MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ, MỘT LĨNH VỰC KINH DOANH MỚI CỦA THẾ GIỚI 2
Giới thiệu chung về TMĐT 2
1. Số hoá và nền kinh tế số hoá 2
2. Sự ra đời của World Wide Web 3
3. Thương mại điện tử là gì ? 4
4. Các phương tiện kỹ thuật của thương mại điện tử 4
4.1. Điện thoại 4
4.2. Máy điện báo(Telex) và máy Fax 5
4.3. Truyền hình 5
4.4. Thiết bị kỹ thuật thanh toán điện tử 5
4.5. Mạng nội bộ và liên mạng nội bộ 6
5. Internet và Web 6
CHƯƠNG II: KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG CỦA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ TRONG KINH DOANH THƯƠNG MẠI 8
I. Các hình thức và lợi ích của thương mại điện tử 8
1. Các hình thức hoạt động của Thương mại điện tử 8
a. Thư tín điện tử 8
b. Thanh toán điện tử 8
c. Trao đổi dữ liệu điện tử 9
d. Giao gửi số hoá các dung liệu 9
e. Bán lẻ hàng hoá hữu hình 10
2. Lợi ích của Thương mại điện tử 10
a. Nắm được thông tin phong phú 10
b. Giảm chi phí sản xuất 10
c. Giảm chi phí bán hàng và tiếp thị 11
d. Giảm chi phí giao dịch 11
e. Giúp thiết lập và củng cố quan hệ đối tác 11
f. Tạo điều kiện sớm tiếp cận"kinh tế số hoá” 11
3. Những yêu cầu về pháp lý đối với Thương mại điện tử(EC) 12
II. Thực trạng thương mại điện tử trong kinh doanh thương mại ở Việt Nam 12
1. Thương mại điện tử và kinh doanh điện tử 12
2. Thương mại điện tử ở Việt Nam 13
a. Tổng quan về EC ở Việt Nam 13
b. Thực trạng EC tại Việt Nam 15
CHƯƠNG III: NHỮNG BÀI HỌC, THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ 19
I. Những bài học kinh nghiệm trong kinh doanh thương mại 19
II. Thách thức đặt ra 22
III. Giải pháp về Thương mại điện tử trong kinh doanh thương mại 24
KẾT LUẬN 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO 27
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1452 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thương mại điện tử và khả năng ứng dụng trong kinh doanh thương mại hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lectronic payment) là việc thanh toán tiền thông qua thông điệp điện tử(electronic message) thay cho việc giao tay tiền mặt; việc trả lương bằng cách chuyển tiền trực tiếp vào tài khoản, trả tiền mua hàng bằng thẻ mua hàng, thẻ tín dụng v.v..đã quen thuộc lâu nay thực chất đều là các dạng thanh toán điện tử. Ngày nay, với sự phát triển của thương mại điện tử, thanh toán điện tử đã mở rộng sang các lĩnh vực mới, như:
Trao đổi dữ liệu điện tử tài chính(Financial Electronic Data Interchange: FEDI) chuyển phục vụ cho việc thanh toán điện tử giữa các công ty giao dịch với nhau bằng điện tử.
Tiền mặt Internet(Internet cash) là tiền mặt được mua từ một nơi phát hành, sau đó được chuyển đổi tự do sang các đồng tiền khác thông qua Internet, áp dụng cả trong phạm vi một nước cũng như giữa các quốc gia.
Túi tiền điện tử(electronic purse): nói đơn giản là nơi để tiền mặt Internet mà chủ yếu là thẻ khôn minh(smart card), kỹ thuật của túi tiền điện tử về cơ bản là kỹ thuật"mã hoá khoá công khai/bí mật” tương tự như kỹ thuật áp dụng cho"tiền mặt Internet”.
Thẻ khôn minh( smart card), nhìn bề ngoài tương tự như thẻ tín dụng, nhưng ở phía mặt sau của thẻ, thay vì cho dải từ, lại là một chip máy tính điện tử có một bộ nhớ nhỏ để lưu trữ tiền số hoá, tiền ấy chỉ được"chi trả” khi người sử dụng và thông điệp được xác thực là đúng.
