Đây là một nội dung quan trọng bậc nhấy trong công việc trả công cho người lao động ở Doanh nghiệp tư nhân. tuỳ thuộc ở trình đọ, tự nâng cao vị thế của bản thân, những người lao động phối hợp có hiệu quả với sự điều tiết ở tầng vĩ mô và sự kiểm tra, kiểm soát của tỉnh. Khi tổ chức công đoàn được thành lập và hoạt động cũng rất có lợi cho chủ doanh nghiệp khi thực hiện đúng, đầy đủ nội dung của thoả ước liên doanh tập thể, lúc đó sẽ biết rõ được tình hình tâm lý, ý kiến từ phía người lao động và các biện pháp điều chỉnh hợp lý.
Trong thực tế các Doanh nghiệp tư nhân hiện nay ngoài việc bảo đảm quyền lợi cho người lao động trên cơ sở nguyên tắc về mặt pháp lý các doanh nghiệp cũng nên phải tạo sự dân chủ hơn nữa cho người lao động trên mặt tình cảm của con người. Để thực hiện điều này cần có một số biện pháp sau:
Trong điều kiện khoa học và công nghệ ngày càng hiện đại và sự thay đổi nhanh chóng của thị trường, việc thu hút người lao động vào quá trình tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh là một xu hướng khách quan. Trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá việc áp dụng công nghệ hiện đại trong các doanh nghiệp đòi hỏi kết quả lao động tuỳ thuộc vào cả một tập thể sản xuất chứ không phải vào năng suất cá biệt. Do vậy, những hình thức tổ chức và động viên tập thể người lao động cần được hêt sức quan tâm. Trong các Doanh nghiệp tư nhân công tác này chưa được thực hiện tốt. Vì vậy cần thu hút người lao động vào qúa trình tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh dưới hình thức đại hội công nhân viên, hộp thư góp ý của người lao động trong doanh nghiệp. Đa dạng các hình thức thông tin, bảo đảm thông tin kịp thời và chính xác giữa giám đốc và người lao động, giữa giám đốc và các tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp.
55 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2487 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiền công - Thu nhập của người lao động ở doanh nghiệp tư nhân trên địa bàn Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lương-tiền công cùng với sở LĐTB- XH đối với các DNTN cho thấy. Thu nhập của người lao động bình quân ở các DNTN năm 2000 là 549,4 ngàn/tháng. Mức thu nhập này chỉ bằng 81,39% tức là thấp hơn 1,23 lần so với mức thu nhập của các DNNN và chỉ bằng 43,6% hay thấp hơn 2,29 lần so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở cùng thời điểm. Thu nhập bình quân lao động, trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài năm 2000 là 115USD/người /tháng, vì mức thu nhập bình quân của các DNNN năm 2000 là 675 ngày /tháng.So với năm 1999 thu nhập bình quân của người lao động năm 2000 đã tăng 14,14% (bình quân thu nhập năm 1999 là 481 ngàn đồng/thang). con số này nói lên tốc độ tăng thu nhập giữa các năm 1999 và 2000 là khá lớn. So với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng thu nhập bình quân giai đoạn 1998-2000 là 5,8% năm.Nhưng đó chỉ là so sánh tương đối giữa các mốc thời gian. Còn nếu xét về qui mô thu nhập bình quân như trên thì vẫn còn thấp.
Ta có thể thấy được tình hình thu nhập của người lao động từng ngành qua bảng dưới đây.
Bảng 3 : thu nhập bình quân của ngành thuộc doanh nghiệp
tư nhân
Đơn vị : ngàn đông /người /tháng
Ngành
1999
2000
2000/1999
Min
Max
1-Chế biến lâm sản
2-Cơ khí
3-Dệt May
4-Chế biếnLTTP
5-Xây dựng cơ bản
6-Sành sứ-thuỷ tinh
7-Dịch vụ khác
445,6
392,9
344,0
906,6
369,6
451,6
469,0
601,2
586,8
457,9
569,3
406,6
515,8
728,0
1,348
1,194
1,331
0,605
1,100
1,142
1,552
310
211
190
227
201
235
363
795
650
997
897
1.686
1190
1059
Chung
481,3
549
1,141
190
1686
Nguồn : Thống kê các DNTN của Sở LĐTB- XH năm 2000
Xem xét các mức thu nhập của người lao động trong bảng trên ta thấy.
