Hishaku: gáo. Một chiếc gáo bằng trúc có một mấu nhỏ ở gần giữa cán tay cầm dài để chuyên nước tinh khiết từ bình đựng nước vào ấm kim loại và chuyên nước từ ấm kim loại ra các bát trong những hội trà khác nhau. Những kiểu gáo khác nhau được dùng trong những buổi trà đạo khác nhau và những mùa khác nhau. Loại gáo lớn hơn được các vị khách dùng trong nghi thức tẩy uế trước khi bước vào phòng trà. Các quy tắc sử dụng hishaku đã tạo ra những nét hấp dẫn rất đặc trưng cho kiểu pha trà này, từ cách cầm dụng cụ, cách di chuyển đến tiếng nước róc rách chẩy từ shaku xuống bát trà.
35 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2753 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thưởng thức trà đạo ở Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
từng ngọn, vừa hái vừa suy nghĩ tới việc phối hợp như thế nào, để không hái quá số hoa tối cần. Hoa thường không được cắm cầu kỳ, màu sắc rực rỡ mà chỉ là những cành hoa nhánh cỏ được lấy ngay trong vườn, cắm vào những lọ hoa bằng gỗ hoặc bằng tre treo lơ lửng trên tường. Thoạt nhìn vào tưởng rất đơn sơ nhưng càng ngắm kỹ mới cảm nhận hết những nét tinh tế về thẩm mỹ của chủ nhà.
Có rất nhiều trường phái cắm hoa, nhưng không một lối cắm hoa nào không bao hàm ba nguyên lý, Nguyên Lý Chỉ Đạo là “Thiên”, Nguyên Lý Tòng Thuộc là “Địa”, Nguyên Lý Điều Hòa là “nhân”. Cắm hoa không theo ba nguyên lý này đều bị coi là vô vị, không có sinh khí.
Chabana
- Kakejiku có thể hiểu chỉ là một tấm vải trống trơn, nó có thể cuộn vào cất đi, hoặc mở ra để treo trên vách tường tokonoma. Lúc thì gắn vào Kakejiku một bức tranh nhỏ, lúc khác một bức thư pháp hoặc là sự kết hợp cả tranh và chữ (thư họa). Những nội dung khi xuất hiện trên Kakejiku thường mang ý nghĩa sâu xa.
Kakejiku
Khi bước vào một Trà thất, người ta thường quỳ và ngắm Tokonoma một lát, cũng để thưởng thức các vật được trưng bày. Theo tinh thần Thiền-Zen chỉ khi chúng ta chú tâm đến những chi tiết nhỏ bé trong cuộc sống thì mới thấy vẻ đẹp trong những điều giản dị.
Trong Tokonoma, các đạo cụ được xếp rất gọn gàng, hòa hợp theo phong thủy và không bao giờ được đặt ở chính giữa, lọ hoa, lư trầm hay bất kì thứ gì, vì sợ rằng nó sẽ chia Tokonoma thành hai khoảng đều nhau.
Một gia đình truyền thống Nhật có nhiều cuộn giấy và các vật dụng khác mà họ trưng bày ở tokonoma tùy từng mùa hoặc ngày lễ gần nhất.
Trong Trà thất, các đồ vật được lựa chọn một cách cẩn thận để không có một màu sắc hay một kiểu nào trùng nhau, giống nhau. Nếu đã bày một bông hoa tươi thì không thể bày thêm một bức họa hoa. Nếu đã dùng ấm đun nước hình tròn, thì bình đựng nước phải là hình có góc. Một chén men đen không được đi đôi với một hộp trà sơn đen.
Phòng trà không có ghế ngồi mà chỉ có chiếc bàn thấp, có chiều cao độ khoảng 30 cm. Người uống trà phải xếp bằng trên “Tọa cụ”, đây là loại nệm ngồi mà những người tọa thiền thường sử dụng. Trên bàn trà được đặt một lư đốt trầm bằng gốm đỏ, một cái đèn giấy kiểu Nhật chỉ đủ tỏa ánh sáng vừa đủ cho bàn trà. “Trà cụ” được bày ra trên bàn gồm có: Ấm, chén, bình đựng trà, bình chuyên, bình hãm trà, bếp lò than, nồi châm trà, gáo pha trà, đồ gạt trà…
2. Dụng cụ dùng để pha trà:
Trà cụ, Dogu, một tiệc trà cơ bản nhất cũng cần đến rất nhiều loại dụng cụ khác nhau. Liệt kê danh sách đầy đủ về các dụng cụ uống trà có thể viết thành một cuốn sách dày hàng vài trăm trang. Dưới đây là một số Dogu cần thiết:
- Mizusasi: bình đựng nước. Mizusasi chứa nước sạch được bày biện trong dougu-tatami, khi pha trà, nước trong Mizusasi được cho vào ấm đun nước để giữ nước nóng ở nhiệt độ nhất định.
