Đề tài Tiềm năng và cơ hội phát triển của thị trường phát hành thẻ - Những hạn chế về phát hành thẻ của ngân hàng nông thôn và nguyên nhâ

Lời nói đầu 1

Chương 1: tổng quan về thẻ 2

I. Hai hình thức thanh toán tiền tệ 2

1. Thanh toán tiền mặt 2

2. Thanh toán không dùng tiền mặt 3

3. Một số công cụ thanh toán không dùng tiền mặt 4

II. Tổng quan về thẻ 5

1. Sự hình thành và phát triển thẻ 5

2. Một số nội dung liên quan đến thẻ 7

2.1. Khái niệm 7

2.2. Mô tả thẻ về kĩ thuật 8

2.3. Phân loại thẻ 9

2.3.1. Theo công nghệ sản xuất: 9

2.3.2. Theo chủ thể phát hành: 9

2.3.3. Theo tính chất thanh toán của thẻ: 10

2.3.4. Theo hạn mức tín dụng 11

2.3.5. Theo phạm vi sử dụng của thẻ 11

2.4. Quy trình phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ 11

2.4.1. Các chủ thể chính tham gia hoạt động kinh doanh thẻ 11

2.4.3. Trình tự các bước của nghiệp vụ thẻ 13

2.4.4. Quy trình nghiệp vụ phát hành thẻ: gồm các bước: 15

2.5. Một số thiết bị sử dụng 16

2.6. Ưu nhược điểm của việc thanh toán bằng thẻ 18

2.6.1. Đối với người sử dụng thẻ 18

2.6.2. Đối với đơn vị chấp nhận thẻ 19

2.6.3. Đối với ngân hàng 20

 

