MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU 1
Phần I: LÝ THUYẾT CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ VÀ XUẤT NHẬP KHẨU 2
1. Khái niệm về thương mại quốc tế 2
2. Vai trò của thương mại quốc tế 2
3. Xuất nhập khẩu và vai trò của xuất nhập khẩu 3
Phần II: THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA TRUNG QUỐC TRONG THỜI KỲ CẢI CÁCH VÀ MỞ CỬA, TÁC ĐỘNG CỦA NÓ ĐẾN HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU CỦA TRUNG QUỐC 8
I. Tình hình của kinh tế Trung Quốc trước thời kỳ cải cách, mở cửa 8
II. Chính sách kinh tế mở cửa và tác động và tác động của nó đối với hoạt động xuất nhập khẩu 8
1. Nội dung của chính sách kinh tế trong thời kỳ mở cửa 8
2. Quá trình thực hiện cải cách 19
3. Ngoại thương của Trung Quốc trong thời kỳ cải cách mở cửa 20
4. Quan hệ xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế Trung Quốc 21
III. Những thành tựu mà Trung Quốc đã đạt được trong thời kỳ cải cách 23
1.Tăng trưởng kinh tế và những thay đổi cơ cấu kinh tế 23
2. Trung Quốc gia nhập WTO 23
3. Những kết quả và những vấn đề còn tồn tại 25
IV. Liên hệ với Việt Nam 30
1. Những ảnh hưởng 30
2. Những thành tựu 31
3. Khó khăn và tồn tại 32
Phần III: KẾT LUẬN 33
35 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1902 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thương mại quốc tế của Trung Quốc trong thời kỳ cải cách và mở cửa, tác động của nó đến hoạt động xuất nhập khẩu của Trung Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các xí nghiệp vốn ở bên ngoài. Và để đảm bảo việc thu càng nhiều ngoại tệ nhờ xuất khẩu, nâng cao chất lượng và tín nhiệm hàng xuất khẩu Trung Quốc đang thi hành và hoàn chỉnh các chính sách ủng hộ xuất khẩu, hạ giá thành xuất khẩu, tăng cường các dịch vụ, củng cố thị truờng đã có và mở rộng những thị trường mới. Đồng thời với việc mở rộng xuất khẩu hàng hoá, Trung Quốc đang và sẽ phát triển hơn nữa xuất khẩu lao động, hiện nay Trung Quốc đã nhânj thầu lao động với 130 nước và khu vực. Đến nửa đầu năm 1991 Trung Quốc đã ký gần 1, 9 vạn hợp đồng với tổng trị giá là 16, 42 tỷ đôla, nhận thầu các công trình ở nước ngoài, đẩy mạnh vận tải hàng không và vận tải biển quốc tế, phát triển nghành du lịch tăng thêm thu nhập ngoại tệ phi mậu dịch.
Về thu hút vốn đầu tư kỹ thuật.
Từ khi thực hiện chính sách mở cửa đến nay, số vốn đầu tư của nước ngoài vào Trung Quốc tăng rất nhanh. Từ 1979 đến tháng 6- 1986, Trung Quốc đã thu hút được 24, 88 tỷ đôla, trong đó số đầu tư trực tiếp là: 6, 69 tỷ đôla, số nước ngoài cho vay là 18, 19 tỷ đôla. Đến nửa đầu năm 1991 Trung Quốc đã vay được gần 24 tỷ đôla. Trung Quốc đã phê chuẩn hơn 3, 4 vạn xí nghiệp nước ngoài đầu tư đi và sản xuất kinh doanh đạt giá trị sản luợng công nghiệp khoảng 70 tỷ đôla, chiếm 3, 6% tổng giá trị sản lượng công nghiệp toàn quốc. Kim ngạch xuất khẩu của các xí nghiệp này đạt 7, 8 tỷ đôla, chiếm 12, 6% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc.
Số vốn đầu tư trực tiếp của tư bản nước ngoài vào Trung Quốc trong mấy năm qua dã vượt xa số đầu tư trực tiếp vào các nước Châu á khác. Sở dĩ như vậy là do nhiều nhân tố, trong đó chính sách mở cửa là nhân tố quan trọng nhất. Việc Trung Quốc tiến hành cải cách kinh tế và thực hiện chính sách mở cửa đã tạo hoàn cảnh đầu tư cho các nước và cho những tư bản muốn đầu tư vào Trung Quốc. Các khoản đầu tư và tiền vốn của nước ngoài đã và đang có tác dụng ngày càng quan trọng đối với công cuộc hiện đại hoá Trung Quốc. Nó bổ xung cho tiền vốn đang thiếu của Trung Quốc, thúc dẩy cải tién kỹ thuật ở các nhà máy cũ, nâng cao trình độ quản lí kinh doanh, trình độ kỹ thuật ở đó làm cho sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và góp phần làm sống động nền kinh tế trong nước.