Giao dịch ngân hàng số hoá(digital banking), và giao dịch chứng khoán số hoá(digital securities trading). Hệ thống thanh toán điện tử của ngân hàng là một đại hệ thống, gồm nhiều tiểu hệ thống: thanh toán giữa ngân hàng với khách hàng( qua điện thoại, tại các điểm bán lẻ, các ki-ôt, giao dịch cá nhân tại các nhà, giao dịch tại trụ sở khách hàng, giao dịch qua Internet, chuyển tiền điện tử, thẻ tín dụng, vấn tin…), thanh toán giữa ngân hàng với các đại lý thanh toán( nhà hàng, siêu thị..), thanh toán trong nội bộ một hệ thống ngân hàng, thanh toán giữa hệ thống ngân hàng này với hệ thống ngân hàng khác.
c. Trao đổi dữ liệu điện tử
Trao đổi dữ liệu điện tử(electronic data interchange: EDI) là việc trao đổi các dữ liệu dưới dạng"có cấu trúc”(structured form) từ máy tính điện tử này sang máy tính điện tử khác, giữa các công ty hay tổ chức đã thoả thuận buôn bán với nhau theo cách này một cách tự động mà không cần có sự can thiệp của con người.
EDI được áp dụng từ trước khi có Internet, khi ấy người ta dùng"mạng giá trị gia tăng”(Value Added Network:VAN) để kết nối các đối tác EDI với nhau: cốt lõi của VAN là một hệ thống thư tín điện tử cho phép các máy tính điện tử liên lạc được với nhau, và hoạt động như một phương tiện lưu trữ và tìm gọi: khi nối vào VAN, một doanh nghiệp sé có thể liên lạc với nhiều nghìn máy tính điện tử nằm ở nhiều trăm thành phố trên khắp thế giới.
d. Giao gửi số hoá các dung liệu
Dung liệu(content) là các hàng hoá mà cái người ta cần đến là nội dung của nó mà không phải là bản thân vật mang nội dung, ví dụ như tin tức, sách báo,nhạc, phim, các chương trình phát thanh, truyền hình, các chương trình phần mềm.
Trước đây, dung liệu được giao dưới dạng hiện vật(physical form) bằng cách đưa vào đĩa, băng, in thành sách, báo, thành văn bản, đóng gói bao bì chuyển đến tay người sử dụng, hoặc đến điểm phân phối để người sử dụng đến mua và nhận trực tiếp. Ngày nay, dung liệu được số hoá và truyền gừi theo mạng, gọi là"giao gửi số hoá”.
Các tờ báo, các tư liệu công ty, các catalô sản phẩm lần lượt được đưa lên Web, gọi chung là"xuất bản điện tử”(electronic pulishing), gọi là xuất bản võng thị.
e. Bán lẻ hàng hoá hữu hình
Cho tới năm 1994-1995, hình thức bán hàng này còn chưa phát triển. Nay, danh sách các hàng hoá bán lẻ qua mạng đã mở rộng ra, từ hoa tới quần áo, ôtô, và xuất hiện hẳn một loạt hoạt động gọi là mua hàng điện tử( electronic shopping), hay"mua hàng trên mạng”, ở một số nước, Internet bắt đầu trở thành công cụ để cạnh tranh hàng hoá hữu hình. Tận dụng tính năng đa phương tiện(multimedia) của môi trường Web và Java, người bán xây dựng trên mạng các"cửa hàng ảo”(virtual shop) để thực hiện việc bán hàng. Người sử dụng Internet/Web tìm trang Web của cửa hàng, xem hàng hóa hiển thị trên màn hình, xác nhận mua, và trả tiền bằng thanh toán điên tử.
2. Lợi ích của Thương mại điện tử
a. Nắm được thông tin phong phú
Thương mại điện tử trước hết giúp cho các doanh nghiệp nắm được thông tin phong phú về kinh tế – thương mại, nhờ đó có thể xây dựng được chiến lược sản xuất và kinh doanh thích hợp với xu thế phát triển của thị trường trong nước, khu vực và thị trường quốc tế. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hiện nay đang được nhiều nước quan tâm, coi là một trong những động lực phát triển chủ yếu của nền kinh tế.
b. Giảm chi phí sản xuất
Thương mại điện tử giúp giảm chi phí sản xuất, trước hết là chi phí văn phòng. Các văn phòng không giấy tờ(paperless office) chiếm diện tích nhỏ hơn rất nhiều, chi phí tìm kiếm chuyển giao tài liệu giảm nhiều lần, tiết kiệm theo hướng này đạt tới 30%. Điều quan trọng hơn là các nhân viên có năng lực được giải phóng khỏi nhiều công đoạn sự vụ có thể tập trung vào nghiên cứu phát triển, sẽ đưa đến những lợi ích to lớn lâu dài.
