Lời mở đầu 4
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU 6
1. Khái niệm thuế xuất nhập khẩu 6
2. Vai trò của thuế xuất nhập khẩu đối với sự phát triển
của kinh tế 8
3. Nội dung cơ bản của luật thuế xuất khẩu, luật thuế nhập
khẩu hiện hành 14
4.Thất thu thuế nhập khẩu và sự cần thiết phải
chống thất thu thuế nhập khẩu 23
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG THU THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU VÀ MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN CHO HIỆN TƯỢNG THẤT THU THUẾ NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM 28
I Tình hình xuất nhập khẩu trong mấy năm gần đây 28
1. Đánh giá chung 28
2. Thị trường xuất nhập khẩu năm 2004 có nhiều chuyển
biến tích cực 30
II.Tình hình thu thuế nhập khẩu hiện nay 32
1. Cơ sở tính thuế 32
2. Quy trình tính và thu thuế 36
3. Kết quả hoạt động thu thuế xuất nhập khẩu 36
III. Một số nguyên nhân dẫn đến tình trạng thất thu
thuế xuất nhập khẩu ở Việt nam 41
1. Do luật thuế xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở,
thiếu chặt chẽ và phức tạp. 41
66 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2678 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thuế xuất nhập khẩu và hiện tượng thất thu thuế nhập khẩu ở Việt nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t nhập khẩu của năm 2004. Các dấu hiệu đều cho thấy tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam rất khả quan. Điều này tạo điều kiện cho việc tăng thu nguồn thuế xuất nhập khẩu cho ngân sách nhà nước.
II. TÌNH HÌNH THU THUẾ NHẬP KHẨU HIỆN NAY .
1. Cơ sở tính thuế
Đối tượng áp dụng giá tính thuế: Hàng hóa xuất nhập khẩu qua biên giới Việt nam, kể cả hàng hóa từ khu chế xuất đưa vào thị trường trong nước và từ thị trường trong nước đưa vào khu chế xuất đều là đối tượng áp dụng giá tính thuế của luật thuế này.
Giá tính thuế xuất nhập khẩu và các loại thuế gián thu tại khâu xuất nhập khẩu ở các quốc gia là khác nhau. Quy định mang tính truyền thống ở nước ta, giá tính thuế xuất nhập khẩu là giá bao gồm cả phí bảo hiểm và phí vận tải đến cửa khẩu làm thủ tục xuất nhập khẩu. Trong một thời gian dài nhà nước thực hiện công cụ giá tính thuế để quản lý hoạt động xuất nhập khẩu chống buôn lậu và gian lận thương mại, bảo hộ sản xuất trong nước. Tuy nhiên trước yêu cầu hội nhập ta đã nới lỏng các quy định về giá tính thuế từ cuối năm 2003 ( sau thông tư 118/2003/TT-BTC ngày 8/12/2003). Trước đây dùng hai bảng giá để tính đó là bảng giá tối thiểu do bộ tài chính quy định đối với một số mặt hàng do nhà nước quản lý giá tính thuế và bảng giá kiểm tra do tổng cục hải quan quy định đối với các hàng hóa còn lại. Khi thông tư 87/2004 ra đời sự can thiệp của nhà nước về giá tính thuế đã bị xóa bỏ chuyển sang áp dụng cơ chế giá thị trường với ba trường hợp khác nhau:
Trường hợp áp giá tính thuế theo hợp đồng.
Được xác định theo nguyên tắc của hiệp định thực hiện điều 7 hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT). Nghĩa là trị giá tính thuế không gồm các chi phí bảo hiểm vận tải hàng hóa về đến điểm nhập khẩu, không phân biệt người nhập khẩu có thực trả các khoản đó hay không. Hay theo hóa đơn mà ghi giá FOB thì giá tính thuế là giá hóa đơn, nếu là giá CIF thì giá tính thuế là giá hóa đơn trừ đi I và F. Có sáu phương pháp để xác định giá này: 1) Phương pháp giá trị giao dịch của hàng hóa nhập khẩu; 2) phương pháp trị giá khấu trừ; 3) phương pháp trị giá tính toán;4) phương pháp giao dịch của hàng hóa nhập khẩu giống hệt;5) phương pháp giao dịch của hàng hóa nhập khẩu tương tự; 6) phương pháp khác. Tuy nhiên hai phương pháp trị giá khấu trừ và trị giá tính toán chưa được áp dụng vì thiếu thông tin kỹ thuật. Ví dụ việc xác định giá tính thuế đối với mặt hàng ô tô: Mặt hàng nhập khẩu là xe ô tô BMW model 745i. Mức giá doanh nghiệp khai báo là 22.000USD/ chiếc. Trong khi đó các thông tin về giá mặt hàng xe BMW do cơ quan Hải quan thu thập được tổ chức nguồn thông tin gồm: Giá bán thị trường nội địa: 220.000USD, giá trên mạng internet: 63.770 USD/ chiếc, giá xe BMW tại danh mục dữ liệu giá là: 57.000USD/ chiếc.