Một trong những con đường tiếp thu khoa học kỹ thuật là lợi dụng vốn đầu tư của nước ngoài đưa khoa học kỹ thuật và phương pháp quản lí tiến tiến vào trong nước. Phạm vi tiếp thu kỹthuật rất rộng, đó không chỉ là kỹ thuật sản xuất và chủ yếu là kỹ thuật sản xuất công nghiệp, mà còn bao gồm kỹ thuật quản lí kinh doanh, lưu thông vật tư, tiết kiệm năng lưọng và kỹ thuật phân tích dự đoán tính hình thị trường... Có thể đưa kỹ thuật vào bằng con đường gián tiếp như: giấy cho phép chuyển nhượng kỹ thuật, bàn bạc kỹ thuật... hoặc bằng hình thức trực tiếp như nhập khẩu kỹ thuật, làm gia công...
Trung Quốc sử vốn của nước ngoài đã mở ra những triển vọng mới, đã đem lại những hiệu quả đáng kể có lợi cho việc điều chỉnh kinh tế của Trung Quốc: xây dựng trọng điểm năng lượng, giao thông và cải tiến kỹ thuật ở các xí nghiệp hiện có, tiếp thu kinh nghiệm quản lí khoa học kỹ thuật tiên tiến của nước ngoài.
Nhưng bên cạnh những kết quả lớn, việc thu hút vốn đầu tư của nước ngoài còn đang gặp một số khó khăn. Trước hết là chất lượng thu hút vốn đầu tư chưa cao và trong những năm đầu còn tập trung vào những nghành như du lịch, nhà đất, công nghiệp nhẹ, khách sạn. Còn về mặt kỹ thuật, những xí nghiệp do tư bản nước ngoài đầu tư phần lớn có trình độ khoa học thấp, sử dụng nhiều lao động, nên chưa đạt đượcmục đích thu hút kỹ thuật và kỹ năng quản lí tiên tiến. Ngoài ra, Trung Quốc còn thiếu các chuyên gia thạo giỏi để quản lí tốt các qúa trình xuất nhập khẩu và sử dụng vốn nước ngoài.
Để khắc phục tình trạng trên và để nâng cao hiệu quả của việc sử dụng vốn nước ngoài, một số nhà nghiên cứu Trung Quốc đã phân tích ảnh hưởng của nhân tố chính sách, chế độ và cán bộ đối với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Họ đã đưa ra các kiến nghị để cải thiện hoàn cảnh đầu tư như cải thiện chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại; cải tiến việc quản lí giá cả, ngăn chặn tăng giá;cải thiện cơ chế quản lí tư bản nước ngoài, nâng cao hiệu quả quản lí; đề ra chính sách thu hút vốn đầu tư của tư bản nước ngoài, tăng cường nghiên cứu tổng hợp đối với tư bản quốc tế.
Để thể chế hoá việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, ngày 11-10-1986 Quốc vụ viện đã công bố quy định về khuyến khích các nhầ đầu tư nước ngoài, nhằm cải thiện môi truờng đầu tư, thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài tốt hơn, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng xuất khẩu thu ngoại tệ, phát triển kinh tế quốc dân. Trong đề cương quy hoạch 10 năm và 5 ăm lần thứ 8, Trung Quốc khẳng định là sẽ lợi dụng tích cực có hiệu quả vốn nước ngoài, tranh thủ các khoản vay quốc tế để tập trung vào các nghành trọng điểm như: nông nghiệp, lâm nghiệp, thuỷ lợi, năng lượng, thông tin, giao thông, nguyên vật liệu. Trung Quốc chủ truơng cải thiện hơn nữa môi truờng đầu tư, khuyến khích đầu tư nước ngoài. Đồng thời tăng cường và cải thiện việc quy hoạch và chỉ đạo về lợi dụng vốn bên ngoài, nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội của việc lợi dụng vốn bên ngoài. Và những biện pháp để đảm bảo chắc chắn trả nợ đúng hẹn.