c. Giảm chi phí bán hàng và tiếp thị
Thương mại điện tử giúp giảm thấp chi phí bán hàng và chi phí tiếp thị. Bằng phương tiện Internet/Web, một nhân viên bán hàng có thể giao dịch được với rất nhiều khách hàng, catalô điện tử trên Web phong phú hơn nhiều và thường xuyên cập nhật so với catalô in ấn chỉ có khuôn khổ giới hạn và luôn luôn lỗi thời.
d. Giảm chi phí giao dịch
Thương mại điện tử qua Internet/Web giúp người tiêu thụ và các doanh nghiệp giảm đáng kể thời gian và chi phí giao dịch. Thời gian giao dịch qua Internet chỉ bằng 7% thời gian giao dịch qua Fax, và khoảng 0.5 phần nghìn thời gian giao dịch qua bưu điện, chi phí giao dịch qua Fax hay qua bưu điện chuyển phát nhanh, chi phí thanh toán điện tử qua Internet chỉ bằng 10% tơi 20% chi phí thanh toán theo lối thông thường.
e. Giúp thiết lập và củng cố quan hệ đối tác
Thương mại điện tử tạo điều kiện cho việc thiết lập và củng cố mối quan hệ giữa các thành tố tham gia vào quá trình thương mại: Thông qua mạng, các thành tố tham gia có thể giao tiếp trực tiếp và liên tục với nhau gần như không còn khoảng cách địa lý và thời gian nữa, nhờ đó cả sự hợp tác lẫn sự quản lý đều được tiến hành nhanh chóng và liên tục, các bạn hàng mới, các cơ hội kinh doanh mới được phát triển nhanh chóng trên bình diện toàn quốc, toàn khu vực, toàn thế giới, và có nhiều cơ hội lựa chọn.
f. Tạo điều kiện sớm tiếp cận"kinh tế số hoá”
Xét trên bình diện quốc gia, trước mắt thương mại điện tử sẽ kích thích sự phát triển của ngành công nghệ thông tin, là ngành có lợi nhuận cao nhất và đóng vai trò ngày càng lớn trong nền kinh tế; nhìn rộng hơn, thương mại điện tử tạo điều kiện cho việc sớm tiếp cận với nền kinh tế số hoá mà xu thế và tầm quan trọng đã được đề cập ở trên. Lợi ích này có một ý nghĩa đặc biệt đối với các nước đang phát triển: nếu không nhanh chóng tiếp cận vào nền kinh tế số hoá, hay còn gọi là nền"kinh tế ảo” thì sau khoảng một thập kỷ nữa, nước đang phát triển có thể bị bỏ rơi hoàn toàn.
3. Những yêu cầu về pháp lý đối với Thương mại điện tử(EC)
Tính pháp lý của EC: Chính phủ cần Luật hoá các hoạt động cũng như những hình thức của Thương mại điện tử, có như vậy mới tạo tiền đề, căn cứ cho việc thực thi những điều khoản, thoả thuận cũng như những sự vụ khác phát sinh trong EC.
Thanh toán điện tử và bảo mật:Thanh toán bằng thẻ tín dụng mà không cần có chữ ký của người mang thẻ có được không? Các thông tin do khách hàng cung cấp qua mạng(số tài khoản thẻ tín dụng)… được bảo vệ như thế nào? Nếu Thương mại điện tử liên quan đến dịch vụ tư vấn, y tế, pháp luật thì các thông tin của khách hàng được bảo mật đến mức nào?
Chữ ký trong EC: Khác với sự xác nhận thông thường của mỗi chủ thể là thông qua chữ ký lên mặt giấy trong mỗi tình huống cụ thể, EC thì không cho phép các cá nhân có thể ký lên văn bản với chữ ký thông thường được. Với vấn đề đặt ra là phải chấp nhận và quản lý chữ ký điện tử, chữ ký số hoá như thế nào để đảm bảo được tính cá nhân, trung thực của chữ ký nói chung.
Bảo vệ dữ liệu, thông tin: Do sự khó khăn trong kiểm soát các thông tin, dữ liệu trên mạng, do vậy, cần phải có biện pháp cụ thể, hữu hiệu nhằm bảo vệ được những dữ liệu có xuất xứ từ Nhà nước. Bảo vệ mạng thông tin và sở hữu trí tuệ.