Thông qua tìm hiểu các nguồn giá trên cơ quan Hải quan thấy giá doanh nghiệp báo cáo quá bất hợp lý so với các mức giá khác. Sau khi tham vấn cán bộ Hải quan cần bác bỏ mức giá này và tiến hành xác định lại trị giá như sau: Về lựa chọn phương pháp xác định giá phải thực hiện tuần tự từng phương pháp sau đó mới dừng lại ở phương pháp thích hợp. Trong trương hợp này Hải quan không tìm thấy hàng hóa giống hệt để tính giá nên phương pháp 2, 3 là không áp dụng được. Còn phương pháp khấu trừ cũng không thực hiện được vì chỉ biết giá trên thị trường nội địa không xác định được chi phí và lợi nhuận sau khi bán hàng để khấu trừ. Do vậy phải sử dụng phương pháp 6 là phương pháp khác. Khi sử dụng phương pháp 6 giá tính lại là 55.000USD trên cơ sở suy luận từ phương pháp 2, 3,4.
Trường hợp hàng hóa nhập khẩu theo hợp đồng thương mại nhưng không thuộc các đối tượng nêu trên thì giá tính thuế là giá thực tế phải thanh toán mà người nhập khẩu đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho người bán hàng. Do đó giá tính thuế bao gồm trị giá ghi trên hóa đơn, chi phí vận tải, phí bảo hiểm. Trong trường hợp này còn bao gồm cả nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải thuê từ nước ngoài hoặc đưa ra nước ngoài để sửa chữa nay nhập lại Việt nam.
Trường hợp hàng hóa xuất nhập khẩu không theo hợp đồng mua bán hoặc có hợp đồng nhưng không phù hợp với quy định của luật thương mại: quà biếu quà tặng, hàng nhập khẩu để triễn lãm nhưng lại chuyển sang mục đích khác. Thì giá tính thuế nhập khẩu do tổng cục hải quan địa phương quy định theo hướng dẫn của tổng cục hải quan phù hợp với giá giao dịch trên thị trường.
* Tình hình quản lý giá thuế trong những năm qua:
Trước năm 1999: Ba điều kiện đặt ra để tính thuế nhập khẩu theo hợp đồng ngoại thương quá đơn giản (tính hợp pháp hợp lệ của hợp đồng, được ngân hàng xác nhận thanh toán, danh mục hàng không nằm trong diện quản lý của nhà nước) tạo điều kiện cho các doanh nghiệp lợi dụng. Trong khi đó việc quản lý phối hợp giữa các chức năng còn kém không thể kiểm soát hết các hoạt động của doanh nghiệp. Do vậy mà các doanh nghiệp chỉ thanh toán một phần qua ngân hàng, còn phần lớn còn lại thanh toán bằng tiền mặt. Chính vì vậy mà một lượng lớn thuế bị thất thu gây mất bình đẳng cho các doanh nghiệp.
Trước tình hình trên Bộ tài chính ban hành thêm thông tư số 92/ 1999/ TT/ BTC sửa đổi một số điểm của thông tư 82/ 1997/TT/BTC bổ sung điều kiện phải tuân theo các quy định về ngoại tệ tự do chuyển đổi, phương thức thanh toán mở thì mới được áp dụng giá tính thuế theo hợp đồng. Nhà nước qua thông tư này có thể kiểm tra chặt chẽ hơn do vậy hạn chế hiện tượng ghi khống hóa đơn thanh toán qua ngân hàng. Nhưng trong thông tư này cũng không cấm các doanh nghiệp sử dụng các hình thức thanh toán khác nhưng họ phải áp dụng giá tối thiểu. Do vậy vấn đề đặt ra là bảng giá tối thiểu được ban hành có chính xác hay không? Thực tế cho thấy là việc quy định giá tối thiểu đã cơ bản theo sát giá CIF, sát giá thực tế, thực thanh toán của doanh nghiệp. Nhưng do phản ứng của doanh nghiệp, trước khi ban hành thông tư này họ trốn thuế được nhiều hơn, nhưng sau đó lại phải nộp đầy đủ giảm một nguồn thu đáng kể, do vậy mà hoạt động nhập khẩu của họ có xu hướng trững lại.
