Đề tài Tỉ lệ lạm phát, tỉ lệ thất nghiệp và tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam có mối quan hệ cùng chiều

Lời mở đầu:

I. Lý thuyết về lạm phát, thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế.

1.1. Lạm phát:

1.1.1. Khái niệm lạm phát – tỉ lệ lạm phát:

1.1.2. Phân loại lạm phát:

1.1.3. Nguyên nhân gây ra lạm phát:

1.1.4. Tác động của lạm phát:

1.2. Thất nghiệp:

1.2.1. Khái niệm thất nghiệp - tỉ lệ thất nghiệp:

1.2.2. Phân loại thất nghiệp:

1.2.3. Nguyên nhân gây ra thất nghiệp:

1.2.4. Tác động của thất nghiệp:

1.3. Tốc độ tăng trưởng kinh tế:

1.3.1. Khái niệm về tăng trưởng kinh tế - Tốc độ tăng trưởng kinh tế:

1.3.2. Ý nghĩa của tăng trưởng kinh tế:

1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế:

II. Mối quan hệ giữa lạm phát, thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế:

2.1. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế:

2.2. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp:

2.3. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp:

III. Liên hệ thực trạng nền kinh tế Việt Nam:

IV. Kết luận:

 

doc24 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 13130 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tỉ lệ lạm phát, tỉ lệ thất nghiệp và tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam có mối quan hệ cùng chiều, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát: Nguyên nhân gây ra lạm phát: Tác động của lạm phát: Thất nghiệp: Khái niệm thất nghiệp - tỉ lệ thất nghiệp: Phân loại thất nghiệp: Nguyên nhân gây ra thất nghiệp: Tác động của thất nghiệp: Tốc độ tăng trưởng kinh tế: Khái niệm về tăng trưởng kinh tế - Tốc độ tăng trưởng kinh tế: Ý nghĩa của tăng trưởng kinh tế: Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế: Mối quan hệ giữa lạm phát, thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế: Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế: Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp: Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp: Liên hệ thực trạng nền kinh tế Việt Nam: Kết luận: Lời mở đầu: Lạm phát, thất nghiệp và tốc độ tăng trưởng kinh tế là ba vấn đề cơ bản lớn của nền kinh tế vĩ mô. Chúng cũng được xem như là các chỉ tiêu để đánh giá mức độ thành công của một nền kinh tế vì vậy nghiên cứu về ba vấn đề này luôn là một việc làm quan trọng và cần thiết. Hiểu rõ được những vấn đề trên sẽ giúp chúng ta trong việc đưa ra những biện pháp giúp phát triển nền kinh tế một cách tốt nhất. Trong tình hình kinh tế thế giới đầy biến động, những cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu làm giảm tỉ lệ tăng trưởng kinh tế và khiến cho lạm phát, thất nghiệp ở nhiều quố gia tăng cao, trong đó có cả Việt Nam một yêu cầu được đặt ra là phải nghiên cứu một cách sâu sắc về sự tác động qua lại giữa ba vấn đề này. Đề tài này sẽ đi sâu tìm hiểu và nghiên cứu về mối quan hệ giữa lạm phát, thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Từ đó có thể đưa ra nhận xét cho nhận định: “Tỉ lệ lạm phát, tỉ lệ thất nghiệp và tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam có mối quan hệ cùng chiều”. Lý thuyết về thất nghiệp, lạm phát và tăng trưởng kinh tế: Lạm phát: Khái niệm lạm phát – tỉ lệ lạm phát: Có rất nhiều khái niệm khác nhau về lạm phát. Theo Marx: “Lạm phát là sự