Bảo vệ bí mật riêng tư: Thương mại điện tử cũng đòi hỏi Chính phủ trong tính pháp lý là việc bảo vệ những bí mật riêng tư cho cá nhân, tổ chức một cách thích đáng.
Chống tội phạm: Chống tội phạm truy nhập một cách bất hợp pháp vào kho dữ liệu, hoặc vùng cấm truy nhập của các nhân hoặc tổ chức được pháp luật bảo vệ.
II. Thực trạng thương mại điện tử trong kinh doanh thương mại ở Việt Nam
1. Thương mại điện tử và kinh doanh điện tử
Có thể hiểu Thương mại điện tử là các quá trình mua, bán, trao đổi các loại sản phẩm, dịch vụ, giải pháp trên nền Internet, đặc biệt là trên Web.
Kinh doanh điện tử là việc chuyển những hoạt động kinh doanh quan trọng mà một doanh nghiệp đang có lên mạng, sử dụng công nghệ Thương mại điện tử. Thông thường có hai loại hình thức kinh doanh: kinh doanh giữa các doanh nghiệp với nhau và kinh doanh giữa doanh nghiệp và khách tiêu dùng. Thương mại điện tử cũng đã chuyển cả hai loại hình kinh doanh này lên mạng, và tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ và giải pháp mới mà kinh doanh và thương mại thông thường không có. Tuy vậy ở nước ta, việc tạo dựng EC còn gặp một số khó khăn về pháp lý, kỹ thuật, thị trường và tâm lý… các khó khăn này trong tiến trình hội nhập, hiện đại hoá, hy vọng sẽ được khắc phục sớm, thông qua đầu tư mạnh, đúng đắn vào việc phát triển hạ tầng cơ sở thông tin và truyền thông, ban hành cơ sở pháp lý, phát triển thị trường. Kinh doanh điện tử có thể được triển khai có hiệu quả tại Việt Nam, đã có một số doanh nghiệp triển khai với thành công bước đầu.
2. Thương mại điện tử ở Việt Nam
a. Tổng quan về EC ở Việt Nam
Trong khi EC đã trở nên khá phổ biến tại các nước phát triển thì ở Việt Nam, thương mại điện tử thực sự vẫn chỉ xuất hiện chủ yếu trên sách báo và giấy tờ. Cho tới nay, theo đánh giá của các chuyên gia trong ngành công nghệ thông tin, Việt Nam vẫn còn thiếu khá nhiều yếu tố để EC có thể trở thành hiện thực. Mặc dù đã có những siêu thị điện tử đầu tiên được hình thành nhưng trên thực tế, EC vẫn chỉ là tên gọi và cách thức bán hàng vẫn hoàn toàn theo phương pháp thủ công. Số liệu tổng kết của các công tác nghiên cứu và dự báo đã cho thấy: EC trên thế giới đã phát triển với tốc độ rất cao, đạt doanh số 1,3 tỷ USD trong năm 1996, 15 tỷ USD trong năm 1998 và dự kiến có thể đạt tới hàng ngàn tỷ USD trong những năm tới. Xu hướng trong tương lai, công nghệ thông tin sẽ còn phát triển với tốc độ nhanh không thể dự báo trước. Chính vì vậy, Việt Nam sẽ phải thật nhanh chóng nếu muốn được chia sẻ một phần của"chiếc bánh” hấp dẫn này.
Manh nha EC
Một Website trên siêu thị điện tử do Công ty phát triển phần mềm VASC mở ra vào tháng 12/1998 đã đánh dấu bước phát triển đầu tiên của EC ở Việt Nam. Thông qua Website này, người tiêu dùng có thể mua bất kỳ vật gì qua mạng, từ cây kim tới chiếc xe hơi. Tuy nhiên, do còn quá mới nên kết quả là doanh số mua bán qua mạng cũng không đáng là bao và việc mua bán cũng mới chỉ là hình thức và người bán vẫn phải mang hàng đến nhà thì người mua mới thanh toán tiền. Ông Vũ Tiến Lộc, Tổng thư ký phòng thương mại và công nghệ Việt Nam, trong một cuộc hội thảo về EC được tổ chức vào đầu tháng 8/2000 đã cho biết:"Tuy ở Việt Nam mới chỉ trong giai đoạn khởi đầu nhưng đã có tới hơn 600 doanh nghiệp đã mở trang Web đồng thời cũng đã có hàng ngàn doanh nghiệp tham gia quảng cáo trên mạng”. Đây sẽ là những nhân tố chính tham gia vào quá trình phát triển kinh doanh điện tử ở Việt Nam và cũng là thành quả đáng khích lệ khi mà Việt nam mới chỉ chính thưc hoà mạng Internet từ tháng 11/1997.