Ngày 6/6/2002 Chính phủ ban hành nghị định số 60/2002/ NĐ- CP về xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu theo nguyên tắc thực hiện Điều 7 hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại. Thông tư này xác định đối tượng giá tính thuế gồm:
Hàng hóa nhập khẩu của doanh nghiệp, các bên hợp danh thuộc đối tượng điều chỉnh của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt nam
Hàng hóa nhập khẩu theo hợp đồng thương mại có xuất xứ Hoa kỳ.
Hàng hóa nhập khẩu theo hợp đồng thương mại trong danh mục hàng hóa của Việt nam để thực hiện Hiệp định về ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung ( CEPT) của các nước ASEAN.
Đến nay đã áp dụng phương pháp xác định giá tính thuế theo hiệp định chung về thương mại và thuế quan ( GATT), hy vọng sẽ thu được kết quả đáng mừng đảm bảo xác định giá tính thuế được chính xác hạn chế được các tiêu cực xảy ra. Trên thực tế cần xác định theo giá giao dịch vì các đơn vị thành phần kinh tế không đơn thuần độc lập với nhau. Mà mối quan hệ giữa chúng rất phức tạp. Giao dịch trên thị trường được thực hiện dưới hai hình thức: thị trường nội bộ và thị trường khách quan bên ngoài. Bởi hiện nay có sự phát triển của các tập đoàn kinh tế, các công ty xuyên quốc gia, thì các hoạt động giao dịch trong nội bộ chúng cũng diễn ra hết sức phức tạp. Giá giao dịch giữa các bên có mối quan hệ với nhau khác so với các bên độc lập làm cho kết quả kinh doanh bị phản ánh sai. Nếu các đơn vị trong cùng một tập đoàn cư trú trên các lãnh thổ khác nhau thì sẽ phản ánh sai lệch về thu ngân sách ở các quốc gia này.
2. Quy trình tính và thu thuế
- Doanh nghiệp tự kê khai và tự nộp thuế. Tổng cục Hải quan chỉ có nhiệm vụ thanh tra. Hình thức này nâng cao tính tự giác của các doanh nghiệp hạn chế được gian lận trong nộp thuế.
- Phương thức thu: Theo quy định của Thông tư số 41/1998/TT - BTC ngày 31/3/1998 việc thu thuế được thu qua hai phương thức: Qua kho bạc nhà nước và thu qua cơ qua thu thuế. Đối với các đối tượng kinh doanh không cố định thì có thể thu theo hai phương thức: thu ở nơi thu và thu trực tiếp.
3. Kết quả hoạt động thu thuế xuất nhập khẩu
Theo báo cáo của tổng cục Hải quan thì trước tình hình thương mại đầu tư tăng nhanh trong năm 2004 so với năm 2003 thể hiện rõ ở một số mặt sau:
Năm 2004 ngành Hải quan được cấp trên giao chỉ tiêu thu thuế hàng hóa xuất nhập khẩu là 46.000 tỷ đồng. Trong đó thuế xuất nhập khẩu và tiêu thụ đặc biệt: 25.600 tỷ đồng. Thuế giá trị gia tăng: 20.200 tỷ đồng; Chênh lệch giá là: 200 tỷ đồng. Chỉ tiêu năm 2004 tăng 17,3 so với số thuế thực thu năm 2003 ( 46.000/39.215 tỷ đồng). Theo báo cáo của Hải quan các tỉnh thành phố số thu năm 2004 của ngành Hải quan đạt 46.017 tỷ đồng bằng 100.04% kế hoạch năm; so với năm 2003 tăng 17,74% (46.017/39.215 tỷ đồng). Thuế XNK và tiêu thụ đặc biệt: 21.579 tỷ đồng bằng 84,3% tăng 0,8% so với năm 2003( 21.579/21/404 tỷ đồng). Thuế giá trị gia tăng đạt 24.228 tỷ đồng đạt 119,9% tăng 38,3 % so với năm 2003 (24.228/17.512 tỷ đồng). Thu chênh lệch giá 55 tỷ đồng bằng 27,5%. Thu khác đạt 155tỷ đồng.
Tốc độ tăng trưởng kim ngạch XNK, phương tiện, hành khách, xuất nhập cảnh và tờ khai hàng hóa XNK 2003, 2004 Báo cáo 2004 của tổng cục hải quan.