phát hành tiềm mặt quá lố”. Theo Lê-nin: “Lạm phát là sự ứ tiền giấy trong các kênh lưu thông”. Theo Miton Friedman: “ Lạm phát là việc giá cả tăng nhanh và kéo dài”. Ông cho rằng lạm phát bao giờ và ở đâu cũng là một hiện tượng của tiền tệ. Ý kiến đó của ông đã được đa số các nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ và phái Keynes tán thành. Xét theo quan điểm của kinh tế học vĩ mô, khái niệm lạm phát được hiểu theo nghĩa chung nhất: “Lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian”. Để phản ánh lạm phát, người ta sử dụng một chỉ số gọi là “tỉ lệ lạm phát”. Quy mô và biến động của tỉ lệ lạm phát phản ánh quy mô và xu hướng của lạm phát. Tỉ lệ lạm phát được tính bằng công thức: Trong đó: gp là tỉ lệ lạm phát Ip1 là chỉ số giá (DGDP hay CPI) thời kỳ nghiên cứu Ip0 là chỉ số giá (DGDP hay CPI) thời kỳ gốc Phân loại lạm phát: Căn cứ theo quy mô lạm phát: Lạm phát vừa phải: còn gọi là lạm phát một con số, chỉ số lạm phát dưới 10%. Lạm phát phi mã: tỉ lệ lạm phát từ 10% đến 200%. Siêu lạm phát: tỉ lệ lạm phát lớn hơn 200%. Căn cứ theo quy mô và độ dài thời gian: Lạm phát kinh niên: kéo dài trên 3 năm với tỷ lệ lạm phát dưới 50% một năm Lạm phát nghiêm trọng: kéo dài hơn 3 năm với tỷ lệ lạm phát trên 50% một năm Siêu lạm phát: kéo dài trên một năm với tỷ lệ lạm phát trên 200% một năm. Căn cứ theo nguyên nhân gây lạm phát: Lạm phát cầu kéo. Lạm phát chi phí đẩy. Lạm phát dự kiến. Lạm phát do tiền. Căn cứ vào mức độ định tính: Lạm phát cân bằng: tỉ lệ lạm phát tăng tương ứng với mức tăng thu nhập. Lạm phát không cân bằng: lạm phát tăng không tương ứng với thu nhập. Lạm phát dự kiến: lạm phát có thể dự kiến trước. Lạm phát bất thường: lạm phát xảy ra đột biến không thể dự đoán trước. Nguyên nhân gây ra lạm phát: Lạm phát xảy ra do mức cầu tăng (lạm phát cầu kéo) : Khi tổng cầu tăng cao vượt mức sản lượng cân bằng đã đạt hoặc vượt mức tiềm năng khiến cho giá cả tăng cao gây ra lạm phát. Mô hình: AD tăng → AD1 ; điểm cân bằng mới E → E1; giá cả tăng P0 → P1 Y tăng Y0 → Y1 ⇒ Nền kinh tế tăng trưởng kèm theo lạm phát gia tăng. Có sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp. Hình 1: Mô hình lạm phát cầu kéo Lạm phát chi phí đẩy: lạm phát xảy ra do chi phí đầu vào tăng làm cho tổng cung suy giảm dẫn đến giá tăng và gây ra lạm phát. Hình 2: Mô hình lạm phát chi phí đẩy Mô hình: ASS giảm → ASS1 điểm cân bằng mới E → E1; giá cả tăng P0 → P1 ; Y giảm Y0 → Y1 ⇒ Nền kinh tế suy thoái, lạm phát gia tăng. Không có sự đánh dổi giữa lạm phát và thất nghiệp. Lạm phát dự kiến: lạm phát mà con người có thể dự kiến trước mức độ của nó. Mô hình: giả sử AD tăng đến AD1 xác định điểm cân bằng E1(P1,Y1), xuất hiện lạm phát do giá tăng từ P0 đến P1. Và lạm phát được dự kiến nên sản xuất cũng được điều chỉnh ASS giảm đến ASS1, điểm cân bằng dịch chuyển đến E2(P2,Y2), sản lượng trở về sản lượng cân bẳng nhưng lạn phát nặng hơn P1 tăng đến P2 ⇒ sản lượng giữ nguyên, giá cả leo thang. Hình 3: Lạm phát dự kiến Lạm phát tiền tệ: Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát. Lạm phát do nhập khẩu: Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên. Tác động của lạm phát: Gây ảnh hưởng đến sản lượng và việc làm Phân phối lại thu nhập Thay đổi cơ cấu kinh tế Khiến cho nền kinh tế kém hiệu quả Thất nghiệp: Khái niệm thất