MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I- NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THƯƠNG MẠI 2
I-/ TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI. 2
1-/ Khái niệm và bản chất của thương mại. 2
a, Khái niệm: 2
b, Bản chất kinh tế của thương mại. 2
2-/ Nguyên nhân hình thành thương mại. 3
3-/ Quan điểm về thương mại. 3
a, Chức năng, nhiệm vụ của thương mại. 3
b, Đặc trưng của thương mại trong nền kinh tế thị trường. 4
c, Nội dung của hoạt động thương mại. 5
d, Vị trí và vai trò của thương mại trong nền kinh tế thị trường. 6
II-/ THỰC TRẠNG THƯƠNG MẠI NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN QUA. 7
2-/ Những hạn chế của hoạt động thương mại trong thời gian qua. 13
3-/ Nguyên nhân của những hạn chế đó. 15
PHẦN II-NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI 18
I-/ Mục tiêu phát triển kinh tế của nước ta trong thời gian tới. 18
II-/ QUAN ĐIỂM VÀ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI Ở NƯỚC TA TRONG THỜI GIAN TỚI. 19
1-/ Quan điểm: 19
2-/ Những biện pháp chủ yếu. 19
2.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, các cơ chế, chính sách và công cụ quản lý. 19
2.2. Sử dụng đồng bộ cơ chế kế hoạch hoá và các công cụ tài chính, tín dụng: 20
2.3. Tổ chức lại thị trường trên từng địa bàn theo các định hướng sau đây: 21
2.4. Phát triển các hình thức kinh tế hợp tác trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ: 21
2.5. Tổ chức và hướng dẫn các thành phần kinh tế khác kinh doanh thương mại: 21
2.6. Xây dựng bộ máy quản lý Nhà nước về thương mại. 22
2.7. Về thị trường xuất nhập khẩu: 22
2.8. Đấu tranh chống buôn lậu và các hành vi kinh doanh trái phép. 23
2.9. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực thương mại. 23
2.10 Hoàn thiện tổ chức và quản lý thương nghiệp Nhà nước. 23
KẾT LUẬN 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO 25
mục lục 26
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1576 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thương mại và các biện pháp phát triển thương mại trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN, thương mại đã cùng các ngành, các địa phương khác nỗ lực phấn đấu đạt được những thành tựu quan trọng, tạo đà, bước để cho những năm tiếp theo. Trên lĩnh vực thương mại, có những chuyển biến rõ nét, góp phần quan trọng vào mục tiêu chung của nền kinh tế. Điều này thể hiện ở trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất, trên lĩnh vực mua bán hàng hoá, chúng ta đã chuyển việc mua bán hàng hoá từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang mua bán theo cơ chế thị trường, giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị và quan hệ cung cầu. Trong thương mại nói chung là không còn tình trạng ép giá đầu ra, nâng giá đầu vào, Nhà nước không chi phối hoàn toàn giá cả trên thị trường mà chỉ tác động vào thị trường bằng những công cụ điều tiết của mình để cho thị trường tự điều tiết lấy, tự bình ổn lấy. Thêm vào đó, do đời sống của người dân có nhiều cải thiện, được nâng cao nên sức mua trên thị trường tăng lên đáng kể. Tính đến năm 1999, tổng mức luân chuyển hàng hoá bán lẻ xã hội ước đạt 195 ngàn tỷ đồng, tăng khoảng 6% so với năm 1998 (184 ngàn tỷ đồng), nếu loại trừ yếu tố giá thì chỉ tăng khoảng 1,5%, đây là năm có tốc độ tăng thấp nhất trong giai đoạn 1991-1999. Thông thường, ở nước ta tốc độ tăng trưởng GDP năm 1999 là 4,8% thì lưu chuyển hàng hoá bán lẻ phải tăng ở mức thấp nhất là 10% mới tương xứng. Vậy mà nếu tốc độ lưu chuyển hàng hoá là 6% thì vấn đề đặt ra cho tổng cung, tổng cầu là một vấn đề đáng lưu ý.