Bên cạnh đó, để giải quyết một phần vấn đề cán bộ, Trung Quốc mời các chuyên gia nước ngoài vào làm việc tại Trung Quốc với tư cách là người quản lí và cử các chuyên gia của Trung Quốc ra nước ngoài(chủ yếu là các nước tư bản chủ nghĩa) để học tập, bổ túc nâng cao trình độ, quản lí và hành chính. Năm 1988 Trung Quốc đã cử 50 cán bộ cao cấp sang học các chương trình huấn luyện hành chính tại trường đại học Havớt, và viện kỹ thuật Masatrusets. Chi phí cho việc học này lên đến7 triệu đôla. Đồng thời Trung Quốc cũng nhận đào tạo sinh viên nước ngoài và coi đó là một bộ phận của chính sách mở cửa.
Song song với việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, Trung Quốc cũng tăng cường đầu tư ra nước ngoài, Trung Quốc có hợp doanh với nhiều nước trên thế giới như: Mỹ, Nhật, Anh, Hà Lan, Bỉ, Canada, Braxin, Chi Lê, Thái Lan, Băngladet, Hồng kông... Trong hợp tác, đầu tư với nước ngoài Trung Quốc thường dùng các hình thức: Các công ty hữu hạn, các công ty cổ phần hữu hạn, các công ty hợp doanh hợp đồng. Đến nay, Trung Quốc đã có 886 xí nghiệp kinh doanh chung vốn hợp tác mang tính chất phi mậu dịch tại 94 nước và khu vực với tổng kinh phí đầu tư là 2, 44 tỷ đôla, trong đó phía Trung Quốc đóng góp 1, 05 tỷ đôla, chiếm 43%.
Các đặc khu kinh tế và vùng kinh tế ven biển
Trung Quốc xây dựng các đặc khu kinh tế nhằm mục đích thu hút vốn, kỹ thuật và công nghệ tiên tiến của nước ngoài để thúc đẩy phát triển kinh tế trong nước, nâng cao trình độ kỹ thuật, xuất khẩu và giao lưu kinh tế giữa thế giới với trong nước. Trung quốc bắt đầu xây dựng các đặc khu từ tháng 8 – 1979 và quá trình này chia làm hai bước. Bước 1: Kiến thiết cơ bản, tạo hoàn cảnh đầu tư. Bước 2: Phát triển sản xuất công – nông nghiệp, xây dựng kinh tế tổng hợp, hướng sản xuất ra nước ngoài.
Bước 1: Từ năm 1979 đến năm 1984, tập trung xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng cơ sở, đào tạo cán bộ quản lý và công nhân lành nghề, tạo môi trường đầu tư thuận lợi. Trong bước này, Trung Quốc đầu tư vào 4 đặc khu kinh tế 7. 630 triệu nhân dân tệ, xây dựng cơ sở trên 60km2. ở đó đã hình thành hệ thống đồng bộ đường giao thông, điện nước, hải cảng, sân bay, nhà xưởng, trụ sở cửa hàng và các công trình dịch vụ.
Bước 2: Từ năm 1985 trở đi, huy động vốn đầu tư của nước ngoài, tiến hành hoạt động kinh doanh sản xuấ, phát triển đặc khu phù hợp với những điều kiện khách quan, chủ quan của từng đặc khu để nhằm mục đích chung là kích thích nền kinh tế trong nước phát triển.
4 đặc khu kinh tế của Trung Quốc có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, nhân lực khác nhau nên phương hướng xây dựng đặc khu cũng có trọng điểm riêng.
Đặc khu Thẩm Quyến kế liền với Hồng Kông, thuận lợi cho việc thu hút vốn của Hoa kiều và người nước ngoài ở Hồng Kông và áo Môn,. Nơi đây sẽ phát triển một đặc khu kinh tế tổng hợp gồm cả nông nghiệp, công nghiệp, du lịch, thương nghiệp.
Đặc khu Chu Hải nằm sát áo Môn, phát triển chủ yếu về du lịch, nhà ở, phục vụ thương nghiệp và gia công xuất khẩu.
Đặc khu Sán Đầu phát triển chủ yếu gia công xuất khẩu Long Hổ.
Đặc khu Hạ Môn phát triển chủ yếu là khu gia công xuất khẩu Hồ Lý.