Ngành xây dựng cơ bản có ức thu nhập bình quân đầu người là thấp nhất chỉ đạt 406,6 ngàn đồng/ tháng.Ngành có mức thu nhập bình quân cao nhất là ngành dịch vụ, với mức thu nhập bình quân đạt 728ngàn/ tháng năm 2000. Đây là một sự yếu kém về trình độ, kết quả hoạt động của các DNTN trong ngành xây dựng và ngành Dệt -May. Do yêu cầu đòi hỏi về mặt kỷ luật, vốn , cơ sở vật chất ban đầu cho các công trình xây dựng hoặc đô thẩm mỹ chất lượng, giá cả cho các sản phẩm may dệt, mà các DN trong các ngành này chưa đáp ứng được. Thực tế một vài năm trở lại đây khi thực hiện nền kinh tế mở, các hàng may mặc tràn vào Việt Nam có nhiều. Hàng về từ Trung Quốc, Đài Loan... với giá cả mẫu má hợp thời trang làm cho ngành dệt của Việt Nam nói chung và Thanh Hoá nói rêng, không có khả năng cạnh tranh về công nghệ thủ công , máy móc lạc hậu là chủ yếu, nhiều cơ sở sản xuất đã phải đóng cửa, kết quả sản xuất kinh doanh kém, thu nhập người lao động thấp. Còn ngành dịch vụ với sự linh động trong cung cách quản lý, phục vụ tận tình của các DNTN trong ngành dịch vụ đã đáp ứng tốt các yêu cầu của khách hàng và nâng cao thu nhập cho người lao động.
Nhìn lại những năm trước, năm 1999 đa số các ngành đều tăng thu nhập với tốc độ đáng kể. Và tốc độ tăng thu nhập bình quân (năm 2000 so với 1999) lớn nhất vẫn thuộc về ngành dịch vụ, với tốc độ là 55,2%. Riêng ngành chế biến lương thực thực phẩm có mức thu nhập đứng đầu năm 1999 nhưng đến năm 2000 thì thu nhập của ngành lại giảm 39,5% so với năm 1999. Nguyên nhân chủ yếu ở đây là do đặc điểm của ngành. Ngành chế biến LTTP là ngành cần nhiều nguyên vật liệu, giá trị cao trong cơ cấu giá trị của sản phẩm sau khi đã chế biến- Tức là nó đã bao hàm giá trị lao động qúa khú rất lớn, lao động sống ít hơn các ngành khác. năm 1999 chủ doanh nghiệp trong các ngành chế biến lương thực thực phẩm đầu tư cho ngành với vốn bình quân là 42227,52 triệu đồng, và năm 2000 đã tănglên 9105,4 triệu đồng. Trong khi đó lao động không đổi chi phí lao động vật hoá lớn, doanh thu có tăng từ 1243 triệu đồng năm 1999 lên 2282,5 triệu đồng năm 2000 và lợi nhuận bình quân doanh nghiệp ngành này rất thấp. Năm1999. -11,4 triệu đồng, năm 2000 có tăng lên 32 triệu và lợi nhuận bình quân lao động năm 1999 là -0,14 triệu. Năm 2000 là 0,31 triệu đồng. Như vậy so với các ngành khác thì lợi nhuận của ngành chế biến lương thực thực phẩm là rất thấp. Thậm chí còn bị lỗ năm 1999 kết quả năm 1999 đã dẫn tới và keo sang năm 2000 sau khi tổng kết lại và thu nhập của người lao động bị giảm xuống .
Qua bảng cũng cho ta thấy mức chênh lệch về thu nhập của người lao động giữa các ngành và trong từng ngành cũng rất lớn. Doanh nghiệp có mức bình quân thu nhập cao nhất là 1686 ngàn đồng /lao động/ tháng, thuộc về ngành xây dựng. Doanh nghiệp có mức thu nhập 190 ngàn/lao động /tháng là thấp nhất thuộc về ngành Dệt-may. Giữa các ngành chênh lệch giữa các doanh nghiệp có mức bình quân thu nhập cao nhất và thấp nhất là 8,87 lanà (Giữa 1686 và 190 ngàn đồng) Trong ngành xây dựng là ngành có sự chênh lệch về thu nhập lớn nhât . Giữa doanh nghiệp có mức thu nhập bình quân 1686 ngàn đồng và thấp nhất là 201 ngàn đồng hay chênh lệch 8,39 lần và ngành cơ khí là có mức thu nhập chênh lệch nhỏ nhất 2,56 lần. (giữa 795 ngàn và 310 ngàn).