2003
2004
Kim ngạch
Nhập khẩu
Xuất khẩu
25.2 tỷ USD
20.1 tỷ USD
31.5 tỷ USD
26 tỷ USD
Tốc độ tăng so với 2003
25%
29.30%
Tổng số
45.3 tỷ USD
57,5 tỷ
26,90%
Số tờ khai
Nhập khẩu
741 nghìn tờ
900 nghìn tờ
21,40%
Xuất khẩu
656 nghìn tờ
850 nghìn tờ
29,50%
Tổng số
1397 nghìn tờ
1750 nghìn tờ
25,20%
Phương tiện XNK
Nhập cảnh
1.058.000 lượt
1.723.000 lượt
62,90%
Xuất cảnh
1.071.000 lượt
1.373.000 lượt
27,20%
Tổng số
2.129.000 lượt
3.096.000 lượt
45,40%
Người XNC
Nhập cảnh
35.067.000 người
41.109.000người
17,20%
Xuất cảnh
33.102.000 người
39.886.00 người
20,50%
Tổng số
68.169.000 người
80.995.00 người
18,80%
Đáp ứng nhu cầu tăng nhanh của các mặt trên tổng cục Hải quan đã tích cực chủ động trong việc đẩy mạnh cải tiến thủ tục hải quan các quy trình nghiệp vụ để hoàn thành nhiệm vụ. Do hoạt động xuất nhập khẩu đầu tư tăng nhanh đáng kể nên số thu thuế cũng có kết quả đáng mừng.
Năm 2004 ngành hải quan đã hoàn thành chỉ tiêu về thu thuế và ngân sách nhà nước. Điều này được thể hiện ở bảng số liệu sau:
Kết quả thu thuế của ngành Hải quan trong năm 2004
Đơn vị: tỷ đồng
Chỉ tiêu
Kế hoạch 2004
Thực hiện 2004
%/2004
%/2003
- Thuế XNK
46.000
46.017
100.04
117.34
- Thuế XNK + TTĐB
25.600
21.579
84.3
100.8
- Thuế GTGT
20.200
24.228
119.9
138.8
- Thu chênh lệch giá
200
55
27.5
- Thu khác
155
Nguồn: Báo cáo 2004 của Tổng cục Hải quan.
Từ bảng số liệu trên cho thấy công tác thu thuế của tổng cục hải quan trong năm 2004 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Đem lại nguồn thu đáng kể vào ngân sách nhà nước góp phần hoàn thành thực hiện kế hoạch thu ngân sách của nhà nước.
Trong những năm gần đây tổng số thuế xuất nhập khẩu đã thu được liên tục tăng qua các năm. Nguyên nhân cơ bản là do kinh tế ngày càng phát triển, hoạt động ngoại thương diễn ra ngày càng sôi động, hàng ngày số lượng hàng hóa xuất nhập khẩu ngày càng lớn, đồng thời giá nhiều mặt hàng xuất nhập khẩu tăng do đó lượng thuế cũng tăng theo.
Tuy nhiên với số lượng thuế đã thu tăng lên không có nghĩa số thất thu giảm đi do buôn lậu và nợ thuế giảm đi. Tình hình buôn lậu hiện nay xảy ra rất phức tạp và lan giải dưới nhiều hình thức và quy mô.
Thống kê kim ngạch xuất nhập khẩu và số thu thuế
từ hoạt động XNK
Năm
Tổng kim ngạch XNK ( tỷ đồng)
Tổng số thuế thu được (tỷ đồng)
Tổng kim ngạch
Kim ngạch XK
Kim ngạch NK
1997
11,15
8,76
2,39
13,774
1998
11,49
9,32
2,17
16,657
1999
11,62
11,52
0,10
23,669
2000
15,63
14,45
1,18
24,417
2001
17,00
16,50
0,50
29,619
2002
19,73
17,70
2,03
37,222
2003
25,22
20,18
5,04
39,224
2004
57,50
26,00
31,50
46,017
Nguồn: Trung tâm thống kê tin học của Tổng cục Hải quan.
Kết quả phát hiện, bắt giữ các vụ vi phạm Năm 2004:
Kết quả
Kết quả năm 2004
So vời cùng kỳ năm 2003
Số vụ
Trị giá
(tỷ đồng)
Số vụ
(+%)
Trị giá
(+%)
Có dấu hiệu buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa ( khởi tố hình sự 44 vụ)
5.116
-31%
Gian lận thương mại
660
+35%
Vi phạm thủ tục hải quan
5.524
+7%
Ma túy
24
-46%
Vũ khí chất nổ
3
-25%
Tổng cộng
11.327
405
-13%
55%
Nguồn: Trung tâm thống kê tin học Tổng cục Hải quan.