doc89 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1229 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiềm năng và cơ hội phát triển của thị trường phát hành thẻ - Những hạn chế về phát hành thẻ của ngân hàng nông thôn và nguyên nhâ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n rỗi trong dân cư còn quá lớn và nền kinh tế đang cần vốn để đầu tư phát triển. Dịch vụ ngân hàng bán lẻ phát triển sẽ là nhân tố góp phần giảm chi phí giao dịch xã hội qua việc tiết kiệm chi phí và tiết kiệm thời gian cho cả ngân hàng và người sử dụng. Ngoài ra, thông qua việc mở rộng thêm nhiều dịch vụ với nhiều tiện ích mới, dịch vụ ngân hàng bán lẻ sẽ thêm nhiều công ăn việc làm, giảm bớt tỷ lệ thất nghiệp. Đó là chưa kể đến việc dịch vụ này với những tiện ích thanh toán không dùng tiền mặt sẽ cải thiện môi trường tiêu dùng, xây dựng nền văn minh thanh toán, góp phần tạo cơ sở để Việt Nam hoà nhập với cộng đồng phát triển quốc tế. Xét trên giác độ tài chính và quản trị ngân hàng, các ngân hàng triển khai dịch vụ ngân hàng bán lẻ sẽ có điều kiện hạn chế phần nào rủi ro do các nhân tố bên ngoài vì dịch vụ ngân hàng bán lẻ là lĩnh vực ít chịu ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế so với các lĩnh vực khác. Tóm lại, phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ ở Việt Nam đã trở thành vấn đề tất yếu. Nhưng với các NHTM, bắt đầu từ đâu, sử dụng công cụ thanh toán và phát triển những tiện ích gì là điều hết sức quan trọng, cần phải được xem xét để triển khai thực hiện. Từ kinh nghiệm của các nước trên thế giới và thực tiễn Việt Nam, có thể khẳng định thẻ là một công cụ thanh toán quan trọng trong phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ. Thẻ được sử dụng vào việc rút tiền, gửi tiền, vay tiền, thanh toán hay chuyển khoản. Thẻ cũng được sử dụng cho nhiều dịch vụ phi thanh toán như xem số dư tài khoản, thông tin về khách hàng,.. và hiện nay, các nhà khoa học đang nghiên cứu, triển khai ứng dụng thẻ ra ngoài lĩnh vực tiền tệ và thanh toán như sử dụng thẻ thay giấy tờ tuỳ thân… Cùng với yêu cầu của phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ, sự phát triển của thẻ còn là đòi hỏi tất yếu của xu hướng đa dạng hoá dịch vụ trong chiến lược kinh doanh của các NHTM ở Việt Nam. Việc phát triển tín dụng trong thời gian gần đây gặp rất nhiều trở ngại ảnh hưởng đến doanh thu, lợi nhuận và tăng trưởng của các ngân hàng. Để khắc phục khó khăn này, các NHTM có xu hướng phát triển hoạt động kinh doanh dựa trên cơ sở đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu, mong muốn của khách hàng trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng và ngân hàng với mục tiêu giữ vững khách hàng truyền thống, đồng thời phát triển khách hàng mới. Một trong những dịch vụ mà các NHTM Việt Nam đã và đang dần hoàn thiện là hoạt động phát hành và kinh doanh thẻ- loại hình dịch vụ ngân hàng hiện đại. Mở rộng dịch vụ ngân hàng trong khu vực dân cư là một chủ trương lớn của Ngân hàng Nhà nước nhằm cải thiện tình hình thanh toán trong khu vực này, từng bước đổi mới tập quán sùng bái tiền mặt, tạo thói quen sử dụng các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, phát triển thanh toán qua ngân hàng, góp phần thực thi tốt chính sách tiền tệ. Về phía ngân hàng, chủ trương này cũng tạo ra một hình thức huy động vốn mới, tập trung lượng vốn tiềm tàng trong dân cư để đầu tư và phát triển. Hơn nữa, sự phát triển của công nghệ thông tin và sự hội nhập kinh tế Việt Nam vào nền kinh tế khu vực và thế giới càng thúc đẩy chúng ta phát triển phương thức kinh doanh thẻ, một hoạt động thanh toán hiện đại, văn minh và nhiều triển vọng với khả năng phổ cập rộng rãi trong cộng đồng dân cư. Sự