Các đặc khu kinh tế của Trung Quốc đã thu hút được các công ty nưopức ngoài vào tìm kiếm nguồn cung cấp sức lao động to lớn, có chất lượng cao giá lại rẻ. Từ ngày các đặc khu kinh tế được thành lập, những công ty nổi tiếng của phương Tây (như Xerox, International Business Machines oryaler, Corp-Warner, Lomfert and Dou Chemical…) đã làm ăn phát đạt ở Trung Quốc. Và đến nửa đầu năm 1991 các nhà kinh doanh nước ngoài đã đầu tư trực tiếp gần 24 tỷ đôla, hơn 3, 4 vạn xí nghiệp nước ngoài đầu tư, trong đó có 1, 6 vạn xí nghiệp đã đi vào sản xuất kinh doanh.
Trong kế hoạch 5 năm lần thứ 8 Trung Quốc chủ trưong xây dựng tốt hơn nữa ở 5 đặc khu kinh tế Thẩm Quyến, Chu Hải, Hạ Môn, Sán Đầu và tỉnh Hải Nam. Các đặc khu kinh tế có nhiệm vụ hàng đầu là phải lợi dụng có hiệu quả hơn nữa vốn nước ngoài, kỹ thuật tiên tiến và kinh nghiệm quản lí của nước ngoài, phát triển kinh tế hướng ra bên ngoài, và mở rộng sự liên kết và hợp tác chiều ngang về kinh tế nội địa.
Trong phân vùng phát triển kinh tế của Trung Quốc hiện nay thì trọng điểm chiến lược phát triển kinh tế là vùng ven biển phía Đông với 11 tỉnh, khu, 14 thành phố ven biển mở cửa, 4 đặc khu kinh tế, 3 vùng châu thổ, 2 bán đảo và tỉnh đặc khu Hải Nam. Tiếp theo việc xây dựng các đặc khu kinh tế, năm 1983 Trung Quốc mở cửa 14 thành phố ven biển, sau đó đến 3 vùng châu thổ vào năm 1985 và đến tháng 7- 1985 thì mở cửa hoàn toàn 4 thành phố lớn: Thượng hải, Thiên Tân, Đại Liên và Quảng Châu. Đó là một qúa trình mở cửa dần từng bước với chủ trương đẩy mạnh mở cửa với nước ngoài, tích cực tham gia trao đổi cạnh tranh quốc tế, lấy sự phồn vinh của kinh tế ven biển để kéo theo toàn bộ nền kinh tế quốc dân phát triển, liên hiệp kinh tế theo chiều ngang giữa vùng ven biển và nội địa, kéo theo miền tây và miền trung phát triển, phát huy vai trò “cửa sổ” của khu vực ven biển trong quá trình mở cửa với bên ngoài.
Khu vực ven biển của Trung Quốc đang đi đầu trong phát triển kinh tế hướng ra nước ngoài mà khu vực chủ yếu là khu vực Thái Bình Dương, Bắc Mỹ và Tây Âu. Những thành phố ven biển mở của đều nằm ở vùng kinh tế phát triển, giao thông thuận lợi, có cơ sở công nghiệp tốt, văn hoá, khoa học – kỹ thuật tương đối phát triển, có điều kiện thuận lợi để mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài, có mạng lưới hợp tác kinh tế với nội địa rộng lớn. Những thành phố này cùng với các đặc khu kinh tế tạo thành dải đất tiền duyên hải mở cửa ra nước ngoài. Sau khi mở của, khu vực này đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút vốn nước ngoài, nhập khẩu kỹ thuật, tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế – kỹ thuật ở những nơi đó. Trên cơ sở đó giúp đỡ vùng nội địa về các mặt tiếp thu và phổ biến khoa học – kỹ thuật tiên tiến, kinh nghiệm quản lý, thông tin kinh tế, bồi dưỡng nhân tài, thúc đẩy hiện đại hoá cả nước.
Trong những năm tới, khu vực kinh tế ven biển của Trung Quốc chủ yếu sẽ đi váo nâng cấp và đổi mới sản phẩm phát triển các nghề và sản phẩm trình độ tương đối tiên tiến, tinh vi, mũi nhọn mới, đặc biệt là phải phát huy ưu thế về công nghiệp cơ khí điện tử, công nghiệp nhẹ, phát triển những sản phẩm nổi tiến chất lượng tốt có sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Đồng thời sẽ chuyển dần những sản phẩm tiêu hao năng lượng và nguyên vật liệu lớn đòi hỏi khối lượng vận chuyển lớn vào các vùng nội địa có đủ năng lượng và giàu nguyên vật liệu để từng bước làm dịu tình trạng căng thẳng về năng lượng và giao thông. Bên cạnh việc phát triển san xuất những sản phẩm xuất khẩu có giá trị, vùng kinh tế ven biển sẽ phát triển các ngành tài chính – ngân hàng, bảo hiểm, tin học, du lịch, tư vấn, nhà cửa và dịch vụ sinh hoạt.