Điều đáng mừng là hầu hết các doanh nghiệp đều đã thừa nhận những lợi ích do việc mở Website mang lại. Lãnh đạo công ty xuất nhập khẩu Sách báo thuộc Bộ văn hoá thông tin cho biết:" Nhờ Website mới ra đời, công tác xuất nhập khẩu sách báo đã có những thay đổi về chất, khắc phục được những trở ngại về khoảng cách địa lý giữa Việt Nam và các nước. Một nhà sách mới mở tại thành phố Hồ Chí Minh là nhà sách Minh Khai đã thành công nhờ việc bán các loại sách qua mạng. Chỉ sau một thời gian khai trương nhà sách này đã bán được trên 1000 cuốn sách các loại. Trên cơ sở những hoạt động sơ khai ban đầu, một số Doanh nghiệp và từ phía Chính phủ cũng đang chuẩn bị tiến hành thử nghiệm EC. Một trong những đơn vị đi đầu trong lĩnh vực này là Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam(Vietcombank). Ngân hàng này hiện đang trong quá trình xúc tiến và thử nghiệm điện tử thông qua hình thức thanh toán bằng thẻ tín dụng. Mục tiêu chủ yếu của chương trình này là tạo dựng những bước đi ban đầu cho EC ở Việt Nam và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam hoà nhập thị trường Thương mại quốc tế. Theo kế hoạch đợt thử nghiệm đầu tiên sẽ được tiến hành với việc cung cấp một số mặt hàng cụ thể như: sách báo, phần mềm tin học, dịch vụ du lịch, bưu chính viễn thông. Tất nhiên, việc mua bán này vẫn phải giới hạn phạm vi trong nước.
Việc sử dụng công nghệ thông tin tại các doanh nghiệp còn ở trình độ sơ khai
Mặc dù đã có nhiều mục tiêu được đặt ra nhưng theo đánh giá của đa số chuyên gia trong ngành công nghệ thông tin, Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc phát triển thương mại điện tử và cũng sẽ mất một thời gian khá lâu để hình thức kinh doanh này trở thành hiện thực. Việc sử dụng Công nghệ thông tin tại các Doanh nghiệp còn ở trình độ sơ khai. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam còn chưa tiếp cận được với Internet và thậm chí còn rất nhiều nhà quản lý không biết sử dụng Internet. Một quan chức của Tổng cục bưu điện cũng thừa nhận cơ sở hạ tầng và dịch vụ tài chính của Việt Nam còn chưa phù hợp để phát triển EC. Để làm được điều này cũng cần một khoản đầu tư lên tới con số tỷ USD. Bên cạnh đó việc thuyết phục lòng tin và thói quen của người tiêu dùng Việt Nam cũng là một vấn đề khó khăn khi mà đa số người dân Việt Nam đã quen với phương thức mua bán hàng hoá truyền thống. Vì vậy, không nâng cao được nhận thức thì EC cũng khó có thể thực hiện được ở Việt Nam. Về phía các doanh nghiệp, tuy đã nhận thức được và mong muốn được tiếp cận EC nhưng họ cũng gặp khá nhiều vướng mắc trong việc tiến hành như: chi phí đầu tư công nghệ, khả năng tiếp cận trình độ phổ cập Internet…Hơn nữa, thực tế cũng cho thấy rằng không phải bất kỳ doanh nghiệp nào kinh doanh trên mạng cũng thu được thành công. Theo kinh nghiệm của các chuyên gia trong ngành, một công ty đã thành công theo phương pháp kinh doanh truyền thống thì cũng có khả năng thu được hiệu quả cao hơn khi tiến hành kinh doanh trên mạng. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp sẽ phải tính toán và cân nhắc một cách kỹ lưỡng tất cả các yếu tố khi muốn chuyển sang hoạt động kinh doanh mới này.