ra đời và phát triển thị trường thẻ ở Việt Nam 1.3.1. Thị trường tổng quan Việt Nam hiện nay vẫn là một thị trường thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt. Các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt như thẻ tín dụng, séc, chuyển tiền qua ngân hàng,.. đã được triển khai song chưa thâm nhập nhiều vào cuộc sống. Hệ thống thanh toán của ngân hàng chưa phát triển mạnh, đặc biệt là hệ thống thanh toán liên ngân hàng điện tử. Đây là những khó khăn trong việc phát triển một thị trường các sản phẩm thanh toán phi tiền mặt. Tuy nhiên, nó cũng cho thấy cơ hội và tiềm năng to lớn cho các ngân hàng biết khai thác tốt các sản phẩm dịch vụ để cung cấp cho khách hàng. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường đã thúc đẩy mạnh mẽ các loại hình dịch vụ mới trong hoạt động ngân hàng, đáp ứng yêu cầu về tài chính ngân hàng cho mọi thành phần xã hội. Kinh nghiệm cho thấy kinh tế xã hội càng phát triển, tỷ lệ thanh toán không dùng tiền mặt, trong đó có thanh toán thẻ, sẽ ngày càng tăng thêm. Ngay từ những năm đầu đổi mới hoạt động ngân hàng và 2 pháp lệnh ngân hàng, các ngân hàng trong nước đã tiếp cận với các dịch vụ về thẻ. Năm 1990, NHNT là ngân hàng đầu tiên của nước ta triển khai nghiệp vụ thanh toán thẻ, mặc dù Ngân hàng chưa phải là thành viên chính thức của một tổ chức thẻ quốc tế mà mới chỉ làm đại lý thanh toán thẻ cho các đối tác nước ngoài, và từ đó, Ngân hàng luôn đi đầu trong việc chấp nhận thanh toán thẻ tín dụng quốc tế. Tuy nhiên, dịch vụ này chủ yếu để phục vụ khách du lịch và thương nhân nước ngoài đến Việt Nam. Nhận thức được sự phát triển của công nghệ và sự cần thiết của các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, từ năm 1993, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có những qui định đầu tiên về việc phát hành và thanh toán thẻ nhằm tạo một hành lang pháp lý cho hoạt động kinh doanh thẻ. Chính phủ và các NHTM cũng đã có quyết định và biện pháp nhằm khuyến khích việc mở tài khoản cá nhân và sử dụng phương tiện thanh toán phi tiền mặt. Cụ thể là Ngân hàng Nhà nước đã chỉ đạo NHNT triển khai việc phát hành thẻ ghi nợ với công nghệ Smart Card và thẻ rút tiền mặt ATM nhằm hạn chế lượng tiền mặt trong lưu thông góp phần kiềm chế lạm phát. Chương trình này không đạt được kết quả như mong muốn do mức đầu tư quá lớn về thẻ trắng và hệ thống máy đọc thẻ tại các CSCNT, do những vấn đề về cách tiếp cận và công tác makerting. Trong khi đó, thị trường thẻ lúc này ở Việt Nam còn quá mới mẻ, một mình NHNT không đủ sức đầu tư để phát triển cả một mạng lưới rộng lớn bao gồm phát hành và thanh toán thẻ. Trong giai đoạn 1990-1996, doanh số thanh toán thẻ tại Việt Nam đã tăng nhanh với tốc độ trung bình khoảng 200%/năm, đạt gần 200 triệu USD/năm. Năm 1995, sau khi Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh cấm vận thì nhiều ngân hàng trong nước và chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã bắt đầu quan tâm đến loại hình dịch vụ mới mẻ này. Thị trường thanh toán thẻ sôi động hẳn lên, NHNT không còn giữ vai trò độc tôn nữa mà có thêm gần chục NHTM cũng tham gia vào hoạt động kinh doanh thẻ. Từ năm 1996, sự tăng trưởng của doanh số thanh toán có phần chậm lại mặc dù có nhiều ngân hàng tham gia vào lĩnh vực chấp nhận thanh toán thẻ hơn. Năm 2000, doanh số thanh toán thẻ tại thị trường Việt Nam là 220 triệu USD. Tháng 4/1995, 4 NHTM Việt Nam được kết nạp là thành viên chính thức của tổ chức thẻ quốc tế Master Card là: VCB, ACB, Eximbank, First Vina Bank. Năm 1996, VCB và ACB trở thành thành viên chính thức của tổ chức thẻ quốc tế Visa. Tiếp đó, 2 ngân hàng này đã bắt đầu triển khai nghiệp vụ phát hành thẻ tín dụng quốc tế và