay, thuế TTĐB đánh vào 8 mặt hàng tiêu biểu là thuốc lá điếu, xì gà, rượu, bia, ô tô dưới 24 chỗ ngồi, xăng, vàng mã và 5 nhóm dịch vụ như kinh doanh vũ trường, karaoke, mát xa, casino, xổ số, các trò chơi giải trí, chơi gôn... với mức thuế cao tạo ra khả năng điều tiết thu nhập của những sản phẩm hàng hoá dịch vụ cần hạn chế tiêu dùng, không có lợi cho xã hội, hướng dẫn sắp xếp lại sản xuất kinh doanh và bảo hộ sản xuất trong nước.
Thuế Tài nguyên trong nhành công nghiệp khai thác
Thuế tài nguyên là thuế đánh vào tài nguyên thiên nhiên khai thác được.
Việc nộp thuế thu nhập buộc các nhà đầu tư phải hạch toán trong hoạt động sản xuất kinh doanh để điều tiết một phàn giá trị tài nguyên khai thác, thúc đẩy sử dụng tài nguyên có hiệu quả và bảo vệ môi trường. Tiền thuế Nhà nước thu được sử dụng để thực hiện các biện pháp tái tạo tài nguyên cho doanh nghiệp khai thác để bảo vệ hàng hoá phục vụ cho kinh doanh và xuất khẩu.
Tác động của thuế đến sản xuất công thương nghiệp
Việc thực hiện các chính sách thuế trên đã tác động khá tốt đến hoạt động sản xuất trongd đó tốc độ tăng trưởng của sản xuất công nghiệp năm sau cao hơn năm trước: năm 2000 tăng 10,7%, năm 2001 tăng 10,36%, năm 2002 tăng 14,5%, năm 2004 tăng 15%, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Thương nghiệp cũng có những chuyển biến tích cực: nguồn hàng nhập khẩu phong phú, hàng hóa sản xuất trong nước dồi dào, khu vực thương nghiệp ngoài quốc doanh ngày càng phát triển hơn. Tổng mức bán lẻ hàng hoá, doanh thu từ dịch vụ năm 2002 tăng 9,7% so với 1999; năm 2003 tỷ lệ này là 10,3%.
Trong đó khu vực ngoài quốc doanh có tốc độ tăng trưởng và chiếm tỷ trọng ngày càng cao, cụ thể:
Khu vực
Năm
Doanh nghiệp
Nhà nước
Ngoài quốc doanh
1990
30,4%
69,6%
1995
22,6%
76,9%
2003
16,2%
81,2%
(Nguồn: Bộ Tài Chính)
Tác động của thuế tới sản xuất công thương nghiệp còn thể hiện rõ nét ở mức điều tiết vào Ngân sách Nhà nước thấp hơn hoạt động Thương mại-dịch vụ làm cho tốc độ phát triển Công thương nghiệp tăng nhanh qua các năm trở thành động lực tăng trưởng chung của nền kinh tế.
Tác động của thuế đến hoạt động xuất nhập khẩu
Chính sách thuế trong hoạt động xuất nhập khẩu
Hoạt động xuất nhập khẩu nước ta ngày càng có những biểu hiện tích cực và các chính sách thuế đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Hệ thống thuế góp phần khuyến khích xuất khẩu như: thuế GTGT đối với hàng xuất khẩu được hưởng thuế suất 0%. Trong thuế nhập khẩu có chính sách ưu đãi thuế nhập khẩu máy móc thiết bị, vật tư nguyên liệu (đa số thuế nhập khẩu 0%), hàng hoá xuất khẩu qua chế biến (thuế xuất khẩu 0%). Theo đó danh mục CEPT của Việt Nam bao gồm 10143 mặt hàng với lộ trình cắt giảm trong các năm 2003-2006 theo bảng số liệu sau:
Thuế suất
2003
2004
2005
0%
3257
3257
3257
1%
239
239
239
3%
607
607
607
5%
3372
3392
4356
Tổng 0 - 5%
7475
7495
8459
10%
89
130
1315
15%
125
2127
16
20%
2454
391
353
Tổng 10 - 20%
2668
2648
1684
Tổng số
10143
10143
10143
(Nguồn: Bộ Tài Chính)
Thông qua hệ thống thuế mở rộng khả năng hợp tác quốc tế Nhà nước thực hiện cam kết quốc tế, cắt giảm hơn 5000 dòng thuế nhập khẩu theo lộ trình CEPT/AFTA và gần 2000 mặt hàng theo hiệp định dệt may ký với EU, ký hiệp định tránh đánh thuế hai lần với 40 nước, xây dựng chế độ ưu đãi mạnh mẽ với hàng hoá xuất khẩu. Các dự án đầu tư sản xuất có giá trị hàng hoá xuất khẩu đạt trên 30% thì được giảm tiền sử dụng đất, thuế đất, thuế thu nhập doanh nghiệp miễn giảm thuế đối với những trường hợp xuất khẩu năm đầu tiên, xuất khẩu mặt hàng mới và xuất khẩu vào thị trường mới.
Tác động của thuế xuất nhập khẩu
Chính sách thuế góp phần đẩy mạnh xuất nhập khẩu theo định hướng của Nhà nước. Trong cơ chế hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng cao là tư liệu sản xuất chủ yếu, nguyên vật liệu như xăng dầu, vật tư phục vụ hiệu quả cho sản xuất và đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng Việt Nam đáp ứng nhu cầu của cuộc sống.
Thuế đã thực hiện được nhiệm vụ cải tiến cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu theo hướng tăng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng các sản phẩm thô, tạo một số mặt hàng có khối lượng lớn và thị trường tương đối ổn định. Trong kim ngạch xuất khầu, tỷ trọng đã qua chế biến là 8% (1991) lên tới 40% (2000). Tình trạng nhập siêu giảm hẳn, trong giai đoạn 1991-1995 nhập siêu chiếm 33% kim ngạch xuất khẩu thì 5 năm sau (1996-2000) chỉ còn 18%.
Quy mô xuất khẩu tăng liên tục, kim ngạch và tốc độ tăng xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước: 1998 tăng 1,9%, 1999 tăng 23,3%, 2000 tăng 25,5%, 2001 tăng 13,8%, 2002 tăng 11,2%, 2003 tăng 19% và tốc độ này cao hơn tăng GDP.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2003 bình quân đầu người là 246,408, vượt xa các năm trước. Thị trường xuất khẩu mở rộng, hàng hoá xuất khẩu tăng lên về chủng loại, số lượng cơ cấu. Nước ta có quan hệ ngoại giao trên 167 nước, quan hệ thương mại với 160 nước, ký hợp đồng thương mại với EU, bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ và trở thành thành viên thứ 150 của WTO.
Các kết quả đã đạt được ở trên cho thấy chính sách kinh tế của nước ta có sự đóng góp không nhỏ của hệ thống chính sách thuế, một công cụ không thể thiếu được trong điều tiết kinh tế vĩ mô.
3. Đánh giá chung về thực trạng sử dụng công cụ thế thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời gian qua
3.1.Những kết quả đạt được
Những thành tựu có được trong cải cách thuế thể hiện qua hai hoạt động lớn là ban hành hệ thống chính sách thuế mới và sửa đổi bổ sung một số loại thuế quan trọng, nhằm phát huy tối đa tiề
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- I0091.doc