Giá cả nói chung trong những năm qua không có nhiều biến động, phù hợp với thu nhập của người dân, ngày càng đáp ứng được nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng. Nếu như trước kia, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, giá cả nói riêng và toàn bộ các hoạt động mua bán trao đổi đều do Nhà nước chi phối quyết định dẫn đến tình trạng cung không đáp ứng nổi cầu, sản xuất cầm chừng, lãi giả lỗ thật, việc hạch toán sản xuất kinh doanh thực hiện theo chế độ hạch toán kinh tế. Thì bây giờ trong cơ chế thị trường, Nhà nước cho phép các thành phần kinh tế tự do sản xuất kinh doanh, do vậy vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để giảm mức tối đa chi phí đầu vào thì từ đó mới có được lợi nhuận. Do đó, các doanh nghiệp phải chuyển sang hạch toán theo chế độ hạch toán kinh doanh, giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị, phần lớn là các doanh nghiệp phải chấp nhận giá thị trường. Chính điều này đã trở thành động lực cho kinh tế phát triển, tạo bước chuyển lớn về mặt kinh tế xã hội ở nước ta trong những năm qua.
Thứ hai, một khía cạnh quan trọng của thương mại góp phần làm thay đổi diện mạo của nền kinh tế trong những năm qua và ngày càng có triển vọng trong những năm tới phải kể đến là lĩnh vực xuất nhập khẩu. Nhờ chính sách đổi mới đa dạng hoá đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại và thực hiện chủ trương khuyến khích xuất khẩu của Đảng và Nhà nước ta trong hơn 10 năm qua, đặc biệt từ năm 1991 đến nay, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng. Đến nay, sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam đã có mặt trên thị trường của 140 nước trên hầu khắp các châu lục trên thế giới. Chất lượng, số lượng và chủng loại mặt hàng có những cải thiện đáng kể. Cơ cấu hàng xuất khẩu đã dần được thay đổi theo hướng phát huy lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 9 năm (1991-1999) đạt 43 tỷ USD, tăng trung bình hàng năm là 22%, đáp ứng được 3/4 nhu cầu nhập khẩu. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người tăng từ 36,3USD năm 1991 lên 118USD năm 1998 và dự kiến tăng lên 136USD năm 2000. Những kết quả trên đây có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần không nhỏ vào sự tăng trưởng liên tục của nền kinh tế trọng thời gian qua.
Trong lịch sử ngoại thương của nước nhà - một nước nghèo, chiến tranh liên miên, thiên tai chồng chất, lần đầu tiên kim ngạch xuất khẩu vượt qua ngưỡng cửa 10 tỷ USD, theo số liệu của Bộ Thương mại, tổng kim ngạch xuất khẩu của năm 1999 đã lên 11,523 tỷ USD, tăng 23% so với mức thực hiện của năm 1998, vượt 15% kế hoạch đặt ra. Trong đó, các doanh nghiệp có vốn đầu tư trong nước đạt 8,946 tỷ USD, chiếm 77,6% và tăng 21,2%, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 2,577 tỷ USD, chiếm 22,4% và tăng 30%. Tuy nhiên, những con số đấy còn cho thấy nhiều điều khác:
Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nước ta hồi phục rất nhanh. Sự tăng nhanh tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trong năm 1999 có phần do sức mua của thị trường khu vực đã bước vào giai đoạn hồi phục. Theo đánh giá của Bộ Thương mại, sức mua của nhiều thị trường khu vực châu á đang dần trở lại bình thường như trước khi khủng hoảng tài chính - tiền tệ.
Thứ hai, giá một số mặt hàng chủ lực của nước ta trên thị trường thế giới tăng nhanh. Cơ cấu hàng xuất khẩu ngày càng phong phú, nhiều mặt hàng xuất khẩu của ta đã có mặt trên nhiều thị trường khu vực và thế giới và ngày càng khẳng định được chỗ đứng của mình. Những mặt hàng chủ lực có thể kể đến là gạo, cà phê, dầu thô, hàng dệt may, giày dép, thuỷ sản... Đây là những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. Trong những năm tới, để tăng nhanh tốc độ xuất khẩu thì Nhà nước phải chú trọng quan tâm nhiều đến cơ cấu của những mặt hàng này, có như thế mới đạt được những mục tiêu đã đề ra cho những năm sau này.