thực hiện thanh toán trực tiếp với các tổ chức thẻ quốc tế Visa và Master. Vì thị trường này có sức hấp dẫn cao nên sự cạnh tranh giữa các ngân hàng diễn ra rất sôi động, việc chia sẻ thị trường thanh toán và phát hành thẻ, cạnh tranh qua việc giảm phí liên tục của các ngân hàng là không thể tránh khỏi. Tháng 8/1996, hội các ngân hàng thanh toán thẻ ở Việt Nam được thành lập nhằm giải quyết vấn đề này. Đây là một bộ phận cấu thành của hiệp hội ngân hàng Việt Nam với 4 sáng lập viên VCB, ACB, Eximbank, Firstvina Bank và sau đó thêm các thành viên: ANZ, Sài Gòn thương tín. Hiệp hội đã ấn định mức phí tối thiểu cho các NHTM cùng áp dụng đối với các CSCNT tại Việt Nam, làm cho thị trường thẻ đi vào cuộc cạnh tranh lành mạnh. Đây là một hành động được các tổ chức thẻ quốc tế đánh giá cao. Năm 1999, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quy chế cho việc phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng. Mặc dù Quy chế còn chưa đề cập đến nhiều điểm, song đó là một khung pháp lý và điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng trong định hướng phát triển thẻ. 1.3.2. Tình hình phát hành thẻ tại Việt Nam trong những năm qua Năm 1996, hai ngân hàng VCB và ACB đã khai trương việc phát hành thẻ tín dụng quốc tế Mastercard đầu tiên ở Việt Nam. Năm 1997, ACB phát hành thêm thẻ tín dụng quốc tế Visa, và đối với VCB là năm 1998. Cuối năm 2000, ACB bắt đầu phát hành thẻ tín dụng nội địa và đã thu được nhiều kết quả khả quan. Đến nay ACB là ngân hàng chiếm thị phần phát hành thẻ cao nhất nước ta. Đầu năm 2001, ngân hàng Eximbank đã phát hành thẻ tín dụng quốc tế Mastercard. Và đầu năm 2002, Ngân hàng Công thương cũng tham gia vào thị trường phát hành thẻ với việc phát hành thẻ Master. Bảng: Tình hình phát hành thẻ tín dụng tại các NHTM Việt Nam Năm Số lượng thẻ phát hành (chiếc) Doanh số sử dụng thẻ (tỷ VND) 1996 721 27,31 1997 1890 58,84 1998 4120 119,72 1999 3930 170,18 2000 8683 259,50 2001 22910 438,56 (Nguồn: Phòng Quản lý Thẻ - NHNT) Mặc dù số lượng thẻ phát hành doanh số sử dụng thẻ hàng năm tăng nhanh nhưng vẫn còn rất khiêm tốn so với các nước trong khu vực và cũng chỉ chiếm tỷ trọng không đáng kể trong tổng doanh số thanh toán không dùng tiền mặt. Tỷ trọng doanh số sử dụng thẻ ở nước ngoài đang có xu hướng giảm dần nhưng vẫn còn ở mức cao, chiếm khoảng 70% tổng doanh số sử dụng thẻ. Các ngân hàng mặc dù có nhiều cố gắng trong việc mở rộng mạng lưới CSCNT nhưng mạng lưới này vẫn chưa đa dạng và phát triển để phục vụ cho chủ thẻ là người Việt Nam nên cũng ảnh hưởng đến việc mở rộng sử dụng thanh toán thẻ tại Việt Nam. Hiện nay, ngoài ACB có Trung tâm Thẻ hoạt động độc lập, hoạt động kinh doanh thẻ của các ngân hàng khác vẫn còn nằm trong sự quản lý của phòng thẻ và hạch toán hoạt động thẻ vẫn còn phụ thuộc. Đây là một trong những khó khăn của các ngân hàng trong việc mở rộng và tăng tính cạnh tranh của hoạt động thẻ. 1.3.3. Tình hình chung của dịch vụ thẻ tại VCB Từ năm 1990, NHNT Việt Nam với tư cách là một ngân hàng đại lí đã bắt đầu triển khai nghiệp vụ thanh toán thẻ ở Việt Nam. Đến năm 1995, ngân hàng mới thực sự trở thành thành viên chính thức của hai tổ chức thẻ Visa và Mastercard. Sau một năm thực hiện thanh toán trực tiếp với các tổ chức thẻ quốc tế, Ngân hàng Ngoại thương đã triển khai nghiệp vụ phát hành thẻ tín dụng quốc tế VCB-Mastercard (1996) và tiếp đó là VCB-Visa (1998). Đối với hai tổ chức thẻ Amex và JCB, Ngân hàng Ngoại thương vẫn giữ vai trò là ngân hàng đại lí thanh toán. Tuy nhiên, với thẻ JCB, ngân hàng có thể triển khai việc phát hành thẻ khi có đủ điều kiện. Qua một thời gian, nghiệp vụ thẻ phát triển rất nhanh đòi hỏi phải có bộ phận chuyên trách quản