Việt Nam vẫn chưa có hạ tâng cơ sở pháp lý để tạo môi trường cho EC phát triển
Nếu Thương mại điện tử đi vào hoạt động thì sẽ có một loạt các vấn đề pháp lý cần phải tính đến và giải quyết như: thừa nhận tính pháp lý của các giao dịch điện tử, của chữ ký điện tử, chữ ký số hoá, bảo vệ pháp lý các hợp đồng Thương mại điện tử, các thanh toán Thương mại điện tử, quy định pháp lý đối với các dữ liệu có xuât xứ từ Nhà nước, chống tội phạm tin học … Điều đáng mừng là ngay từ giữa năm 2000 Bộ Thương mại mà cụ thể là Cục xúc tiến thương mại đã trở thành cơ quan Nhà nước đầu tiên thực hiện một tổng dự án có tên gọi"kỹ thuật Thương mại điện tử”.
b. Thực trạng EC tại Việt Nam
Có thể nói ở nước ta, mối quan tâm đến EC cũng dần nóng lên. Là thành viên của hai tổ chức APEC và ASEAN, Việt Nam đang tích cực tham gia vào những chương trình hành động chung về EC. Nước ta đã tham gia tiểu ban điều phối về EC của ASEAN, tham gia soạn thảo và thảo luận các nguyên tắc chung cho EC của tổ chức này. Nhưng nhìn chung, môi trường EC ở Việt Nam chưa hình thành đầy đủ về các mặt phát triển công nghệ thông tin, nguồn nhân lực, hạ tầng cơ sở kinh tế xã hội- pháp lý.
Hạ tầng cơ sở Công nghệ thông tin:
Theo thống kê của Tổng cục Bưu điện, máy tính ở nước ta mới phổ biến ở mức gần 5 máy/1000 dân, một tỷ lệ thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực, hơn nữa, phần lớn số máy tính này đã lạc hậu, hiệu suất sử dụng máy thấp, nhiều máy chỉ được dùng như máy đánh chữ. Ta cũng chỉ mới xây dựng được một số mạng cục bộ và mạng diện rộng cùng một mạng khung toàn quốc VNN. Cuối năm 1997, Việt Nam chính thức khai thác Internet, tới giữa năm 1999, cả nước mới có 5 đơn vị cung cấp dịch vụ Internet với khoảng 20000 thuê bao( đến tháng 9/2000, số thuê bao là khoảng 78000). Cả nước chỉ có 2 cổng đi quốc tế với băng thông là 16 Mb/s, mỗi cổng một đường vệ tinh, một đường cáp quang. Chi phí truy cập mạng còn cao so với thu nhập cá nhân và so với các nước trong khu vực.
Hạ tầng cơ sở về nhân lực:
Đội ngũ cán bộ tin học của chúng ta mới có khoảng trên 20000 người, đông đảo cán bộ công chức và dân chúng còn chưa quen áp dụng Công nghệ tin học trong hoạt động quản lý và kinh doanh.
An toàn và bảo mật:
Chúng ta chưa xây dựng được các văn bản Luật liên quan tới giao dịch, thanh toán điện tử, bảo vệ an toàn thông tin trên mạng. Trong Bộ Luật Hình sự của chúng ta cũng chưa quy định các tội phạm trong lĩnh vực này. Điều 49-khoản 3- luật Thương mại chỉ có một quy định chung về EC:"Đối với các hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó; điện báo, telex, fax, thư điện tử và các hình thức thông tin điện tử khác cũng được coi là hình thức văn bản”. Tuy quy định như vậy nhưng những vấn đề như cơ sở pháp lý của loại hợp đồng điện tử này là gì, cơ quan nào có quyền tài phán đối với các tranh chấp cho loại hợp đồng này... lại chưa được đặt ra.
Hệ thống thanh toán Tài chính tự động:
Trước tiên, tin học hoá ngành tài chính ngân hàng, xây dựng một hệ thống mạng liên ngân hàng, có khả năng thực hiện các giao dịch tài chính tự động. Mạng thanh toán liên ngân hàng được thành lập để tiến hành các hoạt động nghiệp vụ trong các chi nhánh thuộc hệ thống ngân hàng hay giữa các ngân hàng. Để đảm bảo an ninh, mạng liên ngân hàng là mạng riêng, không kết nối với Internet và không xây dựng trên chuẩn TCP/IP. Với việc thiết lập một mạng nghiệp vụ tài chính ngân hàng toàn cầu, đã cung cấp các dịch vụ ngân hàng trong đó thông tin trao đổi đã được chuẩn hoá như dịch vụ mở tín dụng thư, dịch vụ chuyển tiền....SWIFT là một mạng như vậy. Hiện nay có khoảng 6500 tổ chức tài chính kết nối vào mạng trao đổi dữ liệu điện tử SWIFT. Ngoài ra, hệ thống thanh toán điện tử cung cấp dịch vụ cho Internet user( người sử dụng Internet) từ Internet thanh toán vào mạng riêng của ngân hàng. Hệ thống thanh toán điện tử sẽ đóng vai trò như một" cửa ngõ”( gateway) giữa Internet và mạng ngân hàng. Nay, thanh toán bằng các hình thức Master Card, Visa Card, thanh toán séc, thanh toán thẻ thông minh đang được ứng dụng phổ biến. ở Việt Nam hiện nay có 3 ngân hàng phát hành thẻ là VCB, EXIMBANK, ACB với tổng số thẻ phát hành khoảng hơn 10000 thẻ tín dụng.