Mizusasi
- Kama: nồi đun nước. Quai xách rời sẽ tháo ra khi vào buổi trà đạo. Nước từ ấm sẽ được lấy ra bằng Hishaku để rót vào bát.
Kama
- Lò đun: chỉ được đem ra sau khi chủ nhà chào khách. Gồm hai loại: furo đem theo được, và ro được gắn cố định vào nền nhà để giữ ấm vào mùa đông.
Furo Ro
- Tetsubin: ấm đun nước. Thường bằng gang, bên trong lòng Tetsubin có tráng một lớp men như loại 'nonstick' để nước đun không bị ngái mùi kim loại. Kích thước của Tetsubin khá đa dạng. Tùy theo số người uống mà dung tích Tetsubin lớn nhỏ khác nhau.
Tetsubin
- Bình pha trà: thường bằng đất nung màu đen hay nâu có cán cầm (khác với loại có quai, tuy nhiên đây cũng không phải là điều bắt buộc) . Bình pha trà cũng có khi bằng kim khí rất nặng màu đen, có quai sách. Thường bình pha trà có dung tích khoảng 200 ml. Bình này được dùng trong pha trà lá.
- Natsume và Chaire: hộp đựng trà. Làm từ gỗ sơn mài, cũng mang những nét đặc trưng riêng của từng trà nhân giống như bát vậy.
Nasume là một phong cách hộp trà được đặt tên theo một loại quả, quả táo ta. Thân hộp ngắn, nắp bằng, đáy hình tròn, thường được làm bằng chất liệu sơn mài hay gỗ thô.
Nasume Chaire
Chaire thì thân thường cao và mỏng (nhưng hình dáng thì rất đa dạng) và có nắp bằng ngà voi, mặt dưới nắp bằng vàng lá. Thân hộp Cha-ire thường bằng chất liệu sứ, và thường được bảo quản bằng những chiếc túi vải lụa.
Trà trước khi cho vào Natsume và Chaire phải được lọc cẩn thận để không vón cục ảnh hưởng đến hương vị. Trà trong natsume và Chaire được trình bày theo hình núi Phú Sỹ, vốn là biểu tượng của Nhật bản.
- Kensui: Chậu đựng nước rửa khi pha trà, có thể làm bằng các chất liệu như tre, gốm… Trong phòng trà luôn nằm ở vị trí sau để đảm bảo sạch sẽ.
Kensui
- Chasen: cây đánh trà. Dùng để đánh tan trà với nước sôi. Được làm bằng tre một cách công phu và cũng là một dụng cụ đặc trưng cho cách pha trà bát, hay trà bột. Chasen mới và các tua tre phải đều, thì bát trà pha ra mới ngon, đều và đẹp mắt. Có hai loại Chasen mỏng và dày, được dùng trong tiệc trà loãng hay trà đặc. Những Chasen cũ hay bị hỏng không đơn thuần sẽ bị bỏ đi. Mỗi năm một lần vào khoảng tháng Năm, người ta lại tổ chức lễ rước những Chasen này lên đền rồi thực hiện nghi lễ hoả táng được gọi là chasen koyō, để thể hiện sự tôn kính đối với những vật được sử dụng trong trà đạo.
- Chasaku: thìa trà. Chiếc muỗng tre dài, một đầu uốn cong để múc trà, dùng để múc trà từ hộp ra bát. Những thìa lớn hơn được dùng để múc trà cho vào hộp trà ở Thuỷ toà- mizuya hay còn gọi là khu chuẩn bị. Giữa cán chasaku là khấc tre, và người cầm chasaku không được cầm quá khấc này, để đảm bảo tính vệ sinh của trà. Cũng là một nét đặc trưng trong tính lễ nghi của Trà đạo. Những màu và phong cách Chasaku khác nhau đực sử dụng trong các dòng phái trà đạo khác nhau (Omotesenke và Urasenke).
- Futaoki: Đi kèm shaku là futaoki, là dụng cụ kê nắp kama khi mở.