lí và làm đầu mối triển khai các công việc về thẻ. Tháng 5/1998, Phòng Thanh toán Thẻ thuộc Sở giao dịch Trung ương được tách ra thành hai phòng với các chức năng khác nhau: Phòng quản lí Thẻ Trung ương và Phòng Thanh toán Thẻ tại Sở giao dịch. Phòng Quản lý Thẻ Trung ương thực hiện nhiệm vụ thông tin, hướng dẫn chủ trương chính sách, quản lý nghiệp vụ và là trung tâm xử lý các giao dịch phát hành và thanh toán thẻ trong toàn hệ thống. Phòng Thanh toán Thẻ của Sở giao dịch, cũng như các bộ phận thanh toán thẻ tại các chi nhánh, trực tiếp giao dịch với khách hàng để thực hiện các thủ tục phát hành, thanh toán, tiếp thị, mở rộng thị trường tại các khu vực địa bàn Hà Nội. 2. Thực trạng hoạt động phát hành thẻ tại NHNT 2.1. Cơ sở pháp lý NHNT Việt Nam phát hành và thanh toán thẻ phù hợp với các quy định của Quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ban hành kèm theo Quyết định số 371/1999/QĐ-NHNN1 ngày 19/10/1999, hợp đồng ký kết giữa NHNT và các tổ chức thẻ quốc tế, các quy định và luật lệ hiện hành của các tổ chức thẻ quốc tế và luật pháp của nước CHXHCN Việt Nam. Mọi hoạt động liên quan đến phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ tại NHNT đều phải tuân thủ theo quyết định số 72 QĐ/NHNT/QLT của Tổng Giám đốc NHNT Việt Nam ban hành ngày 21/08/2000 và Nghị quyết số 86/NQ-NHNT-HĐQT ngày 24/7/2000 của Hội đồng quản trị NHNT. Kèm theo quyết định số 72 nêu trên là “Hướng dẫn quy trình nghiệp vụ phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ”. Những căn cứ này nhằm thống nhất quy trình thực hiện và theo dõi nghiệp vụ phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ trong toàn hệ thống NHNT Việt Nam; phù hợp với thông lệ phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ trên thế giới và nhằm nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. 2.2. Phát hành thẻ 2.2.1. Những quy định chung Loại thẻ phát hành: *Theo Quyết định số 72 QĐ/NHNT/QLT, NHNT phát hành 3 loại thẻ: -Thẻ tín dụng: cho phép chủ thẻ sử dụng thẻ trong hạn mức tín dụng tuần hoàn được cấp và chủ thẻ phải thanh toán ít nhất mức trả nợ tối thiểu vào ngày đến hạn. Đây là một hình thức chi tiêu trước, trả tiền sau với thời hạn ưu đãi không thu lãi từ 10 ngày đến 45 ngày. Khách hàng có thể thanh toán một phần (20%) hoặc toàn bộ số tiền đã chi tiêu vào cuối mỗi kỳ tín dụng theo sao kê hàng tháng.Thẻ tín dụng do NHNT phát hành gồm 2 loại: 1. Thẻ cá nhân: Được phát hành cho các cá nhân có nhu cầu và đáp ứng đầy đủ điều kiện phát hành thẻ. Chủ thẻ chịu trách nhiệm thanh toán các chi tiêu về thẻ bằng nguồn tiền của bản thân mình. Thẻ cá nhân có 2 loại: thẻ chính và thẻ phụ, trong đó thẻ chính do cá nhân đứng tên xin phát hành thẻ cho chính mình sử dụng và cá nhân đó là chủ thẻ chính. Chủ thẻ chính có thể đứng tên xin phát hành thẻ phụ cho người khác sử dụng (chủ thẻ phụ) và chịu trách nhiệm thanh toán toàn bộ các khoản chi tiêu của chủ thẻ phụ. 2. Thẻ cá nhân do công ty uỷ quyền sử dụng: Được phát hành cho các cá nhân thuộc một tổ chức, công ty đứng tên xin phát hành thẻ và ủy quyền cho cá nhân đó sử dụng thẻ, việc uỷ quyền này phải được nói rõ trong đơn xin phát hành thẻ. Tổ chức, công ty xin phát hành chịu trách nhiệm thanh toán các khoản chi tiêu thẻ bằng nguồn tiền của tổ chức, công ty đó. Cá nhân được uỷ quyền sử dụng thẻ công ty không được phép phát hành thẻ phụ. -Thẻ rút tiền tự động (thẻ ATM): là loại thẻ ghi nợ cho phép chủ thẻ sử dụng thẻ để rút tiền mặt từ tài khoản của chủ thẻ tại các máy rút tiền tự động (ATM) hoặc sử dụng các dịch vụ khác do máy ATM cung ứng. *Thẻ tín dụng do Ngân hàng Ngoại thương phát hành gồm 2 hạng thẻ: -Thẻ vàng: là thẻ có hạn mức tín dụng cao, tối đa 90 triệu