Như vậy, sự chênh lệch quá nhiều về thu nhập của người lao động ở trên làm cho sự cách biệt về giàu nghèo trong tập thể lao động nói riêng và các tầng lớp dân cư nói chung ngày công lớn.
b) Thu nhập của người lao động theo vùng:
Do phong tục tâp quán, trình độ quản lý trong doanh nghiệp , lợi thế của từng vùng ... khác nhau mà ảnh hưởng tới việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và từ đó ảnh hưởng tới tiền công- thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp ở các vùng Miền Núi, Đồng Bằng, Đồng bằng ven biển và Thành phố, Thị xã là khác nhau. Ta có thể thấy được sự chênh lệch đó qua bảng sau:
Bảng 4 :Thu nhập bình quân Lao động theo vùng
Đơn vị : Ngàn đồng /tháng
Vùng
1999
2000
2000/1999
Min
Max
1-Miền núi
2.Đồng bằng ven biển
3-Thành phố-Thị xã
467,20
432,00
548,07
477,1
467,7
683,3
1,022
1,083
1,247
228
297
201
795
894
987
Chung
481,3
549,4
1,141
201
987
Nguồn:Báo cáo tổng hợp số liệu điều tra của sở LĐTB-XH năm 2000
Qua bảng cho ta thấy mức thu nhập bình quân lao động là khác nhau giữa các vùng. Miền núi, đồng bằng, Thành phố, thị xã .Năm 1999, mức thu nhập bình quân cao nhất thuộc về Thành phố -thị xã với mức thu nhập bình quân là 548,7 ngàn đồng, cao gấp 1,17 lần so với thu nhập bình quân ở miền núi. (467,2 ngàn/ tháng) và cao hơn 1,26 lần bình quân lao động ở đồng bằng (432 ngàn /tháng)
Đến năm 2000 mức thu nhập bình quân lao động ở Thành phố - Thị xã vẫn là cao nhất, đạt 683,3 ngàn đồng/tháng cao gấp 1,46 lần thu nhập bình quân của đồng bằng và 143 lần ở miền núi. So với năm 1999 mức thu nhập bình quân ở Thành phố thị xã tăng 24,7%. miền núi 2,2%; đồng bằng 8,3%; điều đó cho thấy các DNTN ở Thành phố, Thị xã hoạt động có hiệu quả hơn, đời sống của người lao động cao hơn ở các doanh nghiệp ở Miền núi và đồng bằng. Nguyên nhân cơ bản dẫn đến điều này là do mức đầu tư vốn cho sản xuất kinh doanh của các DNTN ở thành phố -Thị xã cao hơn , công nghệ hiện đại hơn, trình độ chủ doanh nghiệp cao hơn, cơ chế thị trường phát triển mạnh hơn và năng động hơn các vùng còn lại.
c- Thu nhập của người lao động theo vùng và ngành.
Để phản ánh rõ hơn về tình hình thu nhập của người lao động trong các ngành, các vùng khác nhau ta có bảng số liệu tổng hợp sau :
Bảng 5. Thu nhập bình quân lao động theo vùng , ngành .
Thành phố - thị xã
Đồng bằng ven biển
Miền núi
Vùng
2000
1999
2000
1999
2000
1999
2000
1999
Ngành
1-Cơ khí
2-Chế biến lâm sản
3-Dệt -May
4-Chế biên lươngTTP
5-Xây dựng cơ bản
6-Sành xứ-thuỷ tinh
7-Dịch vụ khác
374,4
374,4
221,3
926,7
354,4
469,5
457,1
532,2
436,8
318,0
552,1
373,0
442,0
685,6
403,0
295,4
295,4
817,8
323,7
401,0
351,0
519,7
594,0
285,6
438,1
354,5
461,2
623,0
567,0
494,3
482,0
972,5
355,0
491,3
528,4
729,3
661,2
724,0
676,5
497,3
623,7
871,1
Chung
467,2
477,1
432,0
467,7
548,1
683,3
Nguồn : Tổng hợp từ kêt quả điều tra năm 2000 của sở LĐTB-XH
Qua bảng trên ta thấy trong hầu hết các ngành nghề thì thu nhập của người lao động trong các nganhf thuộc khu vực thành phố - Thị xã vẫn cao hơn cả. Sau đó đến Miền Núi và đồng bằng và đồng bằng ven biển. Trong đó đồng bằng là có thu nhập thấp nhất. Điều đó cho chúng ta thấy cùng một đất nước, cùng chịu quảnlý của chính sách nhà nước, nhưng các DNTN trong các ngành nghề ở thành phố- thị xã hoạt động tốt hơn trong cơ chế thị trường bởi lịch sử thành lập phần kinh tế tư nhân ở Thành phố thị xã phát triển lâu hơn, nền kinh tế tư nhân ở thành phố thị xã phát triển lâu hơn, nền kinh tế tư bản tư nhân tồn tại và tác động mạnh hơn tới nền kinh tế của thành phố -Thị xã.