Futaoki
- Hishaku: gáo. Một chiếc gáo bằng trúc có một mấu nhỏ ở gần giữa cán tay cầm dài để chuyên nước tinh khiết từ bình đựng nước vào ấm kim loại và chuyên nước từ ấm kim loại ra các bát trong những hội trà khác nhau. Những kiểu gáo khác nhau được dùng trong những buổi trà đạo khác nhau và những mùa khác nhau. Loại gáo lớn hơn được các vị khách dùng trong nghi thức tẩy uế trước khi bước vào phòng trà. Các quy tắc sử dụng hishaku đã tạo ra những nét hấp dẫn rất đặc trưng cho kiểu pha trà này, từ cách cầm dụng cụ, cách di chuyển đến tiếng nước róc rách chẩy từ shaku xuống bát trà.
Hishaku
- Tana: những chiếc giá. Tana rất đa dạng về kích cỡ, kiểu dáng, đặc trưng và chất liệu, mỗi loại Tana đều có một tên riêng. Chúng được đặt trước mặt gia chủ trong phòng trà, một loạt các trà cụ khác nhau được bày bên trên hoặc sắp xếp trong những chiếc giá đó. Chúng cũng được sử dụng theo nhiều cách khác nhau trong những tiệc trà khác nhau.
Daisu Kikou
Daisu được dùng trong những dịp đặc biệt như là lễ trà đầu năm mới.
Kikkou (mai rùa) có ba ngăn kệ. Hình dạng của ngăn thứ 2 là hình vỏ trai vào mùa xuân và sẽ được thay bằng hình trăng lưỡi liềm vào mùa thu.
- Chakin: khăn lau. Là một mảnh vải lanh, hoặc vải gai hình tam giác, được dùng trong nghi thức lau bát trà. Những kiểu khác nhau được sử dụng cho tuần trà khác nhau (trà loãng, trà đặc). Chakin luôn phải sạch và ẩm, nhưng không được ướt, và phải là màu trắng.
- Fukusa: Fukusa mà một mảnh lụa hình vuông dùng trong nghi thức lau muỗng trà và Natsume hay Cha-ire, và cũng dùng để lót tay khi cầm ấm hay nắp ấm cho khỏi nóng. Fukusa đôi khi được những người khách dùng để bảo vệ trà cụ khi họ nếm trà (Fukusa là một loại đặc biệt còn được gọi là kobukusa hay “fukusa nhỏ”. Chúng được thêu dày hơn với nhiều mẫu hình, và thông thường màu sắc thì tưới sáng hơn loại fukusa thông thường).
Fukusa
- Chawan: bát trà. Có thể nói là thứ đặc trưng và giành được sự yêu quý và quan trọng nhất của Trà đạo. Chawan được làm bằng men, công phu, tỉ mỉ và mỗi Chawan có những họa tiết độc đáo riêng. Vì thế mà trong khi làm một buổi tiệc trà, không có hai Chawan giống nhau. Các nghê nhân làm Chawan cũng đưa chủ đề thiên nhiên, thời tiết vào trong tác phầm của mình, vậy nên có thể dùng Chawan phù hợp cho 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông.
Mùa xuân: chawan có những hoa văn mùa xuân như hoa anh đào.
Mùa hạ: là mùa nóng nên chawan có độ cao thấp hơn, miệng rộng hơn chawan mùa xuân để dễ thoát hơi nóng.
Mùa thu: chawan có hình dạng giống chawan mùa xuân, có hoa văn đặc trưng cho mùa thu như lá phong, lá momizi.
Mùa đông: là mùa lạnh nên chawan có độ dày và cao hơn các chawan mùa khác để giữ nóng lâu hơn. Màu sắc của men cũng mang gam màu lạnh.
Chawan mùa xuân Chawan mùa hạ
Chawan mùa thu Chawan mùa đông
Chawan được các trà nhân yêu quý như chính bản thân họ vậy. Bởi vậy, việc một Chawan có giá trị bằng một căn nhà đối với người hiểu về bát, cũng không có gì là lạ. Được ưa thích không phải là những Chawan tròn vẹn bóng bẩy kiểu Trung quốc, mà là những chiếc thô sơ giản dị, và hơn nữa, là được làm bằng tay. Chawan thậm chí lại không tròn, phù hợp với lý tưởng của trà đạo là “ tìm kiếm sự toàn vẹn trong cái bất toàn”
Những Chawan bị vỡ thường được gắn lại rất tỉ mỉ bằng một hợp chất sơn mài và các thành phần khoáng chất tự nhiên khác. Vàng cám đựơc dùng để che khoảng màu tối của sơn mài, và đôi khi một số đồ án phụ cũng được tạo ra bằng những hợp chất. Những chiếc bát được hàn gắn như thế thường được đem sử dụng chủ yếu vào tháng 11, khi những người tổ chức trà đạo bắt đầu sử dụng ro, hay lò sưởi, một cách thể hiện và ca tụng Wabi hay sự giản dị, mộc mạc.