đồng, tối thiểu 50 triệu đồng. -Thẻ chuẩn: là thẻ có hạn mức tín dụng thấp hơn hạn mức tín dụng tối thiểu của thẻ vàng, từ 10 triệu đến 50 triệu đồng. Đối tượng phát hành -Các cá nhân được uỷ quyền xin phát hành và sử dụng thẻ bởi các tổ chức, công ty: các cơ quan nhà nước, đoàn thể, các doanh nghiệp, tổ chức quốc tế, cơ quan ngoại giao và các tổ chức nước ngoài khác tại Việt Nam. -Các cá nhân người Việt Nam, người nước ngoài ở Việt Nam có nguyện vọng và đáp ứng các điều kiện sử dụng thẻ do NHNT quy định. Điều kiện phát hành: Các chủ thể xin cấp và sử dụng thẻ tín dụng trên cơ sở tín chấp phải có đủ năng lực tài chính trả nợ khoản tín dụng đã sử dụng cùng lãi và phí phát sinh. Đối với các cá nhân là đại diện cho các tổ chức, công ty: tổ chức, công ty có tình hình tài chính lành mạnh, không có nợ vay quá hạn với NHNT. Đối với cá nhân khác: có thu nhập ổn định, có uy tín. Những tổ chức, công ty và cá nhân có thế chấp, cầm cố hoặc ký quỹ thì không phải đáp ứng các yêu cầu trên. Tuỳ theo tình hình tài chính và mức độ tín nhiệm của khách hàng đối với NHNT, giám đốc chi nhánh có quyền quyết định yêu cầu và tỷ lệ thế chấp, cầm cố hoặc ký quỹ. Tất cả các tổ chức, công ty muốn phát hành thẻ tín dụng phải mở tài khoản tiền gửi tại NHNT hoặc các NHTM khác tại Việt Nam. Nguyên tắc cho vay đối với chủ thẻ tín dụng -Tín dụng thẻ là loại tín dụng tuần hoàn. Số tiền vay thực tế được xác định bằng số dư nợ cuối kỳ. Sau khi đã trả toàn bộ dư nợ cuối kỳ, hạn mức tín dụng thẻ sẽ tự động lặp lại như cũ. -Dư nợ cuối mỗi kỳ sao kê phải được trả ít nhất bằng mức trả nợ tối thiểu chậm nhất vào ngày đến hạn thanh toán kỳ sao kê đó. -Mức trả nợ tối thiểu = 20% số dư nợ cuối kỳ sao kê + mức trả nợ tối thiểu của kỳ sao kê trước chưa trả + số tiền sử dụng vượt hạn mức tín dụng trong kỳ (nếu có). -Khi thẻ hết hạn hiệu lực, bị thu hồi hoặc chấm dứt sử dụng thẻ, chủ thẻ có trách nhiệm thanh toán toàn bộ số dư nợ của các giao dịch phát sinh và các chi phí liên quan cho đến ngày chấm dứt sử dụng thẻ. Lãi cho vay: tín dụng thẻ áp dụng mức lãi suất cho vay do Ngân hàng thông báo theo từng thời kỳ. Để khuyến khích việc sử dụng, thanh toán thẻ và hoàn trả nợ, Ngân hàng ưu đãi miễn lãi đối với những khách hàng thanh toán toàn bộ số dư nợ cuối kỳ chậm nhất vào ngày đến hạn thanh toán. Cách tính lãi và ưu đãi lãi được áp dụng cụ thể đối với các loại giao dịch sau: -Giao dịch thanh toán hàng hoá, dịch vụ: Khi đến hạn thanh toán, nếu chủ thẻ trả toàn bộ số dư nợ cuối kỳ thì Ngân hàng sẽ ưu đãi miễn lãi trong kỳ cho chủ thẻ. Nếu chủ thẻ chỉ trả một phần số dư nợ cuối kỳ, Ngân hàng sẽ không tiếp tục tính lãi đối với số dư nợ đã thanh toán và tính lãi đối với số dư còn lại kể từ ngày trả nợ. Lãi được tính trên cơ sở số dư cuối ngày cập nhật vào hệ thống quản lý thẻ và được thể hiện trên sao kê ngay kỳ tiếp theo. -Giao dịch ứng tiền mặt: Khi thực hiện giao dịch rút tiền mặt, chủ thẻ phải chịu phí ứng tiền mặt và lãi ngay từ ngày giao dịch được cập nhật vào hệ thống quản lý thẻ tính đến ngày sao kê. Khoản lãi này thể hiện ngay trong kỳ sao kê đó. Đến hạn thanh toán, nếu chủ thẻ trả toàn bộ số dư nợ cuối kỳ đúng hạn, NHNT sẽ miễn lãi từ ngày sao kê đến ngày chủ thẻ trả nợ. Nếu chủ thẻ không trả hoặc chỉ trả một phần số dư nợ cuối kỳ, ngân hàng sẽ tiếp tục tính lãi trên số tiền chưa thanh toán như đối với các giao dịch hàng hoá dịch vụ kể từ ngày sao kê và khoản lãi này thể hiện tiếp trên sao kê kỳ tiếp theo. -Giao dịch tra soát: Lãi và phí phạt đối với các giao dịch tra soát của chủ thẻ chưa thanh toán cũng được tính theo nguyên tắc trên. Ngân hàng sẽ hoàn lại lãi và phí phạt cho khách hàng đối với những giao dịch có khiếu nại, tra soát đúng. 2.2.2. Thực