Nhưng năm 2004 tình hình vi phạm có xu hướng giảm hơn năm 2003 nhưng vẫn cao hơn nhiều so với các năm trước đó.
Số vụ vi phạm từ năm 2000 đến năm 2004
Nguồn: Trung tâm thống kê tin học Tổng cục Hải quan.
Về số nợ thuế: Đây là một vấn đề tồn tại trong những năm qua của toàn ngành, được sự chỉ đạo quyết liệt giữa của tổng cục Hải quan bằng nhiều biện pháp hoạt động thu hồi thuế nợ đọng nhất là nợ đọng xấu. Kết quả thu hồi nợ đọng trong năm 2004 đã thu được nhiều kết quả tích cực. Riêng số thuế nợ đọng do doanh nghiệp chây ỳ đã giảm được 209 tỷ so với 12/2003 (583/734 tỷ đồng).
Về phẩm chất đạo đức của cán bộ hải quan: Năm 2004 ngành hải quan xử lý kỷ luật 169 trường hợp trong đó có 114 trường hợp liên quan đến sử dụng văn bằng tốt nghiệp không hợp pháp hợp lệ chiếm 67,45%. So với năm 2003 số vi phạm kỷ luật năm 2004 tăng hơn 3 lần chủ yếu do xử lý bằng cấp không hợp pháp. Trong đó khiển trách 14 chiếm 8,28%; cảnh cáo 94 chiếm 55,62%; hạ bậc, hạ ngạch 30 chiếm 17,75% cách chức 11 chiếm 6,50%; buộc thôi việc 20 chiếm11,83%; Trong số sai phạm kỷ luật lãnh đạo cục 03 chiếm 1,77%, lãnh đạo cấp phòng 09 chiếm 5,32%, lãnh đạo cấp đội thuộc chi cục 16 chiếm 23,18% nhân viên 141 trường hợp chiếm 84,43%. Số cán bộ công chức hải quan vi phạm pháp luật bị cơ quan điều tra khởi tố hình sự trong năm 2004 là 35 trường hợp.
III. MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN TÌNH TRẠNG THẤT THU THUẾ XUẤT NHẬP KHẨU Ở VIỆT NAM
1. Do luật thuế xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, thiếu chặt chẽ và phức tạp.
Luật thuế xuất nhập khẩu được ban hành vào ngày 29/12/1987 và được sửa đổi vào năm 1991, 1993, 1998 cho phù hợp với tình hình phát triển của đất nước. Đồng thời cũng ban hành nhiều công văn hướng dẫn cho Bộ tài chính, Tổng cục hải quan đã thu được những kết quả to lớn mang lại nguồn thu cho ngân sách nhà nước, bảo hộ sản xuất trong nước, định hướng được cho người tiêu dùng. Nhưng bên cạnh đó còn có nhiều sơ hở mà các đối tượng buôn lậu trốn thuế lợi dụng để có hàng vi vi phạm pháp luật.
Một là: Biểu thuế suất xuất nhập khẩu còn nhiều phức tạp với 97 chương trên 3000 mã nhóm mặt hàng, hơn 6000 mã số hàng hóa 19 mức thuế.
Bên cạnh đó biểu thuế còn tồn tại một số biểu thuế lắt nhắt có một đến hai dòng trong một biểu thuế ví dụ như mức 12% chỉ có 2 dòng, mức 18% có một dòng, 25% có 2 dòng. Biểu thuế thì rất chi ly cụ thể nhưng các liệu hướng dẫn thì chưa đầy đủ khiến xuất hiện sự tranh cãi trong các doanh nghiệp gây thất thu thuế.