Cơ cấu xuất nhập khẩu được mô tả thông qua bảng số liệu sau:
Bảng 1 - Chỉ số phát triển tổng trị giá xuất khẩu, nhập khẩu 10 năm (1990-1999).
(Đơn vị %)
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
Năm
Xuất khẩu
Nhập khẩu
1990
123,5
107,3
1995
134,4
140,0
1991
86,8
84,9
1996
133,2
136,6
1992
123,7
108,7
1997
126,6
104,0
1993
115,7
154,4
1998
101,9
92,2
1994
135,8
148,5
1999
123,1
100,9
Bảng 2 - Xuất nhập khẩu qua các năm.
1995
1996
1997
1998
Tăng giảm so với 97 (%)
Xuất khẩu
5.448.9
7.255,9
9.269
9.356
- DN có vốn ĐTNNXK trực tiếp
440,1
786,0
1,790
1,990
11,2
+ Hạt điều
76,0
133,3
117
- 12,
+ Hạt tiêu
47,0
62,8
63
0
+ Hàng rau quả
56,1
90,0
68,3
53
- 22,1
+ Hàng hải sản
621,4
696
781
850
8,8
+ Hàng dệt, may
850
1.150
1.349
1350
0,1
+ Giày dép các loại
296,4
530
965
960
- 0,5
+ Hàng thủ công mỹ nghệ
66,0
78,7
121
108
- 10,7
+ Máy vi tính cá nhân và linh kiện
404
58,4
Nhập khẩu Triệu USD
8.155,0
11.144
11.217
11.390
- 3,0
- DN có vốn ĐTNN NK trực tiếp
1.468,1
2.043
2.902
2.646
- 17,2
- Máy móc, thiết bị, phụ tùng thay thế
2.168
1.777
2004
12,8
- Hoá chất
193
216
236
9,3
- Tân dược
69,1
206
312
295
- 5,4
- Nguyên liệu và phụ kiện dệt, may, da
829
1173
717
- 38,9
- Về nhập khẩu: Trong hơn 10 năm qua chúng ta vẫn không ngừng tăng nhanh việc nhập khẩu các mặt hàng mà trong nước chưa sản xuất được. Nếu xét theo cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu, có thể thấy rõ các xu thế biến động và kèm theo đó là các tác động không tích cực đối với sự phát triển của nền kinh tế. Do nhu cầu trong nước ngày càng cao, đồng thời nguồn lực thì không thể đáp ứng được nên phần lớn chúng ta vẫn phải nhập khẩu các mặt hàng kỹ thuật như máy móc thiết bị, phân bón...Trong những năm qua cán cân thương mại luôn bị thâm hụt theo số liệu của Bộ Thương mại, năm 1999 tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 11,623 tỷ USD, tăng 1% so với năm 1998, trong đó các doanh nghiệp có vốn trong nước đạt 8,238 tỷ USD, chiếm 70,8% và giảm 7% các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 3,398 tỷ USD, chiếm 29,2% và tăng 27,3%. Về cơ cấu, dự kiến nhóm công nghệ - máy móc - thiết bị - phụ tùng đạt 3,376 tỷ USD chiếm 29% và giảm 6,4%; nhóm nguyên - nhiên - vật liệu đạt 7,66 Tỷ USD, chiếm 65,8% và tăng 8,3%; nhóm hàng tiêu dùng đạt 0,6 tỷ USD, chiếm 5,2% và giảm 29,4% so với năm 1998.
Nhập siêu là khoảng 113 triệu USD, chiếm 1% tổng kim ngạch xuất khẩu, bằng 5,2% mức nhập siêu năm 1998.