nghiệp - tỉ lệ thất nghiệp: Thất nghiệp là những người trong lực lượng lao động xã hội không có việc làm và đang tích cực tìm kiếm việc làm. Dân số Trong độ tuổi lao động Lực lượng lao động Có việc Thất nghiệp Ngoài lực lượng lao động Ngoài độ tuổi lao động Tỷ lệ thất nghiệp (U): là tỷ lệ giữa số người thất nghiệp so với lực lượng lao động xã hội (LLLĐXH) Số người thất nghiệp LLLĐXH U = Phân loại thất nghiệp: Theo hình thức thất nghiệp: Thất nghiệp theo giới tính. Thất nghiệp theo lứa tuổi. Thất nghiệp theo ngành nghề. Thất nghiệp theo vùng. Thất nghiệp theo dân tộc, chủng tộc. Theo lý do thất nghiệp: Bỏ việc: Tự ý bỏ việc vì những lí do khác nhau. Mất việc: Do các hãng cho thôi việc vì nh ng khó khăn trong kinh doanh. Mới vào: Lần đầu bổ sung vào lực lượng lao động, nhưng chưa tìm được việc làm. Quay lại: Những người đã rời khỏi lực lượng lao động nay muốn quay lại làm việc nhưng chưa tìm được viêc làm. Căn cứ vào nguồn gốc: Thất nghiệp tạm thời: Xảy ra khi có một số người lao động đang trong thời gian tìm kiếm công việc hoặc nơi làm việc tốt hơn, phù hợp hơn với mình. Thất nghiệp cơ cấu: Xảy ra khi có sự mất cân đối gi a cung và cữầu lao động. Thất nghiệp do thiếu cầu: Xảy ra khi mức cầu chung về lao động giảm xuống. Thất nghiệp do yếu tố ngoài thị trường: Xảy ra do các yếu tố xã hội, chính trị gây ra. Ngoài ra còn có một cách phân loại mới: Thất nghiệp tự nguyện: Chỉ những người không muốn làm việc do việc làm hoặc mức lương chưa phù hợp với bản thân họ. Thất nghiệp không tự nguyện: Chỉ những người mong muốn làm việc và tích cực tìm kiếm việc làm nhưng không có việc. Nguyên nhân gây ra thất nghiệp: Theo lý thuyết về tiền công linh hoạt (quan điểm của trường phái cổ điển). Quan điểm: giá cả, tiền lương hết sức linh hoạt do vậy thị trường lao động sẽ luôn luôn tự động diều chỉnh để đạt trạng thái cân bằng. Nguyên nhân: thất nghiệp xảy ra do tiền lương không được ấn định bởi các lực lượng thị trường mà nó chịu sự ấn định của các quy định của chính phủ, nhà nước, các tổ chức công đoàn làm cho mức lương trong nền kinh tế cao hơn mức lương cân bằng thực tế của thị trường lao động. vì vậy, trên thi trường lao động xuất hiện hiện tượng dư cung lao động dẫn đến thất nghiệp. w 0 Lo L1 L W1 W0 E F G H K DL Ban đầu thị trường cân bằng tại E =DL SL’ W0 Ta có E L0 EF: thất nghiệp tự nhiên = thất nghiệp tự nguyện Giả sử chính phủ quy định mức tiền lương tối thiểu W1 > W0 thì: Cung lao động: H Cầu lao động: G SL’ SL Thị trường lao động dư cung thất nghiệp tăng HK: TN tự nguyện HG: TN không tự nguyện Lý thuyết tiền công cứng nhắc (quan điểm trường phái keynes) Quan điểm: giá cả tiền lương hết sức cứng nhắc Nguyên nhân: thất nghiệp xảy ra do sự suy giảm của tổng cầu trong thời kỳ suy thoái kinh tế dẫn đến mức cầu chung về lao động giảm xuống đường cầu lao động dịch chuyển sang trái trong khi P, W không thay đổi dẫn đến toàn bộ thị trường lao động bị mất cân bằng. w L2 Lo L1 L W0 Ban đầu thị trường cân bằng tại E =DL SL’ W0 Ta có E L0 EF: thất nghiệp tự nhiên = thất nghiệp tự nguyện Giả sử khi nền kinh tế suy thoái ADDLDL’ Do giá cả cứng nhắc nên: Cầu lao động: G Cung lao động:E DL DL’ SL SL’ G E F 0 Thất nghiệp tăng EF: TN tự nguyện GE: TN không tự nguyện Tác động của thất nghiệp: Tỷ lệ thất nghiệp cao gây thiệt hại cho nền kinh tế: tổng sản