2.Cơ cấu thu nhập của người lao động trong các doanh nghiệp tư nhân
Như trên đã nêu, thu nhập của người lao động bao gồm hai phần Tiền công chính và các khoản khác. Trong đó tiền công thường chiếm 1 tỷ trộng ( khoảng 96% trong thu nhập của nguồnlao động). Tiền công hàng tháng là số tiền tối thiểu của chủ DN phải trả cho người lao động theo thoả thuận. Nó không phụ thuốc vào kết quả sản xuất kinh doanh của DN. Các khoản thu khác ở đây là tiền công phân phối lân thứ 2 do trích một phần lợi nhuận thu được từ kết quả làm việc của người lao động, trợ cấp ốm đau phụ cấp thêm giờ... Nó phụ thuộc rất nhiều vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp .
Tuỳ theo điều kiện của từng ngành, từng vùng, đặc điểm về phong tục tập quán. Thời điểm mà doanh nghiệp thay đổi thu nhập của người lao động với tỷ trọng các bộ phận cho hợp lý, nhằm khai thác tối đa, có hiệu quả, tinh thần lao động của người lao động cũng như điều chỉnh phù hợp với qui định của pháp luật hiện hành.
Hiện nay tuy không quản lý chặt chẽ trong việc hạch toán sản xuất kinh doanh nhằm bảo đảm tính tự chủ cho các doanh nghiệp . Nhưng nhà nước ta đã auy định các doanh nghiệp phải có chế độ tiền thưởng cho người lao động, được trích ra từ lợi nhuận dòng ít nhất là 10% nhưng đến nay, hầu hết các doanh nghiệp chưa thực hiện các quy định này. Trong vấn đề phụ cấp tiền công các doanh nghiệp đã gián tiếp gắn vào tiền côngchính khi giao kết hợp đồng về công việc và điều kiện làm việc. Năm 2000 cácDNTN đã áp dụng cơ cấu quy thu nhập sau để trả công cho người lao động.
Bảng 6. Cơ cấu quĩ thu nhập theo ngành .
Đơn vị : %
Ngành
1999
2000
Tiền công
Các khoản
Tiền công
Khoản thu khác
Cơ bản
Khác
Cơ bản
Tiển
Thưởng
Phụ cấp
Khoản
khác
1-Cơ Khí
2.Chế biến lâm sản
3- Dệt -Ma
4-chếbiến LTTP
5- Xây dựng
6-Sành sứ-thuỷ
tinh
7-Dịch vụ khác
92,7
99,1
98,9
90,7
97,8
99,8
86,4
7,3
0,9
1,1
9,3
2,2
0,2
13,6
94,1
98,9
99,5
89,8
96,9
99,9
95,4
1,70
0,60
0,50
7,40
0,90
0,05
10,20
3,00
0,50
0,00
1,10
1,95
0,05
0,09
1,20
0,00
0,00
1,70
0,25
0,00
4,31
Nguồn : Tổng hợp báo cáo hàng năm của sở LĐTB-XH.
Qua bảng trên ta thấy cơ cấu thu nhập của người lao động không có sự khá biệt lớn giữa các năm 1999 và 2000. Thu nhập từ tiền công cơ bản chiếm tỷ trọng lớn. Bình quân năm 2000 bộ phận này chiếm tới 96,4% trong khi các thu nhập khác chỉ có 3,6%. Sử dụng cơ cấu thu nhập này để trả công cho người lao động đó cũng là điểm khác so với thu nhập của DNNN và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Trong ngành khác nhau, điều kiện làm việc khác nhau tính chất phức tạp của công việc đòi hổi tình thần và trách nhiệm, sự cố gắng khác nhau từ đó các DNTN đã biết cách điều chỉnh thu nhập theo từng ngành.