- Để thưởng thức trà lá thì có thêm loại tách nhỏ. Thường cỡ khoảng 70ml đến 100 ml. Hình tròn, hay hình ống , đôi khi có hình dạng méo mó . Thường màu đậm hay nhiều màu in hình hoa trái hay viết những chữ Nhật bản dạng chữ thảo. Tuy nhiên màu sắc không diêm dúa với màu đỏ gay gắt như trên các đồ sứ của Trung Hoa. Ly tách uống trà của Nhật bản có màu thanh thoát, êm dịu. Tách uống trà có thể có nắp hoặc không, nhưng phải có một đĩa nhỏ đễ đỡ tách uống trà.
* Tất cả mọi Dogu được bảo quản rất cẩn thận. Sau mỗi lần sử dụng, chúng đựơc cọ rửa sạch sẽ trước khi cất đi. Một vài trong số các Dogu chỉ được cầm vào khi tay đã đeo găng.
3. Quy trình của một buổi uống trà
- Chủ nhà sẽ chọn ngày để tổ chức uống trà, gửi thư mời và người được mời sẽ viết thư trả lời có nhận lời mời hay không. Một buổi uống trà thường là một nhóm nhỏ, và không vượt quá 4 người. Cho nên những người được mời thường là những người rất thân thiết với chủ nhà.
- Thời gian tổ chức được chia ra làm 4 loại: trà sáng (7h sáng), sau ăn cơm (8h sáng), giữa trưa (12h trưa) và câu chuyện buổi tối (6h tối).
- Lúc đến nơi, những người khách chào lẫn nhau. Họ được phục vụ nước nóng trong khi chờ đợi trên một chiếc ghế băng ngoài vườn. Và gia chủ sẽ bước ra chào các vị khách mới đến.
- Khi đến, khách sẽ được tiếp nước nóng ở ngoài vườn, sau đó tẩy trần ở Roji.
- Khách tự thỏa thuận vấn đề phân chia ngôi thứ, rồi từng người lặng lẽ tiến vào chỗ ngồi của mình. Sau khi khách đã yên vị, trong phòng hoàn toàn im lặng, không một tiếng động nào khác ngoài tiếng nước sôi reo trong ấm sắt.
Toàn bộ nghi thức Chanoyu cổ truyền cần từ 3-4 tiếng, gồm 4 giai đoạn:
Hoài thạch: Sau khi những người khách đã an vị, chủ nhà sẽ mời khách dùng điểm tâm, thường là bánh. Trong các buổi tiệc trà lớn khách được phục vụ một bữa ăn nhẹ như soup hoặc một ít cơm và cá kho. Bữa ăn này thường kéo dài hơn một tiềng đồng hồ mặc dầu đây chỉ là phần khởi đầu của buổi tiệc trà. Trong các buổi tiệc trà nhỏ, khách thường chỉ đến để ngắm cảnh khu vườn, nói chuyện và thưởng thức một bát trà xanh trong khoảng thời gian một tiếng đồng hồ. Chủ nhà mời khách lui về vườn hoặc Machiai ngồi nghỉ trong khi chuẩn bị lễ trà.
Trung lập: Nếu trà được dọn ra vào ban ngày, sẽ có một tiếng cồng; còn ban đêm sẽ có một tiếng chuông. Thường thì người ta sẽ đánh cồng hoặc rung chuông từ 5 tới 7 lần, để triệu tập các vị khách trở lại khu nhà trà. Trước khi vào phòng uống trà khách lại rửa tay và súc miệng như lần trước. Lần này căn phòng đã thay đổi, với hoa trên tường và các cửa sổ trên mái nhà được mở. Đây là lúc uống trà thực sự. Trà được pha rất đậm và khách uống chung bằng một chiếc tách.
Ngự tòa nhập: Khách sẽ được dâng trà đặc.