phẩm quốc nội(GDP) thấp, các nguồn lực về con người không được sử dụng. Gia tăng thất nghiệp đi liền với việc gia tăng các tệ nạn xã hội… Do thiếu các nguồn tài chính và phúc lợi xã hội, người lao động buộc phải làm việc những công việc không phù hợp với trình độ năng lực. Thất nghiệp làm giảm thu nhập của người dân, khiến cho người dân không có khả năng chi trả cho việc mua sắm hàng hoá, các vật dụng dịch vụ thiết yếu. Ở một chừng mực nào đó, thất nghiệp đưa đến tăng năng suất lao động và tăng lợi nhuận. Tốc độ tăng trưởng kinh tế: Khái niệm về tăng trưởng kinh tế - Tốc độ tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề cốt lõi của lý luận về phát triển kinh tế. Tăng trưởng và phát triển kinh tế là mục tiêu hàng đầu của tất cả các nước trên thế giới, là thước đo chủ yếu về sự tiến bộ mỗi giai đoạn của một quốc gia. Có rất nhiều quan điểm định nghĩa về tăng trưởng kinh tế: Theo ĐN của Ngân hàng thế giới (WB) trong “Báo cáo về phát triển thế giới năm 1991” cho rằng: “Tăng trưởng kinh tế chỉ là sự gia tăng về lượng của những đại lượng chính đặc trưng cho một trạng thái kinh tế, trước hết là tổng sản phẩm xã hội, có tính đến mối liên quan với dân số”. Trong tác phẩm “kinh tế học của các nước phát triển”, thì nhà kinh tế học E.Wayne Nafziger cho rằng: “Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về lượng hoặc sự tăng lên về thu nhập bình quân đầu người của một nước.” Có một số quan điểm khác lại cho rằng: “Tăng trưởng kinh tế là sự tăng thêm (hay gia tăng) về qui mô sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định”. Như vậy, có nhiều cách định nghĩa khác nhau, song có thể định nghĩa một cách khái quát như sau: “Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của GDP hoặc GNP hoặc thu nhập bình quân đầu người trong một thời gian nhất định.” Để đo lường tăng trưởng kinh tế người ta thường dùng công cụ phản ánh là “tốc độ tăng trưởng kinh tế”. “Tốc độ tăng trưởng kinh tế” được tính bằng cách lấy chênh lệch giữa quy mô kinh tế kỳ hiện tại so với quy mô kinh tế kỳ trước rồi chia cho quy mô kinh tế kỳ trước. Tốc độ tăng trưởng kinh tế được thể hiện bằng đơn vị %. (quy mô kinh tế thường được đo bằng chỉ tiêu GDP hoặc GNP) Công thức tính tốc độ tăng trưởng kinh tế: y = dY/Y × 100(%) Với y là tốc độ tăng trưởng kinh tế. Y là quy mô của nền kinh tế (GNP hoặc GDP). Thông thường tốc độ tăng trưởng kinh tế được tính bằng chỉ tiêu GNP thực tế. Ý nghĩa của tăng trưởng kinh tế: Khi nền kinh tế của một quốc gia tăng trưởng đồng nghĩa với việc quốc gia đó đạt được những thành tựu về phát triển kinh tế. Nền kinh tế tăng trưởng, tổng sản phẩm quốc dân (GNP) tăng cho thấy sự thay đổi mức sống của người dân, đời sống nhân dân được cải thiện, giảm thiểu những tiêu cực, những tệ nạn trong xã hội, xã hội ổn định, đất nước phát triển. Tuy nhiên không phải bất kỳ lúc nào tăng trưởng kinh tế cũng có lợi. Khi nền kinh tế tăng trưởng quá nóng sẽ gây ra lạm phát cao và kéo theo sự bất ổn định trong nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là cần phải tăng trưởng kinh tế một cách ổn định và bền vững. Các nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế: Nguồn nhân lực: chất lượng đầu vào của lao động (kỹ năng, kiến thức, kỷ luật). Nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn: là những yếu tố sản xuất