Ngành dịch vụ là ngành có tỷ lệ phần thu nhập khác cao nhất chiếm 13,6% trong tổng số thu nhập, sau đó đến ngành chế biến lương thực thực phẩm 9,3% và thấp nhất là ngành sành sứ thuỷ tinh chiếm 0,2% cơ cấu này đã khuyến khích người lao động làm việc có hiệu quả hơn trong thời giờ làm viêcj và giảm bớt tính bình quân trong công việc tác trả công cho người lao động, tuy nhiên cơ cấu thu nhập này chưa phù hợp với thực tế, thực tế về tạo động lực cho người lao động. vì vậy chưa khai thác tối đa khả năng tiềm tàng của người lao động, năng suất hiệu quả công việc cao.
III- Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến tiền công- thu nhập của người lao động ở DNTN Thanh Hoá.
1- Tiền công lao động và thời gian làm việc.
Mục tiêu của chủ DNTN nói riêng và chủ doanh nghiệp nói chung là tối đa hoá lợi nhuận - Khi đầu tư vốn tiến hành sản xuất kinh doanh, thuê nhân công, chủ doanh nghiệp đã phải tiến hành cân nhắc, xem xét có sự thoả thuận giữa đôi bên về số giờ làm thêm, không trả thêm lương mà chủ doanh nghiệp ấn định số giờ làm việc có thể xe dịch (thường là kéo dài thêm) đã làm cho nhân tố thời gian lao động ít ảnh hưởng tới tiền công, thu nhập của người lao động mà nhân tố ảnh hưởng ở đây chủ yếu là giá côn lao động.
Chúng ta có thể thấy giá cả sức lao động và thời gian làm việc ảnh hưởng tới tiền công qua khảo sát các DNTN ở Thanh Hoá
Bảng 7. Tiền cônglao động và thu nhập của người lao động
Trình độ người lao động
Tiền công LĐBQ/ngày
(ngàn đồng)
Tiền công LĐBQ /giờ
(ngàn đồng )
Tiền công
(ngàn đồng)
1-LĐ giản đơn trong DNDV(chạy bàn,bảo vệ)
2-LĐ giản đơn trong DNCN
3-LĐ có trình độ tay nghề TBình
4-LĐ có trình độ tay nghề cao
5-Các chuyên gia
13,571
14,423
30,673
44,230
61,538
1,3451
1,4717
3,5256
5,2035
7,6922
380
375
797,5
1150
1600
Chung
32,595
3,6217
860,5
Nguồn : tổng hợp từ kết quả khảo sát DNTN ở Thanh Hoá năm 2000
Nhìn qua bảng ta thấy mức giá cả sức lao động bình quân ngày của các loại lao động là 30,595 ngàn đồng và mức thu nhập bình quân tháng tương ứng là 860,5 ngàn đồng. Giá cả sức lao động phụ thuộc rất lớn vào trình độ chuyên môn kỹ thuật của người lao động, ở mỗi trình độ khác nhau sẽ có mức giá cả khác nhau và thu nhập nhận được cũng sẽ khác nhau. Với những người lao động không có trình độ chuyên môn, họ chỉ là những lao động giản đơn thì giá cả sức lao động tương ứng này chỉ là 13,57- 14,47 ngàn đồng/ ngày và tiền công nhận được là 375-380 ngànđồng /tháng. ở những lao động có trình độ trung bình và lao động có trình độ cao thì mức tiền công ngày của họ nhận được là 30,673 và 44,23 ngàn đồng /ngày và thu nhập cả tháng là 797,5 và 1150 ngàn đồng/ tháng. Đối với các chuyên gia, trình độ chuyên môn kỹ thuật là rất cao, tiền công giá cả sức lao động của họ là cao nhất đạt 61,538 ngàn đồng/ ngày và 1600 ngàn đồng/tháng.
Qua đây tay thấy giá cả sưc lao động tác động rất lớn đến tiền công, thu nhập của người lao động.
Nếu như chúng ta chỉ xét đến giá cả ngày càng tăng như trên thì ta thấy tiền công của người lao động là khá cao so với khu vực nhà nước. Nhưng thực tế thì không hẳn thế khi ta xét chế độ làm việc, thời gian lao động của người lao động. Đây là nhân tố gần như cố định, chỉ giao động chút ít, doanh nghiệp đã ấn định như vậy và người lao động làm việc ở mức độ đó thì mới đạt tiền công như trên. Bình quân lao động ở DNTN làm việc 9 giờ mỗi ngày và 26,4 ngày mỗi tháng. như vậy, mức tiền công giờ ở đây chỉ đạt 3,621 ngàn đồng, nếu như người lao động chỉ làm việc 8 giờ mỗi ngày và 25 ngày mỗi tháng thì tiền công họ nhận đưọc là 724,2 ngàn đồng /tháng chứ không phải là 860,5 ngàn đồng. Như vậy thời gian lao động ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của người lao động.