Dùng trà loãng: Trà này để tráng miệng và một cách biểu trưng, để chuẩn bị cho những vị khách rời khỏi thế giới tâm linh của lễ trà và bước lại vào thế giới vật chất. Đôi khi người ta sẽ đề cập chủ đề hút thuốc ở đây nhưng hiếm khi có ai hút thuốc trong phòng.
Ngày nay có rất nhiều cuộc thưởng trà, và người ta đã đơn giản hóa nó đến mức chỉ còn bước cuối cùng.
4. Cách thức pha trà
Trà là một tác phẩm nghệ thuật và cần phải có tay của một bậc thầy giỏi, gọi là trà tượng hoặc trà nhân, mới có thể phát huy được hết tất cả tính chất cao quý của nó. Có trà ngon và trà xấu, không có một phương pháp riêng nào để chế tạo được thứ trà tuyệt hảo
4.1. Chuẩn bị
Pha trà là một nghệ thuật đòi hỏi tính kiên nhẫn và sự nhận biết tinh tế về kĩ thuật pha và loại trà. Vì thế trong Chanoyu yêu cầu phải có những đạo cụ dùng trong việc pha chế và thưởng trà riêng biệt. Cụ thể là:
- Trà: tùy theo hệ phái nào mà trà được sử dụng có sự khác biệt.
- Matcha: trà bột. Người ta hái những lá trà non đem đi rữa sạch, phơi ráo nước và xay nhuyễn thành bột. Vì thế trà có màu xanh tươi và độ ẩm nhất định chứ không khô như các loại trà lá. Khi uống, bột trà được đánh tan với nưới sôi.
Trà nguyên lá: chỉ lấy nước tinh chất từ lá trà. Lá trà được phơi khô, pha chế trong bình trà, lấy tinh chất, bỏ xác. Thường sử dụng loại trà cho nước màu vàng tươi hay màu xanh nhẹ.
Việc hái trà được thực hiện vào đầu tháng 5, loại trà hái vào thời điểm này được gọi là Ichibancha ( nghĩa là “Trà nhất”), loại trà hái vào cuối tháng 6, gọi là Nibancha (nghĩa là “Trà nhì”), loại trà hái cuối mùa vào cuối tháng 7, gọi là Sanbancha (nghĩa là "Trà ba”). Theo chuyên môn thì càng vào đầu mùa, thành phần trà có nhiều axit amin nên có vị thanh. Khi trà về cuối vụ nó có nhiều tanin nên sẽ bị vị chát.
- Phụ liệu : Ngoài nguyên liệu chính là trà bột hay trà lá, người pha chế còn cho thêm một số thảo dược, các loại củ quả phơi khô, đậu để làm tăng thêm hương vị cho chén trà, hay quan trọng hơn là mang tính trị liệu, rất có lợi cho sức khỏe, giúp người bệnh mau hồi phục thể chất lẫn tinh thần.
- Nước pha trà: thường là nước suối, nước giếng, nước mưa, hay nước đã qua khâu tinh lọc. Để tăng thêm hương vị cho trà, nước suối phải là nước lấy ở nơi cách xa thác; nước giếng phải là nước lấy ở giếng tinh khiết; nước mưa phải được cất trong nhiều năm.
Theo quan điểm của người Nhật thì nước thạch tuyền, nước lấy từ các khe suối chảy ra vào lúc sáng sớm, là loại nước tốt nhất dùng để pha trà, vì đây là loại nước tinh khiết nhất.
Nước để pha trà phải đạt tiêu chuẩn không vẩn đục, không màu, không mùi và không vị. Nước ở độ pH5 là tốt nhất.
- Làm ấm dụng cụ: Ấm pha trà và tách uống trà được tráng bằng nước sôi trong bình thủy để làm ấm dụng cụ , sau đó dùng khăn lau khô trước khi sử dụng.
- Cho trà vào ấm pha trà: Thường với loại trà ngon cỡ trung bình người ta thuờng tính cho mỗi một người khách khoảng một muỗng cà phê trà xanh. Tuy nhiên nếu dưới 3 người khách, nên cho hơn một tí để tránh quá nhạt. Dĩ nhiên với những người ghiền trà, thích uống đậm lại là vấn đề khác.
- Bánh ngọt: Khi uống trà xanh Nhật bản (cũng như uống trà bột trong lễ dâng trà) người Nhật phải ăn một vài loại bánh ngọt để làm gia tăng hương vị của trà, thường làm bằng đậu hay bột khoai, bột gạo ... Chúng ta có thể thay thế bằng các bánh ngọt khác của Âu Mỹ như bánh ngọt, chocolate... nhưng vẫn không phải là hoàn hảo lắm. Ở Việt Nam có loại bánh đậu xanh được coi là rất thích hợp cho việc uống trà xanh.