như đất đai, khoáng sản và máy móc thiết bị. Công nghệ, kỹ thuật: kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến sẽ tạo ra năng suất lao động cao, do đó tích lũy đầu tư lớn. Cơ cấu kinh tế: cơ cấu kinh tế càng hiện đại thì tăng trưởng kinh tế càng nhanh và bền vững. Thể chế chính trị và quản lý nhà nước: thể chế chính trị ổn định, chính sách phát triển kinh tế đúng đắn thì sẽ tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng nhanh. Mối quan hệ giữa lạm phát, thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế: 2.1. Mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế và lạm phát là hai vấn đề cơ bản trong nền kinh tế vĩ mô. Tăng trưởng kinh tế và lạm phát luôn tồn tại song song với nhau. Sự tác động qua lại của tăng trưởng kinh tế và lạm phát hết sức phức tạp và không phải lúc nào cũng tuân theo những qui tắc kinh tế. Tuy nhiên, xét vào từng trường hợp, từng giai đoạn cụ thể thì tăng trưởng kinh tế và lạm phát thường có mối quan hệ nhất định với nhau nhưng mức độ gắn kết đó như thế nào thì vẫn còn là một vấn đề tranh cãi. Thông thường theo lịch sử của nhiều quốc gia cho thấy, khi nền kinh tế phát triển, tăng trưởng kinh tế đạt mức cao thì lạm phát có xu hướng tăng lên và ngược lại. Điều này chứng tỏ lạm phát và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ cùng chiều nhưng một số nghiên cứu khác lại cho thấy lạm phát tác động tiêu cực vào nền kinh tế khi nó vượt quá một ngưỡng nhất định nào đó. Như vậy “mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và lạm phát là phi tuyến tính”. Fischer là người đầu tiên nghiên cứu vấn đề này (1993) với kết luận khi lạm phát tăng ở mức độ thấp mối quan hệ này có thể không tồn tại hoặc thậm chí mang tính đồng biến còn khi lạm phát ở mức cao mối quan hệ này là nghịch biến. Một số các nghiên cứu sau này của các tác giả như: Sarel (1996), Gosh và Philip (1998), Shan và Senhadji (2001), và một số các nhà nghiên cứu khác đã cố gắng tìm ra đặc điểm đặc biệt về mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Bằng các nghiên cứu khác nhau họ đã tìm ra một ngưỡng lạm phát, mà tại ngưỡng đó nếu lạm phát vượt ngưỡng sẽ có tác động tiêu cực (tác động ngược chiều) đến tăng trưởng. Theo Sarel ngưỡng lạm phát là 8%, theo Shan và Senhadji ngưỡng lạm phát cho các nước đang phát triển là 11-12% và cho các nước công nghiệp khoảng 1-3%. Gần đây là nghiên cứu của tác giả Khan (2005) đã tập trung nghiên cứu xác định mức lạm phát tối ưu. Kết quả Khan đã tìm ra mức lạm phát tối ưu đối với các nước vùng Trung Đông và Trung Á là khoảng 3.2%. Trong trường hợp lạm phát do cầu kéo (cầu thay đổi) lạm phát sẽ cùng chiều với tăng trưởng kinh tế. Trong trường hợp lạm phát do chi phí đẩy (cung thay đổi) lạm phát sẽ ngược chiều với tăng trưởng kinh tế. Trong trường hợp lạm phát dự kiến, lạm phát tăng trong khi tăng trưởng kinh tế không đổi. Mối quan hệ giữa lạm phát và thất nghiệp: Lạm phát và thất nghiệp có mối quan hệ như thế nào là một trong những chủ đề được bàn đến trong nhiều thập kỷ qua. Từ cuối những năm 1950, A.W.Phillips đã nghiên cứu về mối quan hệ này và ông đã đưa ra lý thuyết trao đổi về lạm phát – đạt giải Noben Kinh tế 2006 cùng với cái tên đường cong Phillips. Đường Phillips ban đầu: Qua kết quả thực nghiệm trên cơ sở hàng loạt số liệu thống kê từ nhiều nền kinh tế