Bảo vệ sở hữu trí tuệ và người tiêu dùng:
Trong hiệp định Thương mại Việt Mỹ ký kết ngày 13/7/2000, chương 2 đề cập về Quyền sở hữu trí tuệ gồm 18 điều, trong đó các bên cam kết bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của công dân nước kia không kém sự bảo hộ mà công dân nước đó đang hưởng mà không cần yêu cầu qua những thủ tục nào như phải xuất bản hay đăng ký ở nước kia. Điều khoản về bản quyền, thương hiệu, sáng chế, bí mật thương mại, kiểu dáng công nghệ phần lớn dựa trên các công ước quốc tế với đầy đủ chi tiết về xử lý vi phạm. Đây mới chỉ là hiệp định ta ký với Mỹ, còn về vấn đề bảo vệ sở hữu trí tuệ của ta xét một cách chung nhất thì lại vô cùng yếu kém. Điều này còn do phần lớn ở lối nghĩ của dân ta từ trước tới nay, cũng là sự sát hợp với cách thức kinh doanh chưa thực sự trọng chữ tín như ở Việt Nam. Về vấn đề bảo vệ người tiêu dùng, Việt Nam cũng chưa thực sự chú trọng tới một cách quy mô và có hệ thống kể cả từ phía Chính phủ lẫn doanh nghiệp.
Hạ tầng cơ sở về Kinh tế – pháp lý:
Hệ thống tiêu chuẩn về Thương mại điện tử chưa hình thành, hệ thống thông tin kinh tế quốc gia không tương thích với tiêu chuẩn quốc tế, hệ thống mã quốc gia chưa có. Chúng ta cũng chưa thống nhất được hệ thống mã thương mại( mã hàng hoá, mã doanh nghiệp...), chưa hình thành được hệ thống thanh toán điện tử. Trên bình diện xã hội, lề lối làm việc nói chung và cách mua bán hàng hoá nói riêng vẫn còn theo tập quán cũ: giao dịch trên giấy tờ, mua bán hàng hoá cần phải"sờ tận tay”, phương thức thanh toán chủ yếu là trả tiền mặt..., nghĩa là khác biệt một cách căn bản so với khái niệm Thương mại điện tử, và đây là thói quen không dễ thay đổi. Có thể nói rằng, thực trạng hạ tầng cơ sở công nghệ, kỹ thuật, kinh tế- xã hội của Việt Nam còn yếu và chưa đủ cho sự phát triển của Thương mại điện tử. Bên cạnh đó, người dân cũng như các cơ quan Chính phủ chưa nhận thức đúng đắn, chưa nhất quán về vai trò của EC trong sự phát triển kinh tế –xã hội. Trong bối cảnh chung như vây, hệ thống pháp lý về EC của Việt Nam còn hết sức sơ khai, chưa có nền tảng cơ bản cho những hoạt động rất mới này, các yếu tố của Thương mại điện tử chưa được phản ánh trong hệ thống nội luật và hệ thống thuế. Hiện nay ở Việt Nam chưa hình thành một khung pháp lý trong kinh doanh điên tử và Thương mại điện tử, điều này đã làm cho các doanh nghiệp nước ngoài phải đắn đo khi làm việc với các Doanh nghiệp Việt Nam. Về vấn đề này, chủ yếu chúng ta vẫn dựa vào một số nghị quyết, quyết định của Chính phủ nhằm thúc đẩy và phát triển lĩnh vực Công nghệ thông tin như: Nghị quyết 49/CP ngày 04/08/1993 về phát triển CNTT ở nước ta trong những năm 80. Ngày 07/04/1995 Chính phủ ra quyết định số 211/TTg phê duyệt kế hoạch tổng thể về phát triển CNTT Việt Nam cho đến năm 2000..., và gần đây nhất là Quyết định 128/2000-QĐ- TTg về một số chính sách và biện pháp khuyến khích đầu tư và phát triển Công nghệ phần mềm.