4.2. Pha trà:
Nghệ thuật của sự tinh tế và kiên nhẫn. Với một bộ dụng cụ pha trà rất đặc biệt, tinh xảo, chủ nhà biễu diễn các bước pha trà với những cử chỉ tỉ mỉ, khéo léo và nhanh nhẹn.
Pha trà bột
Trước hết, trà nhân dùng tấm vải, fukusa (tấm vải tơ tốt), lau bình trà, điều này tượng trưng cho tinh thần của trà nhân. Một cách chậm rãi ông gấp gọn và đặt tấm vải fukusa xuống. Việc gấp tấm vải thể hiện sự chu đáo của chủ nhà nên cần được làm với một sự tập trung cao độ. Người ta thấy ý nghĩ sâu sắc của người chủ trong việc xem xét kỹ lưỡng, gấp và sử dụng fukusa, trong mức độ tập trung và trạng thái mặc tưởng được nâng cao.
Trà nhân dùng Chasaku châm nước nóng vào chawan, rửa sạch chasen, đổ nước đi, và lau sạch với chakin. Maccha được cho vào Chawan với một lượng chuẩn nhất định. Sau đó, múc nước đã chuẩn bị sẵn trong Kensui vào, dùng Chasen đánh nhẹ rồi mạnh dần lên để trà có nước đặc như bột đậu và hơi sủi bọt.
Tuyệt đối không bao giờ lấy nước đang sôi để pha trà , có nghĩa là không thể nào dùng nước đang sôi trong bình ruôn vào bình pha trà. Lý do trông không đẹp mắt và nhất là tất cả các loại trà Nhật bản (trà xanh, trà bột dùng trong lễ dâng trà (Sadoo) không bao giờ dùng nước đang sôi. Nước pha trà phải được đựng trong một bình thủy (uống trà thông thường) hay nước được nấu trong một cái ấm kim khí không nắp trên bồn than rất yếu để giữ nước ở khoảng 80-90 độ celcius. Không nên là nước sôi hai lần, sôi non lại càng không tốt.
Có hai cách pha trà là pha trà đặc, koicha và pha trà loãng, usacha. Koicha và usacha được pha cùng một cách, ngoại trừ rằng trà nhạt dùng ít bột trà hơn và dùng chất lượng trà ít hơn.
Pha trà lá
Trước hết, phải đun nước bằng bếp lò than, bằng kinh nghiệm những Trà nhân sau khi nhận biết nước trong nồi đun vừa đủ độ nóng thích hợp để pha trà (khoảng 600C), bằng động tác thuần thục họ mới bắt đầu tráng ấm chén, rồi bỏ trà vào ấm.
Với loại trà xanh cỡ trung bình, người ta thường pha trà 3 lần khác nhau như sau :
- Lần thứ nhất: được pha với nước nóng ở khoảng 600C, để trà ngấm khoảng 2 phút đồng hồ trước khi rót cho khách. Nước sôi từ bình thủy được rót ra một cài bình trà khác (hay chén tống) để giảm nhiệt độ trước khi cho vào bình pha trà.
- Lần thứ hai: pha với nước nóng khoảng 800C trong khoảng 30-40 giây, có nghĩa là cho nước vào ấm pha trà , hơi lắc nhẹ và rót ra tách cho khách ngay. Nước cũng được rót qua bình trung gian nhưng mau lẹ hơn để có nhiệt độ mong muốn. (Tuy nhiên, những người pha trà quen thuộc, khéo tay họ có thể điều chỉnh nhiệt độ từ bình thủy rót vào bình pha trà bằng các thủ thuật như rót nuớc thật chậm, để cao vòi nước trên bình pha trà...).
- Lần thứ ba: Nước pha ở nhiệt độ khoảng 900C, cũng khoảng 30- 40 giây. Nước có thể ruôn trược tiếp từ bình thủy vào ấm trà, vì nước sôi khi qua các giai đoạn rót vào bình thủy, rồi từ bình thủy rót vào ấm pha trà đã có nhiệt độ khoảng 900C.