- Về thị trường: Trong những năm đổi mới vừa qua, thực hiện chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại cộng thêm những nỗ lực to lớn của Đảng và nhân dân ta, đã góp phần vào việc mở rộng thị trường xuất nhập khẩu của nước ta. Tính đến hết tháng 11/ 1999 chúng ta đã có quan hệ mua bán với tất cả các châu lục: á, úc, Âu, Mỹ và Phi. Trong đó châu á vẫn là thị trường đứng đầu với kim ngạch chiếm 59% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Sau cuộc khủng hoảng châu á đang trên đà hồi phục và phát triển nên xuất khẩu sang các khu vực này tăng, đặc biệt xuất khẩu sang các nước Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia, Lào, Nhật và Philippin tăng trung bình từ 18 - 35% so với năm 1998. Quan hệ buôn bán giữa nước ta với các nước khác ngày càng xiết chặt, với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới” thì chúng ta đã, đang và sẽ ngày càng có nhiều đối tác làm ăn, buôn bán hơn. Theo thông báo của Bộ Thương mại thì cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam tính đến 11/ 1999 là:
Đối với thị trường trong nước, sau hơn 10 năm đổi mới, thị trường đã chuyển từ trạng thái chia cắt khép kín theo địa giới hành chính kiểu “tự cấp tự túc” sang tự do lưu thông theo quy luật kinh tế thị trường và theo pháp luật. Với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế bước đầu đã huy động được các tiềm năng về vốn, kỹ thuật vào lưu thông hàng hoá, làm cho thị trường trong nước phát triển, sức mua của người dân tăng lên, tổng mức lưu chuyển hàng hoá xã hội không ngừng tăng lên. Hầu hết các mặt hàng chủ lực đều đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của sản xuất và tiêu dùng trên thị trường xã hội, Giá cả các loại vật tư, vật liệu xây dựng và hầu hết các loại hàng tiêu dùng về cơ bản là ổn định. Sự ổn định tương đối của giá cả thị trường làm cho chỉ số lạm phát được giữ vững. Thực hiện chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo điều tiết các thành phần kinh tế khác hoạt động theo đúng pháp luật.
Thứ ba, thương nghiệp Nhà nước đã có sự chuyển đổi tổ chức và phương thức kinh doanh, từng bước thích ứng với cơ chế mới đang giữ tỷ trọng tuyệt đối về xuất nhập khẩu, 70% bán buôn, có tỷ trọng cao trong bán lẻ ở một số ngành hàng thiết yếu, đóng góp ngày càng nhiều cho Nhà nước, thực hiện các mặt hàng chính sách đối với đồng bào miền núi và dân tộc. Một số doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, phát huy được vai trò chủ đạo trên thị trường nội địa, bước đầu tìm được chỗ đứng trên thị trường thế giới. Một số doanh nghiệp đang chuyển đổi tổ chức, thực hiện quá trình liên kết và tích tụ đầu tư vào sản xuất và chế biến, qua đó tạo nguồn hàng và mở rộng thị trường là lực lượng kinh tế mạnh của Nhà nước trong việc điều hoà cung cầu, ổn định giá cả.
Thứ tư, các loại hình dịch vụ gắn liền với lưu thông hàng hoá phát triển mạnh, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, góp phần phục vụ đời sống và giải quyết việc làm cho người lao động.
Thứ năm là quản lý Nhà nước về thị trường và hoạt động thương mại có tiến bộ về tổ chức hệ thống, hoạch định chính sách vĩ mô, tạo điều kiện sản xuất, kinh doanh phát triển.
Thứ sáu là nhiều cán bộ quản lý và kinh doanh thương nghiệp qua sàng lọc và đào tạo trong cơ chế mới, khẳng định được phẩm chất và năng lực, đang tích cực học tập, nâng cao trình độ có thể đối tác trong điều kiện quốc tế hoá các quan hệ kinh tế.
Thứ bảy là hoạt động thương nghiệp đã góp phần đảm bảo các nhu cầu về vật tư, hàng hoá cho nền kinh tế quốc dân, quốc phòng và đời sống nhân dân. Hàng hoá trong nước phong phú, giá cả tương đối ổn định, lạm phát được kiềm chế, ngày càng có nhiều mặt hàng Việt Nam có mặt trên thị trường thế giới. Thương nghiệp góp phần tích cực vào việc phát triển sản xuất, phân công lao động xã hội, thúc đẩy các ngành đổi mới công nghệ, cải tiến cơ cấu sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, làm cho sản xuất từng bước gắn với nhu cầu thị trường bước đầu phát huy được lợi thế so sánh giữa các vùng, các miền, giữa thị trường nước ta với thị trường thế giới, tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân.