Hai là: Thuế xuất nhập khẩu hiện hành chủ yếu theo mục đích sử dụng chứ không theo tính chất hàng hóa: Những mặt hàng cùng tính chất nhưng mức thuế suất lại chênh nhau đến hàng chục lần vì mục đích sử dụng khác nhau. Điều này tạo kẽ hở cho đối tượng nộp thuế, họ sẽ chọn mục đĩch ứng với mức thuế suất thấp hơn, gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Ví dụ cùng là khoai tây nhưng khoai tây giống thuế 0%, còn để ăn thì 20%. Xe đạp đua chịu thuế 5%, còn xe đạp thường 70%, mức thuế rất chênh lệnh và khó khăn cho cán bộ hải quan trong việc xác định đúng mục đích sử dụng của đối tượng. Luật hiện hành chỉ quy định hình thức đánh thuế theo tỷ lệ chưa quy định hình thức thu theo mức độ tuyệt đối. Hình thức thu theo tỷ lệ tuy có ưu điểm là dễ áp dụng nhưng trong trường hợp đối tượng nộp thuế kê khai thấp giá trị tính thuế thì hải quan không đủ cơ sở để xác định chính xác giá trị nhập khẩu mà người mua phải thanh toán cho người bán. Việc sự dụng thu theo tuyệt đối sẽ ngăn ngừa được khai thấp giá trị hàng hóa tính thuế hàng nhập khẩu.
Ba là: Xét về chức năng bảo hộ của thuế xuất nhập khẩu. Để bảo vệ thị trường trong nước, thuế nhập khẩu thường đánh cao đối với những mặt hàng hiện nay trong nước đã sản xuất được, và đánh thấp đối với hàng hóa là nguyên liệu đầu vào cho quá trình sản xuất. Nhưng điều này lại tạo sự lệch lạc trong chính sách đầu tư. Điều này làm tăng khả năng đầu tư nước ngoài vào phát triển hàng thay thế nhập khẩu chứ không đầu tư vào hàng xuất khẩu. Do vậy cán cân thương mại bị chênh lệch.
Bốn là: Về thời hạn nộp thuế đối với hàng nhập khẩu là 15 ngày hàng nguyên liệu sản xuất là 275 ngày, những quy định này nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong điều kiện vốn còn hạn hẹp để phù hợp với thông lệ quốc tế, nhưng cơ chế quản lý doanh nghiệp về thành lập và hoạt động còn lỏng lẻo. Hiện nay nhiêu doanh nghiệp tìm cách chiếm dụng tiền thuế của nhà nước. Tính đến cuối năm 2004 đã có 8000/16000 doanh nghiệp nợ thuế xuất nhập khẩu vời tổng nợ là 2.900 tỷ đồng.
Năm là tính thống nhất của luật thuế với các luật khác: Về các trường hợp miễn thuế, xét miễn thuế nội hàm của các quy định này hoàn toàn chưa đầy đủ dẫn đến việc xét miễn thuế trong các luật về thuế, đầu tư nước ngoài, khuyến khích đầu tư trong nước mâu thuẫn nhau cả về phạm vi và điều kiện để được miễn thuế.
Sáu là: Vấn đề thông báo thuế.
Các quy định hiện hành không còn đáp ứng được yêu cầu của cải cách hành chính, vừa lãng phí nguồn lực vừa không tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động nộp thuế. Vì vậy cần bỏ thông báo nộp thuế. Các doanh nghiệp cũng thực hiện tờ khai, tự tính tự nộp cho cơ quan hải quan. Bên cạnh đó việc giới hạn hàng tiêu dùng mới phải nộp thuế trước khi giải phóng hàng, thì để phân biệt hàng tiêu dùng với các loại hàng hóa khác là khó phân định. Chế tài áp dụng đảm bảo cho nộp thuế đúng hạn là chưa hiệu quả. Những sơ hở này tạo điều kiện cho doanh nghiệp chây ỳ trốn nộp thuế.
2. Do buôn lậu và gian lận thương mại
Thất thu thuế nhập khẩu có nhiều nguyên nhân, song trong những nguyên nhân đó thì buôn lậu và gian lận thương mại được đánh giá là nguyên nhân nổi cộm đang là vấn đề nhức nhối nhất hiện nay, và được Đảng và nhà nước đặc biệt quan tâm.
Buôn lậu được hiểu là "buôn bán hàng hoá trốn thuế hoặc hàng quốc cấm" Từ điển Tiếng Việt - NXB Đà Nẵng, Hà nội -Đà Nẵng, 1997, trang 87.