Chương III
Những bài học, thách thức và giải pháp về thương mại điện tử
Tách thách thức ra khỏi cơ hội là một việc làm cũ để nhìn rõ hơn một vấn đề nào đó. Trong thực tế, nhiều khi trong cơ hội lại có thách thức, trong thách thức lại có cơ hội. Với Thương mại điện tử/ Kinh doanh điện tử(TMĐT/ KDĐT), mỗi cơ hội đều kèm theo thách thức.
I. Những bài học kinh nghiệm trong kinh doanh thương mại
Nên sử dụng Internet vào mục tiêu doanh nghiệp, gắn chặt với các mục tiêu doanh nghiệp. Các nhà điều hành doanh nghiệp cần chỉ đạo trực tiếp TMĐT/KDĐT, muốn vậy cần hiểu thấu đáo TMĐT/KDĐT, không nên tin tưởng mà"khoán trắng” cho các nhà Công nghệ thông tin. Các nhà quản lý doanh nghiệp nên học các kỹ thuật quản lý để có thể quản lý một cách hữu hiệu hoạt động và năng suất của các nhà công nghệ thông tin làm việc cho doanh nghiệp mình. Các nhà công nghệ thông tin, các thiêt kế xây dựng Web nên hiểu rằng công việc của họ trong TMĐT/KDĐT là rât quan trọng, nhưng đó là công việc ở phía sau, không có công việc này sẽ không có TMĐT/KDĐT, nhưng chỉ có nó không thì cũng chẳng bao giờ có TMĐT/KDĐT. Nếu nhà quản lý có"nguồn gốc” từ công nghệ thông tin, rât có khả năng sẽ coi nặng phần công nghệ - đây là"bệnh” rất phổ biến hiện nay tại nhiều nền kinh tế kém phát triển. Còn nếu nhà quản lý học trường quản trị kinh doanh ra( nơi không dạy tới nơi tới chốn về Thương mại điện tử và kinh doanh điện tử) thì dẫn tới chỗ chẳng coi mấy thứ công nghệ ra gì!
Khi đã có Web và các công cụ TMĐT/KDĐT rồi, cần đảm bảo việc duy trì ổn định các công cụ này cả về mặt kỹ thuật lẫn kinh doanh. Đối tác thứ ba có thể hỗ trợ, gánh đỡ sức nặng tài chính và kỹ thuật ban đầu cho doanh nghiệp.
Một số sản phẩm dịch vụ sẽ được cung cấp trên mạng dễ hơn những loại khác( ví dụ: bán sách, nhạc, dịch vụ tài chính...). Hiện nay, các hãng lớn cung cấp công cụ TMĐT/KDĐT theo các hệ thống, tất cả được gói lại theo các quy trình toàn bộ, từ khách hàng cho tới nhà cung cấp.
Khi được sử dụng hợp lý và cẩn thận, Internet sẽ giúp giảm chi phí, tăng cơ hội giao dịch kinh doanh cho doanh nghiệp, tạo ra các quy trình hợp lý và thuận tiện cho doanh nghiệp trong TMĐT/KDĐT.
Như đã nhận xét ở trên, các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong khu vực dịch vụ có nhu cầu và xu thế chuyển đổi sang kinh doanh điện tử nhanh hơn các loại hình doanh nghiệp khác, với tỷ lệ doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam chưa cao, tỷ lệ loại hình doanh nghiệp dịch vụ cũng chưa cao, chúng ta cần chú ý phát hiện và tạo điều kiện để các doanh nghiệp phi dịch vụ chuyển đổi nhanh hơn.
Tăng trưởng mau chóng của TMĐT/KDĐT sẽ dẫn đến tăng trưởng chung của thương mại quốc tế. Các nền kinh tế phát triển sẽ thu lợi nhiều nhất, chứ không phải là các nước kém phát triển.
Xu thế chung là B2B, chiếm hơn 80% của tổng thu nhập TMĐT/ KDĐT. Như vậy có cơ hội trực tiếp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa hướng vào các chuỗi nhà cung cấp. Điều này ảnh hưởng tới các chuỗi nhà cung cấp( supplier chain) vốn có, trong trường hợp xấu nhất phá huỷ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35516.doc