Đạt được những thành tự bước đầu rất quan trọng này là do có đường lối và chính sách đổi mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước, sự nỗ lực phấn đấu của các ngành, các cấp, tinh thần khắc phục khó khăn, hoạt động năng động của các doanh nghiệp, gắn liền với sự chuyển biến tích cực của toàn bộ nền kinh tế.
2-/ Những hạn chế của hoạt động thương mại trong thời gian qua.
Bên cạnh những thành tựu và kết quả đã đạt được, thương mại nước ta vẫn còn tồn tại nhiều yếu kém, thiếu sót, phát sinh những vấn đề phức tạp mới, cần có chủ trương và biện pháp giải quyết đúng đắn nhằm đảm bảo định hướng của sự phát triển, phát huy những mặt tích cực và hạn chế, giảm thiểu mức tối đa những mặt yếu kém. Có thể kể đến những yếu kém khuyết điểm đó như sau:
- Thứ nhất, thị trường hàng hoá và số lượng doanh nghiệp bung ra kinh doanh phát triển với tốc độ nhanh, nhưng mang nặng tính tự phát. Nếu thương nghiệp về cơ bản vẫn là một nền thương nghiệp nhỏ, tổ chức phân tán, manh mún, buôn bán theo kiểu chụp giựt qua nhiều tầng nấc, dẫn đến tình trạng ép giá đầu vào, nâng giá đầu ra ở thị trường trong nước, bị chèn ép ở thị trường nước ngoài. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong những năm qua số lượng các doanh nghiệp tổ chức, cá nhân tham gia kinh doanh ngày càng nhều. Bên cạnh đó hệ thống pháp luật của nước ta còn yếu kém, không kiểm soát được thị trường trong nước và số lượng thương nhân kinh doanh nên về cơ bản nền kinh tế nước ta đứng trước bối cảnh thị trường chưa khả quan, còn nhiều khó khăn, bất ổn định. Thị trường trong nước hiện đang mất cân đối lớn giữa cung - cầu, nhu cầu có khả năng thanh toán của xã hội đang suy giảm, một số hàng hoá không có khả năng tiêu thụ bị ứ đọng, tồn kho số lượng lớn (xi măng, sắt thep, than đường..) trong khi đó hàng lậu, hàng giả còn đầy rẫy, chưa được ngăn chặn một cách có hiệu quả. Tình hình buôn bán còn diễn ra theo kiểu từng phi vụ, vấn đề tổ chức quản lý thị trường chưa chặt chẽ, Nhà nước chưa kiểm soát được số lượng hàng hoá bày bán trên thị trường. Bên cạnh đó còn diễn ra tình trạng mất cân đối, cần phân biệt giữa quốc doanh và tư nhân. Tình hình giá cả thường xuyên thay đổi, thường xảy ra cơn sốt hàng hoá trên thị trường Nhà nước vẫn có những chính sách bảo hộ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, kém năng lực cạnh tranh, giá thành cao. Để rồi bắt người tiêu dùng và xã hội chấp nhận những hàng hoá đó với giá cao, bất lợi cho nền kinh tế. Đồng thời với chính sách bảo hộ cao, thì hoạt động buôn lậu gian lận thương mại cũng gia tăng. Việc đánh thuế nhập khẩu cao và vào một mặt hàng nào đó thì buôn lậu mặt hàng đó phát triển bởi lẽ thuế cao, thuế cao cùng các chính sách hạn chế nhập khẩu sẽ đẩy giá hàng nhập khẩu hợp phấp lên quá cao so với những mặt hàng nhập lậu cùng loại. Với ưu thế giá rẻ, chất lượng tốt, hàng nhập lậu lại quay lại cạnh tranh với chính những mặt hàng được bảo hộ sản xuất trong nước, làm cho hàng trong nước bị ứ đọng, không tiêu thụ được ( hiện tượng thừa ế 300.000 tấn đường năm 1998 của ngành mía đường là một minh chứng). Như vậy nhiều doanh nghiệp tưởng là được bảo hộ nhưng trên thực tế lại hoá ra không được bảo hộ. Vì thế đối với các doanh nghiệp, cách bảo hộ tốt nhất là phải tự nâng cao năng lực cạnh tranh, giá rẻ chất lượng tốt.