trạng nghiệp vụ phát hành thẻ tại NHNT Hoạt động phát hành thẻ của NHNT được triển khai đã 9 năm nhưng nó vẫn còn là một nghiệp vụ nhỏ trong hoạt động của toàn Ngân hàng. Lợi nhuận thu được từ nghiệp vụ này chưa được thống kê chính xác vì một số chi phí của nó chưa được hạch toán riêng, vẫn còn nằm trong chi phí của hoạt động thanh toán quốc tế nên chỉ định giá được hiệu quả của hoạt động này thông qua số phí thu được từ doanh số phát hành thẻ. Hiện nay hầu hết số phí thu được được dùng để tái đầu tư cho hoạt động thẻ. Do đó, hoạt động này chưa đóng góp được nhiều vào lợi nhuận của toàn NHNT. Tương lai hoạt động kinh doanh thẻ sẽ còn phát triển khi kinh tế phát triển, thu nhập của dân cư tăng lên sẽ đem lại nhiều lợi ích rõ rệt hơn cho VCB. 2.2.2.1.Tình hình phát hành thẻ NHNT là ngân hàng đi tiên phong trong lĩnh vực kinh doanh thẻ, đồng thời là ngân hàng đầu tiên ở Việt Nam tiến hành phát hành thẻ. Tính đến nay, Ngân hàng đã phát hành Master Card được 6 năm và thẻ Visa được 4 năm. Trong 9 năm trên lĩnh vực phát hành, số lượng thẻ được phát hành cũng như doanh số sử dụng thẻ đã có sự tăng lên đáng kể qua từng năm. Khoảng thời gian từ 1995 trở về trước, trong những bước đi chập chững ban đầu, Ngân hàng chỉ phát hành được 302 thẻ trong vòng gần 3 năm. Bắt đầu từ năm 1996, tình hình phát hành thẻ tại Ngân hàng có những bước tiến rõ rệt. Bảng: Tình hình phát hành và sử dụng thẻ tại VCB từ 1998 - 2001 Đơn vị: số thẻ: chiếc Doanh số: tỷ VND 1998 1999 2000 2001 Tổng Visa 1.050 698 1.143 2.431 5.322 Master 280 603 184 626 1.693 Tổng số thẻ phát hành 1.330 1.301 1.327 3.057 7.015 Doanh số sử dụng thẻ 38 61 69,34 125,16 293,5 (Nguồn: Phòng Quản lý thẻ NHNT) Năm 1998 là năm đầu tiên NHNT phát hành thẻ Visa. Thẻ Visa xuất hiện là một trong những nguyên nhân làm giảm số lượng thẻ Master được phát hành. Visa Card là loại thẻ nổi tiếng trên thế giới, với mạng lưới CSCNT không thua kém gì thẻ Master. Sự chuẩn bị kỹ lưỡng (2 năm) cùng với kinh nghiệm phát hành Master Card làm cho thẻ Visa ngay trong năm đầu tiên phát hành đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường với số lượng phát hành tăng lên đến con số 1.050 thẻ gấp 3,8 lần so với thẻ Master. Đây là thành công lớn của Ngân hàng trong bước đầu thực hiện phát hành Visa Card. Cũng từ năm 1998, Ngân hàng tập trung phát hành 2 loại thẻ tín dụng quốc tế nói trên. Thẻ Visa với những tiện ích trong sử dụng (về chi phí sử dụng,CSCNT) nên được ưa chuộng hơn so với Master Card. Mặt khác khách hàng sử dụng thẻ Visa cảm thấy tự tin hơn vì thực tế thẻ Visa tiêu ở nước ngoài ít bị từ chối hơn thẻ Master. Các năm sau đó, số lượng thẻ Visa vẫn tiếp tục cao hơn so với Master Card. Biểu: Số lượng thẻ phát hành qua các năm của VCB (1998-2001) Năm 1999, số lượng thẻ Visa do NHNT phát hành giảm, chỉ còn 53% so với năm 1998, trong khi số lượng thẻ Master lại tăng lên đáng kể. Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này là do máy in thẻ Visa bị hỏng không khắc phục được trong vòng 2 tháng cuối quý III buộc khách hàng phải chuyển sang sử dụng thẻ Master hoặc chuyển sang ngân hàng khác. Việc một số lượng khách hàng chuyển từ thẻ Visa sang Master Card là một dấu hiệu đáng mừng, cho thấy Ngân hàng đã tạo được một lực lượng khách hàng trung thành, nhưng máy hỏng cũng làm cho VCB mất đi một lượng khách lớn, làm chậm một bước quá trình phát triển và mở rộng thị phần của Ngân hàng. Cũng trong năm 1999, mặc dù tổng số lượng thẻ phát hành giảm 2,18% so với năm 1998 nhưng doanh số sử dụng thẻ lại tăng lên 60,53%. Có được kết quả này là do đầu năm 1999, Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng cơ chế điều hành tỷ giá mới thông qua việc bãi bỏ công bố