Song song với việc xây dựng các thành phố ven biển. Trung Quốc đã đề ra kế hoạch 10 năm xây dựng các cảng dọc theo 18 000 km bờ biển cho phù hợp với sự phát triển kinh tế và buôn bán cuả Trung Quốc. Dự định đến cuối thế kỷ này số cầu cảng của các cảng ven biển Trung Quốc sẽ lên tới 2000 và trong số đó sẽ có 1200 cảng nước sâu. Hiện nay Trung Quốc có khoảng 60 cảng lớn và vừa trong đó có 40 cảng phục vụ cho chính sách kinh tế mở cửa.
Trong hơn 40 năm xây dựng CNXH, Trung Quốc đã có 20 năm cách biệt với quá trình phát triển kinh tế, kỹ thuật của thế giới và 20 năm đó chính là giai đoạn cách mạng khoa học thế giới có những bước tiến mạnh mẽ.
Năm 1978, Quốc hội Trung Quốc khoá V kỳ họp thứ I thông qua chương trình 4 hiện đại hoá và đề ra mục tiêu đến năm 2000 tổng sản phẩm xã hội sẽ tăng 4 lần, đồng thời đã xác định muốn phát triển không thể “ Đứng ngoài “ thế giới, mà phải “ Mở cửa”, phải “ bước vào thế giới “. Đồng thời các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã khẳng định rằng xây dựng chủ nghĩa xã hội phải kiên trì cải cách, mở cửa, cũng như việc nhân dân Trung Quốc lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử. Cải cách, mở cửa là con đường tất yếu để phát triển sức sản xuất xã hội, xây dựng đất nước phồn vinh, vững mạnh. Nhưng đây cũng là một quá trình lâu dài phức tạp, không thể nóng vội.
Trong dịp tổng kết 40 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc những năm cải cách, mở cửa được đánh giá là thời kỳ kinh tế phát triển phồn thịnh nhất, sức mạnh đất nước tăng trưởng nhanh nhất, nhân dân được hưởng nhiều phúc lợi nhất và cũng là thời kỳ Trung Quốc mở cửa đi ra thế giới bên ngoài. Trong thời kỳ này tổng sản phẩm quốc dân tăng 2, 5 lần, bình quân mỗi năm tăng 9, 6 % và đời sống nhân dân được cải thiện nhanh chưa từng thấy. Nhưng con đường cải cách mở của cũng không thể thuận buồm xuôi gió và cũng không tránh khỏi nảy sinh những sai sót cần rút kinh nghiệm về mặt kỹ thuật – kỹ thuật cũng như về mặt chính trị- xã hội. Đòi hỏi mở của với nưỡc ngoài, và chính sách mở của với người nước ngoài phải trở thành luật pháp phải định ra pháp luật, điều lệ, phương châm, chính sách cho những nghành kinh tế có liên quan đến nước ngoài để có căn cứ pháp luật cho các bên hữu quan tuân theo đó là nhân tố quan trọng để cải thiện hoàn cảnh đầu tư nước ngoài.
Quá trình mở cửa cũng là quá trình mở rộng sự giao lưu trong và ngoài nước không chỉ riêng về kinh tế –kỹ thuật mà còn là sự giao lưu các mặt hoạt động khác của đời sống xã hội, kể cả tư tưởng, tâm lý xã hội. Trung quốc chủ trương cải cách, mở cửa là để tạo điều kiện cho chủ nghĩa xã hội tự hoàn thiện và phát triển. Do vậy để giữ được phương hướng đúng đắn, thì cải cách, mở cửa phải được tiến hành dưới tiền đề 4 nguyên tắc cơ bản; Tiến hành đồng thời xây dựng văn minh vật chất và văn minh tinh thần ;Kiên trì không thay đổi đẩy mạnh cải cách, mở cửa và không ngừng chống tự do hoá tư sản ;Cảnh giác ngăn ngừa và sẵn sàng đập tan âm mưu diễn biến hoà bình hòng đưa cải cách, mở cửa đi chệch hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời phải làm tốt công tác xây dựng Đảng, xây dựng dân chủ và pháp chế, kiên quyết trừng trị tham nhũng, khôi phục và củng cố mối quan hệ máu thịt giữa đảng và nhân dân.