Tóm lại trong các DNTN hiện nay, tiền công thu nhập của người lao động
Tóm lại trong các DNTN hiện nay, tiền công thu nhập của người lao động là thấp so với chế độ làm việc hiện tại. Để nâng cao thu nhập cho người lao động ở các doanh nghiệp này thìkhông thể tăngthời gian làmviệc hơn nữa bởi nó cũng khá cao so với quy định của nhà nước. ở đây chỉ có cách là tăng giá công lao động bằng cách nâng cao trình độ lao động. Dùng các chính sách như của nhà nước về áp dụng mức tiền lương tối thiểu , các chế độ trợ cấp, phụ cấp tiền thưởng. Khi người lao động làm thêm giờ ( Những giờ cao hơn qui định của nhà nước) thì phải trả công cho người lao động theo quy định của pháp luật.
2- Giá trị sản lượng hay năng xuất lao động ảnh hưởng đến tiền công- thu nhập của người lao động
Giá trị sản lượng bình quân hay năng suất lao động của người lao động phản ánh chính xác giá trị sức lao động và ảnh hưởng tới tiền công- thu nhập của người lao động. Bởi vì giá trị sản lượng sản xuất ra hay năng suất lao động của người lao động phụ thuộc rất lớn vào trình độ kỹ thuật, kỹ năng, kỹ sảo của người lao động. Nên nó phản ánh giá trị thực của sức lao động. Trình độ càng cao thì mức năng xuấtlao động tạo ra công lớn và lúc đó tiền công -thu nhập càng nhiều. Doanh nghiệp sẽ không trả công cao hơn giá trị mức năng suất lao động của người lao động sau khi đã trừ đi chi phí cố định , nguyên vật liệu, nếu không Doanh nghiệp sẽ bị lỗ bị phá sản. đó cũng là nguyên tắc bảo đảm tốc độ tăng năng suất lao động phải cao hơn tốc độ tăng tiền công bình quân.
Quan hệ giữa các giá trị sản lượng bình quân hay năng suất lao động (đã bỏ đi phần chi phí ) và thu nhập của người lao động trong bảng sau.
Bảng 8 . Tốc độ tăng nắng suất lao động và tốc độ tăng tiền công bình quân
Ngành
Giá trị sản lượng Năm /LĐ (Triệu đồng)
Thu nhập của người lao động
Tốc độ tăngGTSLBQ
Tốc độ tăng TCBQ
1999
2000
1999
2000
00/99%
00/99%
1.Cơ Khí
2-Chê biến lâm sản
3-Dệt- May
4-Chế biếnLTTP
5-Xây dựng cơ bản
6-Sành sứ-thuỷ tinh
7-Dịch vụ khác
772,5
413,2
391,7
890,7
427,2
479,2
753,1
936,3
772,2
514,6
592,9
547,7
580,8
819,2
445,6
392,9
344,0
906,6
369,4
451,6
469,0
601,2
586,8
457,0
649,3
406,6
515,8
728,0
21,2
88,09
31,38
33,43
27,27
21,2
8,73
34,91
49,3533,11
39,41
40,0744,22
55,52
Chung
589,25
686,7
481,3
549,4
15,52
14,15
Nguồn : Tổng hợp kết quả điều tra của sở LĐTB -XH năm 2000.
Qua bảng cho thấ, trong hầu hết các ngành khi có tốc độ tăng NSLĐ càng lớn thì tốc độ tăng tiền công càng lớn. Chỉ trừ một số ngành như ngành cơ khí, dịch vụ, dệt may trong năm 2000 so với 1999 có tốc độ tăng tiền công bình quân lớn hơn tốc độ tăng năng suất lao động . Tốc độ tăng năng suất lao động chung cho tất cả các ngành là 15,52%. và tốc độ tăng cùng bình quân là 14,15%. Như vậy nếu chỉ nhìn vào đây ta thấy ở các DNTN giữa tốc độ tăng năng suất lao động và tiền công bình quân là hợp lý đúng với nguyên tắc "Tốc độ tăng năng suất lao động, phải cao hơn tốc độ tăng tiền công bình quân" khi đi vào các ngành cụ thể ta lại thấy nhiều ngành có tốc độ tăng năng suất lao động quá lớn so vơói tốc độ tăng tiền công bình quân, thiệt thòi cho người lao động. có những ngành lại có tốc độ tăng tiền côngbình quân lớn hơn tốc độ tăng năng suất lao động. Điều này sẽ làm cho tiền công của người lao động không bền vững, thu nhập chênh lệch giữa các tầng lớp lao động.