- Thứ hai là công tác quản lý thị trường nói chung chưa đạt được kết quả theo yêu cầu đặt ra, tình trạng buôn lậu, hàng giả, gian dối trong thương mại không những không suy giảm mà ngày càng trầm trọng. Về mặt chủ trương chính sách có lúc xem nhẹ thị trường trong nước hơn thị trường nước ngoài. Tình trạng kinh doanh không đăng ký, không chấp hành chế độ hoá đơn chứng từ, trốn thuế, cạnh tranh không lành mạnh còn diễn ra ở nhiều nơi. Trình độ văn minh thương nghiệp, tiêu chuẩn vệ sinh trong kinh doanh ăn uống và thực phẩm thấp. Hoạt động quảng cáo thương mại cũng như thị trường văn hoá phẩm chưa được quản lý tốt, gây tác hại đến đạo đức lối sống, ảnh hưởng xấu đến thuần phong mỹ tục.
- Thứ ba là quản lý Nhà nước về thương nghiệp còn nhiều yếu kém, không ít tiêu cực. Chỉ đạo xuất nhập khẩu và điều hành thị trường có khuyết điểm và thiếu sót, tổ chức thu thập và xử lý thông tin để dự báo các động thái của thị trường chưa tốt, không kịp thời, bị tư thương lợi dụng đầu cơ tăng giá. Chưa hỗ trợ đúng mức cho phát triển sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu, thay thế nhập khẩu những mặt hàng mà trong nước sản xuất có hiệu quả. Chưa làm tốt việc điều tiết và hướng dẫn tiêu dùng, thực hiện chính sách tiết kiệm cho đầu tư phát triển, tạo ra năng lực mới, thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh và bền vững của toàn bộ nền kinh tế. Vấn đề này được xem xét một cách cụ thể như sau:
+ Thứ nhất, hoạt động thương mại mang nặng tính tự phát còn nhiều thiếu sót về vai trò của Sở Thương mại trong việc giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh chỉ đạo phát triển các mặt hàng xuất khẩu, phát triển thị trường nông thôn, miền núi, thị trường nước ngoài. Sở chưa giúp nhiều được cho các doanh nghiệp chưa có cac biện pháp hữu hiệu tổ chức sản xuất kinh doanh quản lý vốn, quản lý lao động, ưl doanh nghiệp, mở rộng thị trường - Vai trò của Sở đối với các doanh nghiệp thường là hướng dẫn, nhắc nhở, góp ý...thực chất Sở không có vai trò chỉ đạo điều hành cho nên mối quan hệ giữa Sở với các doanh nghiệp lỏng lẻo, kém hiệu lực, vai trò của Sở ngày càng lu mờ. Các đối tượng này còn nhiều lúng túng và bất cập - Việc hướng dẫn, kiểm tra nắm bắt tình hình xử lý các vi phạm của các đối tượng ngoài quốc doanh còn hạn chế.
+ Thứ hai là mặc dù Đảng và Nhà nước ta vẫn đưa ra phương hướng phát triển là “giảm dần nhập siêu, hạn chế nhập những hàng tiêu dùng chưa vào loại thiết yếu. Có chính sách bảo hộ sản xuất trong nước hợp lý”. Song trên thực tế thì chúng ta vẫn chưa thực hiện được chủ trương đó, do Nhà nước chưa quản lý được hết hoạt động nhập khẩu nên nạn nhập lậu vẫn diễn ra thường xuyên, với tốc độ nhanh khiến cho sản xuất trong nước ế thừa, tồn đọng không tiêu thụ được, vốn tồn trong các doanh nghiệp tăng lên dẫn đến những doanh nghiệp nào mà không có lượng vốn lớn thì dẫn đến phá sản không trụ vững được trên thị trường.
Những tồn tại của những yếu kém về thương mại trong thời gian qua có thể kể đến nữa là:
Về lĩnh vực xuất nhập khẩu: Mặc dù tốc độ tăng xuất khẩu không ngừng tăng cao nhưng trên thực tế khả năng cạnh tranh của sản phẩm nước ra trên thị trường thế giới vẫn còn yếu kém. Các doanh nghiệp có vốn trong nước đã có nhiều cố gắng để tìm kiếm thị trường xuất khẩu nhưng kết quả và hiệu quả chung vẫn còn thấp. Hiện nay, xuất khẩu chủ yếu dựa vào nguyên liệu thô và sản phẩm sơ chế là những mặt hàng khó tăng mạnh về lượng, lại bấp bênh về giá trên thị trường. Thị trường xuất nhập khẩu tuy đã được mở rộng hơn trước nhưng vẫn còn rất hạn chế, ta chưa đứng chận được trên một số thị trường tiêu thụ trực tiếp của ta mà còn phải thông qua thị trường trung gian nên giá hàng xuất khẩu còn thấp hơn một số nước trong vùng như gạo, cao su...do đó hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu nói chung vẫn còn rất hạn chế. Cơ chế điều hành, quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều mặt chưa hợp lý, còn mang nặng nếp hành chính quan liêu sự vụ, chưa ngang tầm với chính sách vĩ mô, chiến lược của ngành. Hiệu lực quản lý còn thấp, do đó ngành thương mại còn có những hạn chế trong việc góp phần giải quyết những cân đối lớn của nền kinh tế, chưa ngăn chặn và khắc phục có hiệu quả các cơn sốt hàng hoá trong thời gian qua. Thêm vào đó do phần lớn hàng hoá của nước ta là xuất khẩu sang khu vực Châu á cho nên chúng ta còn phụ thuộc quá nhiều vào thị trường này. Song thị trường của khu vực này còn rất hạn chế, nên việc đặt ra là chúng ta phải không ngừng tiến sâu vào các thị trường rộng lớn và có tiềm năng như Châu Phi, Bắc Mỹ, Nam Mỹ. Bên cạnh đó việc triển khai một số thủ tục theo quy định mới của Nhà nước về xuất, nhập khẩu còn gây phiền hà cho các doanh nghiệp do một số quy định thiếu rõ ràng và chưa cụ thể, luật thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp mới được áp đụng nên các cơ quan quản lý Nhà nước còn nhiều lúng túng. Luật thuế mới ra đời nhưng đã phải diều chỉnh liên tục, phương pháp thu thuế và hoàn thành thuế còn nhiều bất cập đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp thương mại Nhà nước.
Thứ năm là hợp tác xã mua bán không được quan tâm giúp đỡ để đổi mới, hầu hết bị tan rã, thị trường nông thôn phần lớn do tư thương chi phối.
3-/ Nguyên nhân của những hạn chế đó.
Sở dĩ trong thời gian qua, hoạt động thương mại nước ta còn tồn tại nhiều khuyết điểm, yếu kém hạn chế sự phát triển nhanh và bền vững của nền kinh tế, ảnh hưởng tiêu cực đến quan hệ công nông, quan hệ thành thị nông thôn, dẫn đến sự tiến bộ và công bằng xã hội là do những nguyên nhân chủ yếu sau đây:
Thứ nhất quá trìh chuyển đổi nền kinh tế đã gây ra những khó khăn và mât cân đối lớn trong nền kinh tế, tính phức tạp của quá trình chuyển đổi và sự bất cập trong việc xây dựng, hoàn thiện thể chế Nhà nước, nhưng về mặt chủ quan chủ yếu là do:
- Bộ Chính trị, Ban bí thư chưa kịp thời ban hành những nghị quyết, chỉ thị hướng dẫn để đổi mới và phát triển định hướng hoạt động thương nghiệp tròn cơ chế mới.
- Nhận thức về cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo đinh hướng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn đầu chuyển đổi còn nhiều lúng túng, còn những lệch lạc, kiến thức và năng lực quản lý điều hành còn yếu. Từ đó có sơ hở, không đồng bộ và thiếu nhất quán trong việc hoạch định chính sách vĩ mô trong quản lý và phát triển thương nghiệp.