Tóm lại, theo sự đánh giá của thế giới và trung quốc, trong hơn 10 năm thực hiện chính sách cải cách, mở cửa. Trung Quốc. đã thu được những thành công lớn trong phát triển kinh tế và nâng cao mức sống của nhân dân. Chính sách này dã có tác dụng kích thích mọi mặt hoạt động của đất nước, tạo cơ sở vững mạnh cho địa vị của Trung Quốc và tạo ra cho Trung Quốc một diện mạo mới trước con mắt của thế giới. Đồng thời, chính sách này cũng đem lại cho CNXH màu sắc Trung Quốc một sưc sống mới và đóng góp những kinh nghiệm đáng kể cho công cuộc cải cách, đổi mới đang diễn ra ở nhiều nước trên thế giới.
2. Quá trình thực hiện các chính sách cải cách
Thay đổi nhận thức đối với chính sách kinh tế đối ngoại: Trung Quốc đã có một ban lãnh đạo biết nhìn nhận đúng thời cuộc, có chính sách điều hành có hiệu quả. Họ đã kiên trì và nhất quàn thực hiện chính sach mở cửa mặc dù gạp vấp váp do thiếu kinh nghiệm hoặc bị các bạn hàng nước ngoài gây khó khăn. Họ liên tục điều chỉnh chính sách, tạo ra những “ không gian thông thoáng” cho các hoạt động đối ngoại, cải tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho người nước ngoài, bao gồm việc xây dựng cơ sở hạ tầng, cải cách và ban hành hệ thống pháp luật có liên quan tới quan hệ kinh tế đối ngoại và các thủ tục hành chính ; đa dạng hoá các loại hình kinh doanh ; tận dụng tiềm năng kinh tế và trí tuệ của người Hoa và Hoa Kiều... Nhũng thành công trong hoạt động kinh tế đối ngoại của Trung Quốc trước hết gắn liền với việc lựa chọn các bước đi chiến lược của các nhà lãnh đạo nhằm mở cửa đất nước; đồng thời gắn liền với những biện pháp mở cửa mà họ đã thực hiện một cách linh hoạt, uyển chuyển và có bài bản.
Hình thành thế mở cửa đồi ngoại nhiều tầng; nấc, ra mọi hướng: từng bước mở cửa vùng ven biển, tiến đến mở cửa các vùng ven sông, ven biên giới và mọi vùng nội địa. Những bước đi như vậy đã dần dần hình thành thế mở cửa đối ngoại nhiều tầng, nhiều nấc, ra mọi hướng theo phương châm mở cửa từ điểm đến tuyến, từ tuyến đến diện. Quá trình mở cửa đó cũng theo một nguyên tắc là cho phép một số vùng giàu lên trước, rồi trên cơ sở giàu có đó giúp đỡ các vùng khác giàu theo.
3. Ngoại thương của Trung Quốc trong thời kỳ cải cách, mở cửa
Mục tiêu chủ yếu của chính sách ngoại thương của cuộc cải cách này là mở rộng quyền hạn chủ động kinh doanh ngoại thpong, khơi dậy tính tích cợc năng động sáng tạo cho các xí nghiệp sản xuất và công ty xuất nhập khẩu ngoại thương, đẩy mạnh việc mở rộng kênh tiêu thụ hàng hoá ra thị trường ngoài nước, tăng cường sức cạnh tranh và nâng cao vị trí của hàng hoá xuất khẩu trên thị trường quốc tế, đồng thời mở rộng quan hệ mậu dịch của Trung Quốc đối với các cước trên thế giới. Những chính sách cải cách lớn trong lĩnh vực ngoại thương được thực hiện trong các năm qua gồm:
Đưa quyền tự chủ kinh doanh ngoại thương xuống các địa phương, quyền sản xuất kinh doanh và xuất khẩu cho các xí nghiệp cỡ vừa và nhỏ, từng bước mở rộng quyền kinh doanh ngoại thương cho tổng công ty xuất nhập khẩu.
Đổi mới cơ chế quản lý ngoại thương: Trung Quốc đã thực hiện chính sách điều chỉnh và đổi mới cơ chế quản lý ngoại thương, tạo ra hệ thống quản lý gọn nhẹ, hoạt động linh hoạt, giải quyết có hiệu quả trên cơ sở chuyển từ phương thức quản lý trực tiếp sang quản lý gián tiếp, phối hợp quản lý vĩ mô với quản lý vi mô trong hoạt động ngoại thương. Thực hiện điều tiết vĩ mô và điều tiết kinh tế phù hợp, cân đối công tác tổ chức và kiểm tra giám sát, hoàn thiện hệ thống pháp luật và đổi mới công tác phục vụ, bảo đảm cho hoạt động ngoại thương phát triển thuận lợi hơn nữa.