tỷ giá cố định mà chỉ công bố tỷ giá bình quân trên thị trường liên ngân hàng của ngày hôm trước với biên độ dao động là 0,1%. Tỷ giá giữa USD và VND tại thời điểm cuối năm 1999 chỉ tăng 7,94% so với đầu năm. Theo quy định của NHNT, đến kỳ trả nợ thẻ tín dụng, khách hàng phải hoàn trả những giao dịch thẻ sử dụng ngoại tệ bằng đồng tiền Việt Nam nên tỷ giá tương đối ổn định đã tạo động lực thêm cho khách hàng tăng giá trị giao dịch sử dụng thẻ tín dụng của NHNT. Ngoài ra, việc Ngân hàng tăng cường công tác tiếp thị thẻ, mở rộng mạng lưới CSCNT và tình hình kinh tế xã hội Việt Nam ổn định, thu nhập người dân được nâng cao cũng làm tăng giá trị giao dịch sử dụng thẻ. Biểu: Doanh số chi tiêu của chủ thẻ của VCB (1998-2001) Sang đến năm 2000, tổng số thẻ vẫn dừng lại ở con số 1.327 chiếc. Tuy nhiên, số lượng thẻ Visa đã có dấu hiệu phục hồi so với trước, đạt 1.143 tăng 63,75% so với năm 1999 do máy in thẻ Visa đã được sửa chữa khắc phục. Nhưng số thẻ Master lại giảm rõ rệt từ 603 thẻ năm 1999 xuống chỉ còn 184 thẻ. Trong năm 2000, xu hướng khách hàng ưa thích dùng thẻ Visa hơn là thẻ Master và số lượng khách hàng sử dụng thẻ Master đã chuyển dần sang thẻ Visa. Điều này có nhiều nguyên nhân nhưng có thể khái quát thành 2 nguyên nhân chính. Thứ nhất là bắt đầu từ năm 2000, chủ thẻ sử dụng thẻ Visa do NHNT phát hành ngoài hệ thống VCB, các giao dịch chi tiêu hàng hoá, dịch vụ hoặc ứng tiền mặt của chủ thẻ sẽ được tổ chức thẻ quốc tế báo nợ cho ta. Trị giá báo nợ mỗi giao dịch bằng trị giá trên hoá đơn quy ra USD tương đương theo tỷ giá hàng ngày cộng phí phòng ngừa rủi ro. Trước đây, phí phòng ngừa rủi ro trong chuyển đổi ngoại tệ là 1% (đối với các loại thẻ), nay đối với thẻ Visa phí này được tính thấp hơn 1% giá trị giao dịch nên khách hàng sử dụng Visa Card sẽ phải thanh toán ít hơn trước kia. Thứ hai là trong năm 2000, NHNT phát hành thẻ Visa có in ảnh chủ thẻ lên thẻ, điều này phù hợp với sở thích của khách hàng khi dùng thẻ. Do đó, xu hướng năm 2000 khách hàng hầu hết chuyển sang sử dụng thẻ Visa. Năm 2001, tổng số thẻ phát hành cho cả 2 loại thẻ Visa và Master là 3.057 thẻ, tăng 130%, đưa tổng thẻ từ khi phát hành đến nay của Ngân hàng là hơn 9.000 thẻ. Số thẻ phát hành tăng lên nhiều là do Ngân hàng đã tìm cách khắc phục được những nguyên nhân yếu kém trước đây, cải tiến công nghệ, đầu tư nhân lực, trí tuệ, nâng cao trình độ nghiệp vụ nhằm mục tiêu đem đến cho khách hàng một chất lượng dịch vụ cao hơn. Cụ thể là máy in thẻ ít bị hỏng vặt, chất lượng in thẻ đảm bảo hơn, đẹp hơn, không còn tình trạng ảnh chủ thẻ bị hỏng, phai mờ như trước đây, cho phép NHNT tăng thời hạn hiệu lực của thẻ lên 2 năm theo nguyện vọng của các chủ thẻ. Doanh số sử dụng thẻ năm 2001 tăng đột biến (80%), gần gấp đôi năm 2000 chứng tỏ đến nay có khá nhiều chủ thẻ đã coi tấm thẻ do VCB phát hành như một công cụ thanh toán hữu hiệu cho đời sống sinh hoạt của họ. Vì đối tượng sử dụng thẻ ở nước ta còn rất hạn chế, chỉ tập trung vào những đối tượng là người thường xuyên đi công tác nước ngoài, người có thu nhập cao, có điều kiện tiếp xúc với các thương phẩm điện tử, những người nước ngoài du lịch, vào công tác hay làm việc tại Việt Nam, nên doanh số sử dụng thẻ trong những năm qua không cao. Tổng doanh số sử dụng thẻ do NHNT phát hành chỉ đạt được 293,5 tỷ đồng. Khách hàng sử dụng thẻ chủ yếu ở nước ngoài, chiếm tỷ lệ 75% tổng doanh số sử dụng thẻ. Mặc dù vậy, tỷ lệ tăng trưởng trung bình doanh số sử dụng thẻ khá cao đạt tới 51,57%. 2.2.2.2.Thu nhập từ hoạt động phát hành thẻ tín dụng: Kết quả hoạt động phát hành thẻ tín dụng tại NHNT phần nào đã đư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docJ0024.doc
Tài liệu liên quan