- Xử lý chưa đúng mối quan hệ giữa kế hoạch và thị trường, giữa chức năng quản lý Nhà nước và quyền tự chủ kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy, vừa chưa phát huy đầy đủ vai trò của Nhà nước đối với lĩnh vực phân phối lưu thông, vừa chưa phát huy tốt tính năng động sáng tạo của doanh nghiệp.
- Chưa chăm lo đúng công tác xây dựng Đảng trong các doanh nghiệp thương nghiệp Nhà nước; chậm đổi mới, chưa xây dựng được cơ chế và giải pháp đúng để phát huy vai trò của thương nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần.
- Bộ máy quản lý Nhà nước về thương nghiệp từ trung ương đến tình, huyện chưa tương xứng với sự phát triển của thị trường và lưu thông hàng hoá. Cơ chế quản lý còn mang nặng tính tập trung, quan liệu cửa quyền. Đội ngũ cán bộ chưa được sắp xếp lại, đào tạo, rèn luyện kịp với tình hình và nhiệm vụ mới, một bộ phận thoái hoá biến chất không được xử lý kịp thời và kiên quyết. Cụ thể trong hoạt động xuất nhập khẩu. Sở dĩ do hàng hoá của nước ta khả năng cạnh tranh kém trên thị trường khu vực và thế giới, đặc biệt ngay ở trong sân chơi nhà là do các nguyên nhân:
Thứ nhất, công nghệ sản xuất chế biến hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu được hình thành trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp, lạc hậu mấy thế hệ, không thích hợp với nền kinh tế thị trường. Mấy năm gần đây các xí nghiệp đã tích cực đổi mới công nghệ hiện đại nhưng thông thường là sử dụng chắp vá, không đồng bộ, vốn đầu tư còn hạn hẹp, tổ chức sản xuất và bộ máy quản lý cồng kềnh, bất cập với công nghệ.
Thứ hai là tuy có sự chuyển biến theo hướng xuất khẩu hàng chế biến nhưng nhìn tổng thể thì hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam phần lớn còn ở dạng nguyên liệu và ở dạng thô.
Thứ ba là các doanh nghiệp Việt Nam vừa mới bắt đầu tham gia hoạt động kinh doanh trên thị trường trong điều kiện phải chấp nhận cạnh tranh. Cơ quan quản lý Nhà nước chưa quan tâm đầy đủ và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc sản xuất xuất khẩu. Trình độ tổ chức quản lý điều hành hoạt động xuất nhập khẩu, trình độ tiếp thị còn yếu của các doanh nghiệp.
Trên đây là những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những tồn tại trong lĩnh vực thương mại. Để cho thương mại nước ta trong thời gian tới phát huy được vai trò lãnh đạo của nó, đặc biệt là trong giai đoạn quốc tế hoá như hiện nay, thì Đảng và Nhà nước ta trên cơ sở thực tiễn đã phân tích những mặt tốt và những mặt yếu kém của nó đã đưa ra các giải pháp nhằm ngày càng hoàn thiện các chính sách thương mại.
Phần II
Những giải pháp nhằm phát triển thương mại nước ta trong thời gian tới
I-/ Mục tiêu phát triển kinh tế của nước ta trong thời gian tới.
Phát triển kinh tế là một trong những chiến lược lâu dài và quan trọng nhất đối với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới. Nó bao trùm lên toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy xác định mục tiêu phát triển kinh tế là một vấn đề có tính chất chiến lược, sống còn đối với đất nước ta. Trên cơ sở nhận thức vấn đề này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Ban chấp hành Trung Ương Đảng đã đưa ra mục tiêu phát triển kinh tế của nước ta trong giai đoạn hiện nay và cả trong những năm tới như sau:
Thứ nhất là thực hiện đồng thời 3 mục tiêu về kinh tế: tăng trưởng cao, bền vững và có hiệu quả; ổn định vững chắc kinh tế vĩ mô; chuẩn bị các tiền đề cho bước phát triển cao hơn sau năm 2000 chủ yếu là phát triển nguồn nhân lực, khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, hoàn thiện thể chế.
Thứ hai là tiếp tục thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy mọi nguồn lực để phát triển lực lượng sản xuất đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Đổi mới căn bản tổ chức và
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 74738.DOC