Đẩy mạnh chế đọ khoán kinh doanh ngoại thương phát triển toàn diện và phối hợp cải cách các thể chế có liên quan: Từ năm 1979 Trung Quốc đã dưa ra một loạt các chính sách nới lỏng hoạt đọng kinhdoanh xuất nhập khẩu cho các xí nghiệp sản xuất hàng hoá và công ty xuất nhập khẩu, nhằm xoá bỏ hiện tượng “ăn nồi cơm chung” và “ bức tường chung” giữ donh nghiệp công nghiệp và doanh nghiệp công nghiệp và doanh nghiệp ngoại thương kéo dài nhiều năm nay. Để phối hợp với việc thực hiện chế độ trách nhiệm khoán kinh doanh ngoại thương một cách đồng bộ, htực hiện đi sâu cải cách ngoại thương toàn diện Trung Quốc đẵ thực hiện cải cách một số thể chế chủ yếu có liên quan đến sản xuất hàng hoá xuất nhập khẩu và kinh doanh xuất nhập khẩu:
+ Cải cách thể chế kế hoạhc ngoại thương
+Cải cách thể chế kinh doanh xuất nhập khẩu
+Cải cách thể chế giữ lại ngoạ tệ
+Cải cách thể chế phân phối lợi nhuận ngoại thương
- Phát triển các cơ quan thương vụ ở nước ngoài: Đến cuối năm 1988, Trung Quốc đã thành lập 144 cơ quan thương vụ ở 128 nước và khu vực; song đến năm1995 đã có tới 222 cơ quan thương vụ ở hầu hết các nước và khu vực trên thế giới. Đặc biệt, Trung Quốc đã thành lập được 4 trung tâm mậu dịch rất lớn ở New york, Atlantic, Panama và Ham Bourg. Những trung tâm này đã phát huy tác dụng trong việc xây dựng “ cửa sổ thương mại” ngoài nước, góp phần thúc đẩy mối giao lưu, trao đổi và buôn bán giữa các địa phương trong và ngoài nước một cách rộng dãi.
Quan hệ xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế Trung Quốc
Các nhà kinh tế học quốc tế khi nhìn nhận về vai trò của ngoại thương và sự tăng trưởng kinh tế đã đưa ra thuyéet “ Bi quan xuất khẩu hiện đại”, và nó đặc biệt ảnh hưởng vào những thập kỷ 80. theo kinh nghiệm cho thấy, sự phát triển của nhiều nước đang phát triển phụ thuộc vào sự tăng trưởng của những nước phát triển, mặt khác, từ năm 1973 đến nay tốc độ tăng trưởng ngoại thương đang giảm và như vậy theo thuyết này thì đó là một nguy cơ. Chính vì thuyết đó mà có người đã cho rằng mô hìn kinh tế hướng ngoại kiểu á Đông trong đó có Trung Quốc có thể không phù hợp khi mà trên thế gới hiện nay kinh tế tăng trưởng thấp và chức năng bảo hộ mậu dịch đang thịnh hành.
Tuy nhiên quá trình cải cách và mở cửa đã phản bác hoàn toàn những luận điệu đó, quan hệ giữa vai trò xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế thể hiện trên 3 mặt sau:
Trong thời gian từ năm 1978 – 1992, tỷ lệ tăng trưởng bình quân cũng như tỷ lệ xuất khẩu hàng năm của ngoại thương Trung Quốc không những cao hơn tỷ lệ tăng trưởng bình quân hàng năm GNP của Trung Quốc mà còn cao hơn nhiều mức tăng trưởng và xuất khẩu toàn cầu cùng thời kỳ (tỷ lệ tăng trưởng ngoại thương hàng năm của Trung Quốc cùng thời kỳlà 16% trong khi tốc độ phát triển của toàn cầu là 7. 75%).
Theo dự đoán sau cải cách thì phải đến cuối thế kỷ này quy mô ngoại thương của Trung Quốc cần đạt được 160 tỷ USD, nhưng chỉ đến cuối năm 1992, quy mô ngoại thương của Trung Quốc đã đạt được 165. 6 tỷ USD, cán cân ngoại thương đã đạt đến 38%, năm 1991 là 36. 41%. Trên thực tế, mức độ đó có thể so sánh với cả các nước phát triển phương tây (năm 1991 nhịp độ tăng ngoại thương của Mỹ là 16, 04%, Nhật 16, 30%, Pháp 37, 12%, Canađa 41, 89%... )
Điều đó không chỉ phản ánh với mô hình phát triển rộng rãi của các nước lớn trên thế giới, mà cò gạt bỏ luận điệu đòi gạt Trung Quốc ra khỏi tổ chức kinh tế khu vực.
Sự phát triển của ngoại thương Trung Quốc có tác dụng thúc đây kinh tế Trung Quốc tăng trưởng. Trong thời gian 1981 – 1991, gái trị thấp nhất của giới hạn xuất khẩu của ngoại thương Trung Quốc là 3, 98%(1983), cao nhất là 60, 5% (1990), nhơng trong 11 năm tổng số giá trị gia tăng là1538, 45 tỷ NDT, tổng số giá trị gia tăng của xuất khẩu ngoại thương 355, 944 tỷ NDT, tỷ lệ so sánh giữa 2 ngành này là 1/0, 23. Điều đó có nghĩa là sự phát triển ngoại thương đã có tác dụng làm động cơ thúc đẩy kinh tế Trung Quốc tăng trưởng. Với việc tốc độ phát triển của tăng trưởng xuất khẩu từ 10 tỷ USD trong 15 năm (1978-1993) Trung Quốc đã không kém các nước phát triển phương tâymà còn cho thấy chính sách mở cửa với bên ngoài đã đạt được những thành tích lớn.
* Thị trường Trung Quốc mở cửa và tỷ trọng nhập khẩu
Bên cạnh việc chiếm lĩnh thị trường thế giới, Trung Quốc cũng đã mở rộng hơn nữa thị trường trong nước, từ đó nâng cao cán cân nhập khẩu (Từ năm 1980 – 1991, tỷ trọng nhập khẩu của Trung Quốc là: 6, 69%; 7, 7%; 7, 26%;8, 91%; 14, 7%; 15, 45%; 14, 28%; 14, 61%; 13, 75%; 14, 55%; 17, 12%) mà hơn nữa là Trung Quốc đã mở cửa rất ổn định.
Nguyên nhân:
Năm 1984, khởi động cuộc cải cách thể chế ngoại thương và thực hiện chế độ đại lý nhập khẩu, hàng hoá nhập khẩu do nhà nước thống nhất giảm nhanh.
Năm 1986, Trung Quốc chín thức đề nghị khôi phục địa vị của nước kí kết hiệp định GATT, nen có điều chỉnh lớn về quản lý nhập khẩu.
Năm 1988, TW Đảng Cộng sản Trung Quốc đưa ra chiến lược phát triển kinh tế vùng ven biển.
III. Những thành tựu mà Trung Quốc đã đạt được trong thời kỳ cải cách:
Tăng trưởng kinh tế và những thay đổi về cơ cấu kinh tế
Trong những năm 1978-1997, Trung Quốc đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm là 10%, mức cao nhất thế giới lúc bấy giờ. Giai đoạn 1992-1997, Trung Quốc thậm chí còn tăng trưởng ngoạn mục hơn nữa với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 11%/năm. Nhiều nhà quan sát xem sự tăng trưởng này là thần kỳ, đặc biệt là khi so sánh với các nước XHCN cũ trong lúc các nước này trải qua sự suy thoái kinh tế trầm trọng trong các giai đoạn từ đầu đến giữa thập niên 90.
Tăng trưởng kinh tế nhanh kéo theo thu nhập bình quân đầu người dân Trung Quốc nâng nên đáng kể. từ năm 1978 đến 1997, thu nhập thực tế của dân cư đô thị tăng bình quân 6%/năm, và thu nhập thực tế của cư dân nông thôn tăng 8%/năm. Thu nhập của nông dân tăng đã làm số dân nghèo theo thống kê chính thức giảm mạnh từ mức 33% vào năm 1978 (WB, 1992) xuống còn 4% vào năm 1997 (Li, 1998). Năm 1996, chính phủ công bố kế hoạch 5 năm lần thứ 9 với nội dung là “sẽ cơ bản xoá đói nghèo vào năm 2000”.
Đồng hành với sự tăng trưởng nhanh của Trung Quốc là những thay đổi quan trọng trong cơ cấu ngành của nền kinh tế nước này. Năm 1978, nông nghiệp chiếm 24%, công nghiệp và xây dựng chiếm 48% và dịch vụ 24% GDP. 19năm sau, tâm quan trọng của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân đã giảm mạnhtrong khi vị trí của dịch vụ đã tăng lên tương ứng. Năm1997, giá trị tăng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V2288.DOC