Người pha trà phải biết ước lượng cho bao nhiêu nước pha vào bình trà, không thể pha trà xanh Nhật bản bằng cách cứ cho nước vào đầy bình rồi rót cho khách theo lối pha trà của Tàu hay Việt Nam được . Mà phải biết dung tích của tách uống trà và số tách để cho đúng lượng nước để mỗi lần rót trà cho khách phải hết trọn vẹn nước trong bình pha trà. Nếu còn sót lại sẽ làm giảm phẩm chất của lần uống trà kế tiếp vì sai nhiệt độ, vì oxy hoá sẽ làm mất màu xanh đẹp của trà..v..v.
Với những loại trà ngon đặc biệt, người ta có thể pha trà lần thứ 4 hay lần thứ 5 (cách thức pha như lần thứ 3) mà nước trà vẫn xanh và còn mùi vị. Nhưng những loại trà xanh hạ phẩm, rẻ tiền việc pha trà hơi khác hơn một chút. Chẳng hạn lần thứ nhất phải ở nhiệt độ cao hơn (70- 80 độ, 2 phút), lần thứ hai cũng phải ở nhiệt độ cao hơn và thời gian dài hơn (90 độ, khoảng 1- 2 phút) và không có lần thứ 3 vì hết mùi vị rồi.
Với những loại trà xanh hảo hạng hay trên trung bình, người Nhật cho rằng nước pha trà lần đầu tiên được coi là đậm đà nhất, làm mùi ngon của trà thấm vào vị giác nhiều nhất. Nước thứ hai, có một khoái cảm khác nhờ nhiệt độ nóng của lần pha này, nước trà mất đi khá nhiều vị đặc biệt của trà nhưng lại có mùi rất thơm bốc lên, kích xúc vào khứu giác. Cả hai lần pha trà này được coi là quan trọng nhất và độc đáo nhất của trà xanh Nhật bản.
Ngày xưa, các trà nhân pha trà theo cách riêng của mình. Nhưng sau thế hệ thứ nhất, người ta đã bắt đầu tạo ra cách pha trà chung. Nếu các phái khác nhau cũng chỉ khác nhau ở trên bề mặt nghi thức pha trà, còn đạo là duy nhất.
5. Rót trà
- Quan niệm về âm dương cân bằng luôn thể hiện trong trà đạo. Vì vậy, khi cầm ấm để rót trà, một tay giữ ấm, một tay giữ nắm ấm, hoặc đỡ đáy ấm bằng Fukusa.
- Không bao giờ rót trà cho khách một lần đầy tách rồi rót tiếp cho người khách kế tiếp. Làm như vậy sẽ có sự khác biệt về độ đậm nhạt của nước trà trong mỗi tách, cũng như không đều về lượng trong mỗi tách (tách đầu tiên quá nhiều, tách cuối cùng thì rất ít, quá đậm vì thời gian trà ngấm ra nhiều hơn hay không còn nước cho người kế tiếp).
Vì vậy tất cả các tách của khách đều được để trong khay trà rồi rót theo thứ tự 1, 2, 3, 4... rót lần đầu khoảng 30ml (cho mỗi tách, cỡ lớn 70 ml), sau đó rót lần thứ hai với thứ tự ngược lại 4, 3, 2 ,1 mỗi lần khoảng 20ml (cho mỗi tách có tổng cộng 50ml nước trà) nếu còn dư chút ít trong bình, nên co dãn để phân đều cho các tách. Sau đó mới đưa mời khách. Chính vì lý do này, người pha trà phải canh làm sao cho đủ (không thiếu, không thừa) cho tất cả khách, mỗi người khoảng 50ml (với loại tách uống trà cỡ 70-80 ml).
- Khi rót không nên nâng ấm trà quá cao hay quá thấp, rót vòng tròn theo vành chén, điều này sẽ giúp trà hòa quyện với nhau hơn, đồng thời những cặn trà nhỏ còn lại sẽ lắng xuống đáy chén.
6. Thưởng trà
Đối với trà bột
Sau khi trà nhân đã pha trà xong, các trà nô mang trà đến mời từng vị khách. Vị trà nô cung kính cúi đầu dâng trà, lưu ý rằng hoa văn của chén trà luôn được hướng về phía vị khách. Khách để hai tay xuống sàn nhà, cúi đầu chào đáp lễ, rồi cung kính nâng bát trà lên ngang đầu, xoay bát ba lần theo hướng kim đồng hồ, sau đó từ từ uống. Khi uống xong, khách xoay bát theo hướng ngược lại về chỗ cũ, rồi lại nhẹ nhàng đặt bát xuống.
Gia chủ đặt chén trà cùng với một mảnh khăn trên sàn nhà. Vị khách đầu tiên đến lấy chén trà, đặt chén trà tên bàn tay trái và mảnh khăn trên tay phải. Rồi tất cả khách cúi mình. Sau đó vị khách trải mảnh khăn ra và đặt chén trà lên, đưa chén trà hai lần về phía mình. Đến giai đoạn này vị khách mới bắt đầu nhấp trà. Sau khi uống xong, vị khách đầu tiên này này sẽ dùng mảnh khăn lau miệng chén trà và chuyển đến cho người kế tiếp cùng với mảnh khăn.
Đối với trà lá
- Sau khi rót xong, nâng khay trà lên bằng cả hai tay để mời khách.
- Xoay khay trà hướng tách trà về phía khách mời, sao cho khách có thể nhận trà một cách thuận tiện nhất.
Nếu bát có khắc hoa văn thì hoa văn luôn được hướng về phía khách chính để tỏ lòng hiếu khách.
- Mắt luôn nhìn thẳng vị khách mình đang mời trà, điều này thể hiện tấm lòng của chủ nhà đối với khách là chân thật, đồng thời, người được mời cũng nhận trà bằng cả hai tay, mắt nhìn thẳng người mời trà, hơi cúi đầu cảm ơn, đáp trả cũng bằng tấm lòng.
- Khi đã nhận trà, không được uống ngay mà phải đợi các vị khách mời khác đều nhận được phần trà của mình, rồi mới cùng chủ trì thưởng trà.
- Trước khi uống trà, người ta ăn vài miếng bánh, phải ăn hết bánh trong miệng rồi mới uống trà, không nên vừa ăn vừa uống. Sau đó thỉnh thoảng ăn thêm bánh và uống trà tiếp theo. Với cách này sẽ làm gia tăng hương vị của trà xanh một cách lạ kỳ.
- Uống trà xanh Nhật bản hoàn toàn khác với lối uống nhâm nhi từng tí một trong lối uống trà Tàu hay của những vị nhà Nho VN. Người Nhật uống thành ngụm đàng hoàng để có đủ lượng nước trà thấm vào tất cả các màng niêm của miệng.
Khi uống trà đỏ (Kocha) người Nhật ít khi uống riêng nó mà thường pha thêm các chất như đường, sữa, chanh, rượu brandy...tạo thành 1 loại trà hỗn hợp có đặc vị riêng. Ngược lại, đối với trà xanh (Ocha), người Nhật chỉ uống riêng mà không dùng với bất kỳ thức uống nào kèm theo. Đó là để giữ cho hương vị thơm ngon của trà được thuần khiết, cũng như bảo đảm màu xanh hấp dẫn của trà.
7. Những điều cần lưu ý
- Ăn một vài miếng bánh ngọt trước khi uống trà.
- Khi chúng ta uống hết trà trong tách, không khi nào tự ý lấy bình trà rót vào tách của mình hay lấy bình thủy tự ý pha trà cho mình... Làm như vậy chúng ta đã vô tình làm sai lệch cách pha trà của chủ nhân ( vì họ biết rõ loại trà mà họ đãi chúng ta phải pha như thế nào, đặc biệt theo sự chỉ dẫn của nhà sản xuất ). Người Nhật, nhất là người phụ nữ (vợ bạn hay các bà mẹ) rất kín đáo và chú ý, thường thường họ nhìn thấy tách uống trà của chúng ta hết và họ tiếp cho chúng ta ngay. Trong trường hợp họ quên, chúng ta chỉ cần khen trà ngon là họ sẽ hiểu ngay và tiếp cho chúng ta tức thì.
- Khi chúng ta pha trà xanh, tuyệt đối không bao giờ lấy nước đang sôi từ chiếc nồi ruôn vào bình trà. Ðây là một sai lầm rất nặng về nguyên tắc và cả về mỹ thuật nữa. Với người pha trà chuyên môn, nguời ta để ấm nước không đậy nắp trên bồn than rất nhỏ, nước nóng ở khoảng 900C, rồi họ dùng một chiếc muỗng bằng tre nhỏ để múc nước pha trà. Tùy thuộc vào lượng nước họ múc ở trong nồi và thời gian họ rót nước nóng vào bình trà để điều chỉnh nhiệt độ của nước pha trà (đây là một trong nhiều xảo thuật trong trà đạo).
8. Qui tắc trong nghệ thuật Trà đạo
Bốn đức tính cao q
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Trà Đạo Nhật Bản- Nghệ thuật trà đạo Chanoyu.doc