. Trong thời gian gần đây tồn tại một thuật ngữ gần với buôn lậu là gian lận thương mại. Gian lận thương mại được hiểu là: “hành vi dối trá, buôn bán gian lậu" Từ điển Tiếng Việt . trang 375
. Nhưng trên thực tế, nhiều nước không có sự phân biệt rõ ràng giữa buôn lậu và gian lận thương mại. Buôn lậu chính là hành vi gian lận thương mại nhưng ở mức cao hơn, phức tạp hơn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng hơn. Nó gồm các hành vi che dấu sự kiểm soát của hải quan tại cửa khẩu hoặc vượt biên trái phép. Còn gian lận thương mại là hành vi cố ý vi phạm pháp luật thực hiện các hành vi gian dối nhằm thu lợi bất chính tại nơi kiểm tra một cách công khai. Như vậy khái niệm gian lận thương mại là rộng hơn khái niệm buôn lậu. Buôn lậu và gian lận thương mại diễn ra trên địa bàn và phạm vi rộng nhưng trong giới hạn của bài viết chỉ xin đề cập đến buôn lậu và gian lận thương mại đối với hàng nhập khẩu. Các hành vi sau được gọi là hành vi buôn lậu gian lận thương mại đối với hàng hóa nhập khẩu:
Một là: Hành vi vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới để vào Việt nam (trái với các quy định của pháp luật và các quy định của cơ quan quản lý nhà nước).
Hai là: Vận chuyển, mua bán tàng trữ các hàng hóa đó trong thị trường nhưng không chứng minh được nguồn gốc hợp pháp của hàng hóa đó.
Các cá nhân tổ chức có các hành vi nêu trên được gọi là buôn lậu gian lận thương mại.
2.1 Tình hình buôn lậu hiện nay trên các tuyến biên giới, và các phương thức vận chuyển.
2.1.1 Tuyến biên giới các tỉnh phía bắc
Biên giới Việt – Trung dài gần 2000km tình hình buôn lậu diễn ra hết sức phức tạp. Các mặt hàng nhập lậu chủ yếu là các mặt hàng có thuế nhập khẩu cao như điện tử, điện lạnh, hàng tiêu dùng khác như rượu bia, thuốc lá, trong đó có cả hàng cấm như trứng gà, gia súc, gia cầm, tiền giả, dầu gội các loại, thuốc đánh răng, bàn chải đánh răng, súng nhựa đồ chơi trẻ em, gỗ thớt nghiến, động vật hoang dã.
Hàng lậu được vận chuyển qua biên giới dưới nhiều hình thức: phương tiện ô tô, xe máy tốc độ cao để vận chuyển. Địa bàn tập trung là khu Cốc Nam, Hang dơi, Tân Mỹ đường 05, đường 06 Bãi Gianh, Ngoài ra còn sử dụng công nông xe tải, đặc biệt là ở khu biên giới cửa khẩu Tân Thanh.
2.1.2 Tuyến biên giới miền trung
Biên giới Việt – Lào dài khoảng 800km với địa hình đồi núi hiểm trở. Các hàng buôn lậu thường là thuốc lá khu biên giới Quảng Trị, khu Hương Sơn Hà tĩnh. Các đối tượng thường bốc vác lợi dụng trẻ em và phụ nữ để vận chuyển chủ yếu bằng đường bộ men theo những con đường nhỏ lẻ để trốn tránh.
2.1.3 Tuyến biên giới Tây nam
Biên giới Tây nam có địa hình phức tạp, hệ thống đường bộ, đường sông chằng chịt. Mặt hàng chủ yếu được buôn lậu vào nước ta là hàng điện lạnh, điện tử mới, hàng đã qua sử dụng, thuốc lá( vì bên kia biên giới có hai chợ buôn thuốc lá lớn là Ba Thu và Tà Lôi ở Cămpuchia. Các đối tượng thường cõng hàng thuê, dùng xuồng máy. Người dân ở Mỹ Đông và Phước Chỉ có đến 80% số người cõng hàng thuê Thanh tra tài chính số 22 tháng 4 năm 2004 tr33.
. Tuyến biên giới Vĩnh Hưng hàng hóa được nhập chủ yếu qua hai khu vực chính thuộc xã Khánh Hưng và đập Bình Châu. ở địa bàn biên giới Mộc Hóa, điểm tập kết thường là huyện Thanh hóa, Thủ Thừa, Bến Lức. Tuyến biên giới Đức Huệ, hàng lậu được chuyển theo kênh đào Ba Thu. Riêng trong năm 2003 Cục Hải quan Long An đã phát hiện và lập biên bản 234 vụ, trị giá khoảng 5,516 tỷ đồng. Trong đó buôn lậu và vận chuyển hàng hóa trái phép 91 vụ, trị giá khoảng 1,801 tỷ đồng gian lận thương mại 143 vụ, trị giá ước tính 3,715 tỷ đồng.