trên thế giới mối quan hệ tỉ lệ nghịch giữa tỉ lệ thất nghiệp và tỉ lệ lạm phát đã được kiểm chứng. Điều này có nghĩa là có thể đánh đổi giữa thất nghiệp và lạm phát (có thể chấp nhận tăng tỉ lệ thất nghiệp để giảm thiểu lạm phát và ngược lại bằng việc sử dụng các chính sách tài khóa và tiền tệ). Phương trình đường Phillips có dạng: Gp = - ℰ (u – u*) Trong đó: gp = tỉ lệ lạm phát u = tỉ lệ thất nghiệp thực tế u* = tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên ℰ = độ dốc đường phillip Đường philips ban đầu cho thấy: Lạm phát bằng không khi thất nghiệp bằng tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên. Độ dốc ℰ càng lớn thì một sự biến động nhỏ của lạm phát sẽ gây ra sự biến động lớn của thất nghiệp. Độ lớn của ℰ phản ánh sự phản ứng của tiền lương. Đường Phillips mở rộng: Đường philip được mở rộng thêm khi có tỉ lệ lạm phát dự kiến: Gp = gpe - ℰ (u – u*) Với gpe là tỉ lệ lạm phát dự kiến. Đường Phillips mở rộng Đường philips mở rộng cho thấy: Khi tỉ lệ thất nghiệp bằng tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên thì lạm phát bằng tỉ lệ lạm phát dự kiến. Nếu thất nghiệp cao hơn tỉ lệ tự nhiên thì lạm phát cao hơn tỉ lệ dự kiến. Nếu có các cơn sốt cầu, tổng cầu tăng sẽ dẫn đến lạm phát tăng và thất nghiệp giảm, có sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp. Nếu có các cơn sốt cung thì sẽ dẩy giá cả tăng, lạm phát tăng nhưng sản lượng và việc làm lại giảm. Không có sự đánh dổi giữa lạm phát và thất nghiệp. Đường Philips dài hạn: Đường Phillips trong dài hạn Trong dài hạn, ti lệ lạm phát thực tế bằng tỉ lệ lạm phát dự kiến nên tỉ lệ thất nghiệp thực tế luôn bằng tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên cho dù tỉ lệ lạm phát có thay đổi như thế nào. Đồ thị đường phillips trong dài hạn là một đường thẳng đứng. Kết luận: Như vậy trong ngắn hạn có sự đánh đổi tạm thời giữa lạm phát và thất nghiệp trong thời gian nền kinh tế đang tự điều chỉnh bởi các cơn sốt cầu nhưng không có sự đánh dổi bởi các cơn sốt cung. Còn trong dài hạnvề cơ bản không tồn tại mối quan hệ lạm phát và thất nghiệp. Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp: Muốn tăng trưởng kinh tế thì một trong những yếu tố quan trọng nhất là phải sử dụng tốt và có hiệu quả lực lượng lao động. Một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh thì càng cần phải thực hiện tốt công việc trên. Như vậy chúng ta có thể thấy mối quan hệ tỉ lệ nghịch giữa tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp: khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh thì thất nghiệp có xu hướng giảm đi. Mối quan hệ tỉ lệ nghịch trên cũng được đề cập đến qua quy luật Okun (hay quy luật 2 - 1): “Nếu GNP thực tế tăng 2% trong vòng một năm so với GNP tiềm năng của năm đó thì tỉ lệ thất nghiệp sẽ giảm đi đúng bằng 1%” Tuy nhiên quy luật trên chỉ mang tính chất gần đúng và mang tính chất khái quát về mối quan hệ giữa tăng trưởng và thất nghiệp của những nước có thị trường phát triển. Liên hệ thực trạng nền kinh tế Việt Nam: Các số liệu thống kê về lạm phát, thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam: Năm Tăng trưởng GDP (%) Lạm phát (%) 1987 3.6 223.1 1988 6.0 349.4 1989 4.7 36.0 1990 5.1 67.1 1991 5.8 67.5 1992 8.7 17.5 1993 8.1 5.2 1994 8.8 14.4 1995 9.5 12.7 1996 9.3 4.5 1997 8.2 3.6 1998 5.8 