Qua đây ta thấy năng suất lao động ảnh hưởng tới thu nhập của người lao động thông qua hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp .
3- Kết quả sản xuất kinh doanh ảnh hưởng đến thu nhập của người lao động.
DNTN phần lớn là những doanh nghiệp vừa và nhỏ doanh thu và lợi nhuận không lớn. Những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chưa ổn định thì tiền công của người lao động được tính theo ngày và trả theo tháng. Tiền công thực lĩnh của người lao động trong những doanh nghiệp này phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp hiệu quả thấp thì tiền công thấp. đây cũng là điểm khác so với lao động trong các DNNN. ở đó nhà nước trả lương cho công nhân viên chức theo bảng lương nên thu nhập của người lao động ở đó ít phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của cácdoanh nghiệp.
Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thường được thể hiện bằng doanh thu hoặc lợi nhuận .
Quan hệ giữa doanh thu và lợi nhuận của DNTN với thu nhập của người lao động được biểu hiện bằng bảng.
Bảng 9: kết quả sản xuất kinh doanh và thu nhập của người lao động trong các ngành .
Đơn vị tính: TN/DT = ngàn đồng /DN/tháng
Ngành
DT/DN
LN/DN
TN/DT
DT/DN
LN/DN
TN/DN
1- Cơ khí
2-Chế biến lâm sản
3-Dệt-May
4-Chế biếnLTTP
5-XD cơ bản
6-Sành sứ-thuỷ tinh
7-Dịch vụ khác
421,2
492,31
104,97
103,59
175,09
120,91
1504,38
15,56
3,96
4,53
-0,95
55,03
1,43
63,97
1,058
0,798
3,277
8,782
2,114
3,735
0,312
580,19
581,62
156,72
190,20
267,00
273,39
1596,04
24,74
25,50
5,68
2,67
72,71
5,31
14,65
1,036
1,008
3,038
2,888
1,523
1,887
0,541
Chung
417,48
20,52
1,143
519,88
21,26
1,010
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra của số LĐTB-XH-2000
Qua bảng cho thấy thu nhập của người lao động phụ thuộc lớn vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp ở các DNTN, hiệu quả SXKD của toàn doanh nghiệp phụ thuộc vào kết quả của từng người lao dộng, ở đây nó được biểu hiện bàng chi phí mà doanh nghiệp bảo ra để thu được 1 triệu đồng doanh thu hoặc lợi nhuận. Chi phí này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả SXKD tốt hơn. Nhìn một cách tổng quát tất cả các ngành, năm 1999 chi phí lao động mỗi tháng bình quân là 1,143 ngàn đồng để thu được 1 triệu đồng doanh thu và đến năm 2000 mức chi phí này chỉ là 1,01 ngàn đồng. điều này cho thấy Hiệu quả sản xuất kinh doanh tốt hơn, thu nhập của người lao động được nâng lên từ 477,2 ngàn đồng năm 1999 lên 525,1 ngàn đồng năm 2000. ở các ngành, chỉ có 2 ngành là dựa vào chế biến lâm sản là ngành có chi phí lao động năm 2000 là tăng lên nhưng thu nhập của người lao động vẫn tăng lên do 2 ngành mặc dù chi phí tăng lên, hiệu quả sử dụng lao động giảm nhưng lợi nhuận, doanh thu tăng lên hơn các ngành khác. Các ngành còn lại chi phí lao động để tạo ra 1 triệu đồng doanh thu hoặc lợi nhuận của năm 2000 điều giảm.
Qua đây ta thấy rằng cùng một mức đầu tư cho lđ sống nhưng ở các ngành khác nhau sẽ tạo ra hiệu quả SXKD khác nhau và thu nhập của những lđ cũng khác nhau.
4-Mức đầu tư vốn của chủ doanh nghiệp tư nhân.
Công nghệ, máy móc, thiết bị, điều kiện làm việc ... tác động rất lớn đến năng suất lao động và do đó tác động gián tiếp đến thu nhập của người lao động.
Để có được các trang thiết bị, máy móc, công nghệ hiện đại chủ doanh nghiệp không còn cách nào khác là phải đầu tư tiền vốn để mua sắm, lắp đặt. Thực tế cho thấy mức đầu tư càng lớn thì năng suất lao động thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp ngày công cao.
Bảng 10. Mức đầu tư vốn và thu nhập bình quân.
Ngành
Mức đầutư (triệu đồng /lao động/năm)
-<5
5-<10
10-<20
20->30
30-<50
>50
1-Cơ khí
2-Chế biến Lâm sản
3-Dệt-May
4-Chế biến LTTP
5-Xây Dựng cơ bản
6-Sành sứ -Thuỷ Tinh
7-Dịch vụ khác
450,00
327,60
266,70
467,30
336,60
341,00
697,90
485,50
373,30
578,00
431,10
386,80
471,30
463,00
389,80
352,90
450,50
664,50
445,60
772,40
622.00
250,00
791,60
742,90
664,80
391,20
603,40
951,80
341,10
607,40
622,50
728,00
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo của cácDNTN ở Thành hoá năm 2000
Qua bảng cho thấy hầu hết khi các chủ DN đầu tư thêm vốn vào ở các mức đầu tư thì thu nhập của người LĐ ở các mức đầu tư đó cũng tăng lên. Nếu chỉ đầu tư dưới 5 triệu đồng /năm trong một năm thì thu nhập của người lao động trong doanh nghiệp chỉ nhận được 308,0 ngàn đồng /tháng .Và các mức đầu tư tương xứng với phần thu nhập nhận được của người lao động là từ 5-<10 triệu đồng 447,5 ngàn đồng/ tháng, tư 10-20 triệu đồng năm 450,6 ngàn đồng /tháng: đầu tư từ 20-30 triệu đồng/năm 445,1 ngàn đồng/tháng: từ 30-50 triệu /năm 604,98 ngàn đồng /tháng , và lớn hơn 50 triệu đồng /năm đạt 652 ngàn đồng /tháng.
Như vậy chỉ có mức đầu tư từ 10-20 triệu /năm thì thu nhập của người lao động lại có xu hướng giảm. ơ đây có thể là do số tiền đầu tư ở mức này chỉ mua được máy móc, công nghệ hiện đại nhưng đã qua sử dụng rồi chẳng hạn thi lúc đó năng suất lao động không tăng thậm chí còn giảm. Còn ở từng ngày ở nhiều mức đầu tư tăng lên nhưng thu nhập lại giảm, đó cũng là đặc điểm từng ngành mà số tiền đầu tư phải là nhiều hoặc ít hẳn và nếu ở mức trung bình thì không có khả năng đầu tư song sản phẩm hay giai đoạn công nghệ khác... lúc đó hiệu quả sản xuất của toàn doanh nghiệp sẽ giảm, kéo theo thu nhập của người lao động cũng giảm theo, vì vậy điều đặt ra là tuỳ theo khả năng hiện tại, đặc điẻm từng ngành, trình độ của người lao động và doanh nghiệp lựa chọn qui mô đầu tư cho hợp lý .
5-Các chính sách và chế độ trả công của doanh nghiệp .
Hiện nay, dù cho nhà nước không bắt buộc các DNTN không áp dụng hệ thống thang bảng tiền công, các chế độ trả công cho người lao động như các doanh nghiệp nhà nước, nhưng có rất nhiều DNTN làm ăn có hiệu quả đã ban hành một cơ chế quản lý lao động một cách đầy đủ từ tuyển dụng, dạy nghề, thưởng phạt, trả công ... Trông đó chi tiết hơn như sửa lại các chức danh nghề, mức tiền công tối thiếu quy định hệ số là 150 ngàn đồng/ tháng quy định tỷ lệ phụ cấp là 20%, quy định về cơ chế trả công sản phẩm, công thời gian, trả công làm đêm, thêm giờ, ngừng việc, thử việc... Nói chung đi đến một chế độ tiến bộ có lợi lắm cho người lao động, làm cho thu nhập của người lao động tăng lên rõ rệt. Như doanh nghiệp bitis ở thành phố Thanh Hoá, công ty vàng bạc đã Quí Kim Chung". Khi áp dụng chế độ này thì làm cho thu nhập của một người tăng 45 ngàn đồng /tháng.
Ngoài nhân tổ trên ở Thanh Hoá hiện nay tình trạng thất nghiệp quá nhiều và căng thẳng cũng là nhân tố ảnh hưởng không nhớ đến tiền công của người lao động. Người lao động luôn ở thế yếu nay chỉ muốn kiếm được một công việc để tăng thu nhập và nâng cao đời sống. Việc thoả thuận đôi bên trong các DNTN thật chưa tư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3583.doc