2.1.4 Tuyến đường biển
Mấy năm gần đây tình hình buôn lậu đường biển có chiều hướng giảm song thủ đoạn ngày càng tinh vi phức tạp. Bộ thương mại đã bỏ thủ tục giấy xuất nhập khẩu chuyến nên số lượng hàng nhập khẩu bằng container tăng lên đáng kể. Bọn buôn lậu lợi dụng điểm này để mắc ngoặc với người thực hiện công tác kiểm tra bị thái hóa biến chất, hàng chưa kiểm tra đã bốc dỡ. Thủ đoạn thường là lợi dụng tầu của doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, tầu thuyền của tư nhân.
Thủ đoạn của bọn buôn lậu theo tuyến này thường là:
Không khai báo hoặc khai sai số lượng, quy cách, loại sản phẩm, chủng loại xuất xứ của sản phẩm.
Cất giấu hàng lậu
Kết hợp với tầu nước ngoài, tầu ngoài vùng kiểm soát, chờ cơ hội để thông qua các tầu nhỏ để cập bến.
Lợi dụng thời tiết xấu để vận chuyển.
2.1.5 Tuyến đường hàng không.
Buôn lậu thường tập trung ở khu vực sân bay Nội Bài và sân bay Tân Sân Nhất. Mặt hàng nhập lậu thường có tính gọn nhẹ như vàng bạc, đồng hồ, máy vi tính, điện thoại di động, văn hóa phẩm, ma túy tài liệu phản động. Thủ đoạn thường là không khai báo hải quan hàng đi cùng chuyến, bỏ quên hàng ở băng truyền, móc lối với cán bộ hải quan biến chất để ghi hạ giá hóa đơn, không ghi hóa đơn để trốn thuế nhập khẩu.
Qua đó cho thấy tình hình buôn lậu đang diễn ra hết sức phức tạp ở mọi địa bàn trên tổ quốc mà đặc biệt đối tượng lợi dụng địa bàn khu vực biên giới và cán bộ Hải quan biến chất để thực hiện hành vi của mình.
2.2 Tình hình gian lận thương mại hiện nay và các phương thức.
2.2.1 Lợi dụng sơ hở của luật thuế xuất nhập khẩu.
+. Lợi dụng luật thuế.
Luật thuế quy định nếu nhập hàng nguyên chiếc thì thuế suất thường cao hơn còn nếu nhập linh kiện thì thuế suất thường thấp hơn. Do đó chủ hàng thường tháo rời hàng nguyên chiếc để hưởng mức thuế thấp hơn.
Luật thuế quy định nếu hàng thực phẩm rau quả để làm giống thì thuế thấp hơn là để tiêu dùng. Do vậy khi nhập khẩu họ thường khai là để làm giống.
+. Lợi dụng giá tính thuế.
Khi thực hiện điều 7 Hiệp định chung về thương mại và thuế quan ( GATT), đã tạo điều kiện thuận lợi nhiều cho doanh nghiệp nhưng thực tế nhiều doanh nghiệp đã lợi dụng trốn lậu thuế, qua một số hình thức như: Khai giá thấp so với giá thực tế, khai chệch tên hàng sai kích thước, của mặt hàng thực nhập, gian lận trong hàng khuyến mại. Bên cạnh đó doanh nghiệp còn lợi dụng việc ân hạn chậm nộp thuế, hay mặt hàng có thuế suất cao mà nộp thuế ngay khai giá trị thấp, nhập ồ ạt về rồi thay đổi số đăng ký kinh doanh rồi bỏ trốn, mất tích hoặc bỏ trốn. Để hạn chế gian lậu cơ quan Hải quan thường mời doanh nghiệp đến để trực tiếp tham vấn, đồng thời cũng tham khảo giá trên sách báo internet, thông tin trên hệ thống giá của tổng cục Hải quan và khảo giá thực tế qua thị trường. Qua thông tin này thường dùng phương pháp giá trị giao dịch của hàng hóa nhập khẩu giống hệt và giá trị giao dịch của hàng hóa nhập khẩu tương tự để tham vấn. Nếu hai phương pháp này không được thì chuyển sang phương pháp giá trị khấu trừ.
+ Lợi dụng chế độ hàng đã qua sử dụng.
Theo quyết định của Bộ tài chính thì thuế suất thuế nhập khẩu quy định với hàng đã qua sử dụng là 70% so với hàng mới cùng chủng loại. Nếu hàng mới cùng chủng loại chưa có đơn giá thì lấy giá của hàng mới tương đương để tính. Nhưng lại chưa phân định rõ đâu là hàng mới đâu là hàng đã qua sử dụng. Điều này tạo kẽ hở cho việc gian lận thương mại. Nhiều
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0489.doc