9.2 1999 4.8 0.1 2000 6.8 -1.6 2001 6.9 -0.4 2002 7.1 4.0 2003 7.3 3.0 2004 7.8 9.5 2005 8.4 8.4 2006 8.2 6.6 2007 8.5 12.6 Nguồn ADB Bảng 1: Tăng trưởng GDP và lạm phát của Việt Nam qua các năm Năm GDP theo tỷ giá (tỷ USD) GDP tỷ giá theo đầu người (USD) Tăng trưởng 2007 71,4 823 8,5% 2008 89,83 1024 6,2% 2009 92,84 1040 5,3% 2010 6,5% Bảng 2: Các chỉ số về GDP theo tỷ giá (2007-2010) Nguồn: Số liệu thống kê IMF, www.asset.vn Biểu đồ 1: Tăng trưởng GDP thực tế và Lạm phát tại Việt Nam 1990-2008 (đơn vị: phần trăm)   (Nguồn: Tổng cục Thống kê) Biểu đồ 2: Tăng trưởng GDP thực tế và Lạm phát tại Việt Nam 2001-2008 (đơn vị: phần trăm) (Nguồn: Tổng cục Thống kê và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) Biểu đồ 3: tỉ lệ thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam (1989-2008) Phân tích thực trạng: Nhìn vào các số liệu thống kê về lạm phát, thất nghiệp và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam từ năm 1986 đến nay có thể thấy sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã trải qua nhiều giai đoạn tăng trưởng cũng như suy thoái. Từ năm 1989 đến năm 1990: Đây là thời kỳ đầu sau đổi mới, các tồn tại từ thời kỳ trước vẫn còn gây ảnh hưởng tới nền kinh tế. Thời kỳ này tăng trưởng kinh tế ở mức thấp, tỉ lệ thất nghiệp và tỉ lệ lạm phát cao. Tăng trưởng GDP trung bình chỉ đạt 4,9%. Tỷ lệ thất nghiệp cao, lên đến 13% năm 1989 và 10% năm 1990, năm1991 là 9% Lạm phát ở mức cao: lạm phát hai con số: 36% năm 1989 và 67% năm 1990 và 1991. Từ năm 1990: sau khi tư duy cải cách thực sự được chuyển hóa thành các chính sách kinh tế và đi vào cuộc sống, nền kinh tế đã nhanh chóng vượt qua giai đoạn khó khăn và bước vào thời kỳ phát triển mạnh. Tốc độ tăng GDP bình quân 8,2%/năm trong giai đoạn 1991-1995, đạt mức cao nhất trong chu kỳ là 9,5% năm 1995 Thất nghiệp giảm chỉ còn khoảng 5,8%. Lạm phát vẫn ở mức hai con số nhưng chỉ còn nằm trong khoảng 12%-17%. Thời kỳ 1999-2002: Do chính sách thắt chặt tiền tệ và cuộc khủng hoảng tài chính ở khu vực Châu Á nên nước ta lại lâm vào tình trạng suy thoái. Thời kỳ này lạm phát ở mức thấp thậm chí là thiểu phát. Tốc độ tăng trưởng cũng ở mức rất thấp, tỉ lệ thất nghiệp tăng cao. Năm 1998-1999 tốc độ tăng trưởng giảm xuống mức dưới 6%, mức thấp nhất là 4,8% vào năm1998. Đây là mức đáng lo ngại đối với một nền kinh tế có tốc độ tăng dân số 2% một năm như nước ta. Tỷ lệ thất nghiệp là 7%, tỉ lệ thiếu việc làm ở nông thôn đạt mức rất cao 28,9%. Tỉ lệ lạm phát thấp: 0,1% năm 1999 đạt mức -1,6% năm 2000 và -0.4% năm 2001. Sau năm 2002: Để tránh tác động của khủng hoảng trên Việt Nam đã thực hiện chính sách kích cầu đi liền với việc gia tăng tín dụng và cuối cùng là in tiền. Đây là nguyên nhân gây ra sự gia tăng đến mức báo động giá nhưng bù lại là sự tăng trưởng kinh tế ổn định và giảm thiểu đáng kể tỉ lệ thất nghiệp. Tăng trưởng GDP ổn định ở mức trên 7% mỗi năm. Cao nhất đạt 8.5% năm 2007. Lạm phát tăng cao trở lại, đạt mức cao nhất 9.5% năm 2004. Tỉ lệ thất nghiệp nằm trong khoảng 4%-5%, thấp nhất đạt mức 4.2% năm 2007. Tuy nhiên để đạt được kết quả trên, trong giai đoạn 2003-2007 cung tiền cũng tăng cao trung bình 25%/năm, tín dụng nội địa tăng trên 35%/năm và đạt mức cao nhất thế giới là 53% trong năm 2007. Hơn 60% lượng tín dụng được sử dụng cho các doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả và chỉ có thể tạo việc làm cho khoảng dưới 10% lực lượng lao động. Sự dư thừa tín dụng và phân bổ không hiệu quả này rốt cuộc đã dẫn tới khủng hoảng tín dụng và buộc thị trường tín dụng phải điều chỉnh như chúng ta đã chứng kiến trong năm 2008. Bên cạnh đó, khủng hoảng kinh tế - tài chính thế giới cũng là một cú sốc mạnh từ bên ngoài đã cộng hưởng và nhanh chóng đưa nước ta vào pha suy thoái của chu kỳ khiến tăng trưởng kinh tế thụt giảm, lạm phát và thất nghiệp tiếp tục tăng cao: Tăng trưởng GDP giảm xuống chỉ còn 6,2% năm 2008. Thất nghiệp tăng lên 4.6% năm 2008 Lạm phát tăng lên mức 2 con số đạt 12.63% năm 2007, 16.89% năm 2008. Trong giai đoạn hiện nay, tỉ lệ lạm phát và tỉ lệ thất nghiệp ở Việt nam đang ở mức cao trong khi tốc độ tăng trưởng kinh tế vẫn còn ở mức thấp. Dự báo trong thời gian tới, lạm phát và thất nghiệp vẫn còn tiếp tục gia tăng. Như vậy yêu cầu cấp thiết đòi hỏi chính phủ cần phải đưa ra những chủ trương chính sách phù hợp kịp thời, đề ra những biện pháp cụ thể để có thể nhanh chóng ổn định và phát triển nền kinh tế. Kết luận: Mối quan hệ giữa tỉ lệ lạm phát, tỉ lệ thất nghiệp và tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam cũng phù hợp với những lý thuyết và kết quả kiểm nghiệm trên thế giới. Hệ số tương quan (correlation) cho thấy lạm phát và tăng trưởng của Việt Nam trong giai đoạn 1987-2007 có hệ số tương quan âm –0.47 (ý nghĩa thống kê ở mức 5%) cho thấy mối quan hệ ngược chiều giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Giai đoạn 1992-2007, hệ số tương quan giữa tăng trưởng và lạm phát cho hệ số dương là 0.58 (ý nghĩa thống kê ở mức 5%) cho thấy mối quan hệ tỉ lệ thuận giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Tương tự đối với tỉ lệ thất nghiệp, nhìn chung khi nền kinh tế Việt Nam phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng thì tỉ lệ thất nghiệp giảm. Bên cạnh đó lạm phát và thất nghiệp cũng tác động qua lại lẫn nhau. Xét một vài trường hợp trong từng tình hình cụ thể có thể thấy sự đánh đổi giữa lạm phát và thất nghiệp (giai đoạn 1994-1995; giai đoạn 2007-2008) nhưng nếu xét về dài hạn thì chưa có cơ sở khẳng định lạm phát và thất nghiệp ở Việt nam có mối quan hệ trao đổi. Việt Nam cần chấp nhận đánh đổi giữa mục tiêu kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế, giảm tỉ lệ thất nghiệp. Đây là một quyết định khó khăn. Nhưng lạm phát hiện tại đã đạt mức độ tiêu cực và ưu tiên hàng đầu là kiềm chế lạm phát là cần thiết. Những năm qua việc Việt Nam thực thi chính sách tiền tệ và tài khóa nới lỏng để thúc đẩy tăng trưởng có thể là phù hợp, nhưng hiện nay, khi mà lạm phát đã đạt ngưỡng tiêu cực, việc thắt chặt tiền tệ và tài khóa là cần thiết để kiềm chế lạm phát. Thời gian gần đây ở Việt Nam còn xuất hiện quan điểm: “Tỉ lệ lạm phát tốt nhất là không vượt quá tốc độ tăng trưởng” . Đây là một quan điểm không có cơ sở khoa học về mặt lý thuyết cũng như thực tiễn vì vậy chúng ta cần phải xóa bỏ. Trước mắt, trong tình hình hiện nay việc cần làm đầu tiên là nhanh chóng đưa ra những chính sác

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMối quan hệ cùng chiều giữa tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ thất nghiệp và tốc độ tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan