MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Chương I : Cơ sở lý thuyết 2
I. Khái niệm chung về lao động và thị trường lao động 2
1. Khái niệm 2
2. Các yếu tố ảnh hưởng tới thị trường lao động. 3
2.1. Cầu lao động và các yếu tố ảnh hưởng tới cầu lao động. 3
2.2. Cung lao động và các yếu tố ảnh hưởng tới cung lao động 4
3. Các loại thị trường lao động. 5
II. Tiền lương tối thiểu. 6
1. Khái niệm. 6
2. Sự hình thành tiền lương tối thiểu ở một số nước trên thế giới. 7
3. Vai trò của tiền lương tối thiểu. 8
3.1. Đối với người lao động. 8
3.2. Đối với người sử dụng lao động. 9
3.3. Đối với Nhà nước. 10
3.4. Đối với thị trường lao động. 11
4. Phương pháp xác định tiền lương tối thiểu 12
Chương II: Thực trạng thị trường lao động và tiền lương tối thiểu trong doanh nghiệp Nhà nước 14
I. Thị trường lao động 14
1. Sự hình thành thị trường lao động Việt Nam 14
2. Các đặc điểm của thị trường lao động Việt Nam hiện nay. 15
2.1. Cung lao động. 15
2.2. Cầu lao động. 16
3. Thị trường lao động trong khu vực Nhà nước. 17
II. Lao động và tiền lương trong các doanh nghiệp Nhà nước 19
1. Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta 19
2. Sự hình thành và phát triền của tiền lương tối thiểu. 20
2.1. Sự hình thành. 20
2.2. Các giai đoạn phát triển. 20
3. Tiền lương tối thiểu trong doanh nghiệp Nhà nước. 22
4. Ảnh hưởng của tiền lương tối thiểu tới thị trường lao động. 24
5. Những vấn đề đạt được và còn tồn tại 26
Chương III: Giải pháp 28
1. Đối với Nhà nước 28
2. Đối với doanh nghiệp Nhà nước 31
Kết luận 33
Tài liệu tham khảo 34
35 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1830 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiền lương tối thiểu trong doanh nghiệp Nhà nước và ảnh hưởng của nó tới thị trường lao động, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u chi của doanh nghiệp vừa đảm bảo được mức sống cho người lao động. Không ảnh hưởng đến việc tái phân bổ đầu tư giúp cho doanh nghiệp ngày càng phát triển.
3.4. Đối với thị trường lao động.
Đối với thị trường lao động nói chung tiền lương cũng có tác động tương tự. Nhưng trong doanh nghiệp thì người lao động có thể lựa chọn cho mình doanh nghiệp có mức lương cao hơn phù hợp với khả năng của mình. Còn với toàn bộ nền kinh tế thì mức tiền lương tối thiểu chung có ảnh hưởng tới thị trường lao động.
Khi tiền lương tối thiểu tăng sẽ tạo ra khả năng số người có nhu cầu tìm việc làm tăng lên. Người lao động sẵn sàng làm việc với mức lương đó mà trước kia cũng với công việc ấy họ không làm, điều này sẽ thu hút lượng lao động từ những khu vực khác như nông thôn, phi chính thức cũng có nhu cầu tìm việc ngược lại khi giảm tiền lương tối thiểu sẽ gây ra nhiều hậu quả trong thị trường lao động người lao động sẽ không còn hứng thú với việc làm và những người có nhu cầu tìm việc cũng giảm đi. Đối với những người đang làm việc họ có nhu cầu làm thêm để có thêm thu nhập đảm bảo đời sống. Khi đó lao động của họ sẽ giảm đi không còn chú tâm vào một công việc.
Khi thị trường lao động cân bằng tạo ra giá cả cân bằng tại đó mức tiền lương hợp lý và cung cầu lao động ở trạng thái tối ưu. Nhưng khi tiền lương tối thiểu nằm dưới điểm cân bằng, các doanh nghiệp sẽ có xu hướng dùng nhiều công nhân hơn và giảm việc đầu tư vốn do đó nhu cầu lao động tăng lên. Cung lao động thì ngược lại họ sẽ không sẵn sàng làm việc ở mức lương thấp từ đó sẽ dẫn đến tình trạng dư cầu thiếu cung một cách giả tạo. Ngược lại khi tiền lương tối thiểu nằm ở dưới điểm cân bằng., nhà sản xuất muốn giảm thiểu chi phí nên chuyển sang đầu tư nhiều vốn hơn và giảm việc sử dụng lao động dẫn đến tình trạng dư cung. Việc tăng hay giảm tiền lương tối thiểu không phù hợp với nền kinh tế, với thị trường lao động đều gây ra những điều bất cập và ảnh hưởng đến đời sống xã hội tuy nhiên khi nền kinh tế phát triển tiền lương của người lao động càng cao càng đảm bảo tốt hơn đời sống của người lao động.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước vai trò của tiền lương tối thiểu cũng giống như những doanh nghiệp khác tuy nhiên còn có những doanh nghiệp hoạt động vì mục đích xã hội sẽ được Nhà nước bảo trợ nhiều hơn.
4. Phương pháp xác định tiền lương tối thiểu
Xác định tiền lương tối thiểu có nhiều phương pháp khác nhau để xác định.
Xác định tiền lương tối thiểu căn cứ vào nhu cầu của người lao động và gia đình họ.
Khái niệm tiền lương tối thiểu ở trên cho thấy :Việc xác định tiền lương tối thiểu thông qua các nhu cầu về sinh học và xã hội học của người lao động và gia đình họ trong một thời kỳ nhất định đòi hỏi phải xác định được ngân sách chi tiêu của gia đình ở mức tối thiểu và cơ cấu chi tiêu ngân sách đó cho các nhu cầu. Để xác định được ngân sách chi tiêu của gia đình chi tiêu của gia đình ở mức tối thiểu cũng như cơ cấu của nó, cần thiết phải xác định được các tiêu chuẩn mẫu về:
Nhu cầu ăn và thực đơn mẫu cho một người lớn và một trẻ em.
Nhu cầu mặc cho một người lớn và một trẻ em.
Nhu cầu ở và trang thiết bị sinh hoạt cho một gia đình ;
Nhu cầu đi lại giao tiếp
Nhu cầu y tế
Nhu cầu học tập, văn hoá
Nhu cầu bảo hiểm xã hội
Tiêu chuẩn về các nhu cầu trên có liên quan trực tiếp đến người lao động và gia đình họ. Trong các quy mô hộ gia đình ở nước ta rất khác nhau tuỳ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, thói quen, tập quán cụ thể. Bởi vậy các tiêu chuẩn tối thiểu về các tiêu chuẩn về các nhu cầu được xây dựng cho một hộ gia đình chuẩn. Hộ gia đình chuẩn là hộ gia đình gồm bố mẹ là những người lao động và hai đứa con nhỏ.
Phương pháp xây dựng tiền lương tối thiểu trên cơ sở thu nhập quốc dân
Tiền lương tối thiểu một mặt phụ thuộc vào những nhu cầu tối thiểu của người lao động, mặt khác ở mỗi thời kỳ nhất định nó cũng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của sự phát triển chung của nền sản xuất xã hội. Sự ảnh hưởng này thể hiện ở mức độ bảo đảm các nhu cầu tối thiểu. Trong phạm vi quốc gia, mức độ đảm bảo các nhu cầu cao hay thấp lại phụ thuộc vào khả năng thu nhập quốc dân. như vậy tiền lương tối thiểu phạm vi cả quốc gia, phụ thuộc vào thu nhập quốc dân. Mối quan hệ thụ thuộc này đã dược sử dụng ở nhiều nước trên thế giới để xác định mức tiền lương tối thiểu cho người lao động.
Việc xác định tiền lương tối thiểu căn cứ vào thu nhập quốc dân đòi hỏi phải xác định được các yếu tố sau:
Mức tiêu dùng bình quân đầu người
Hệ số chênh lệch giữa mức tiêu dùng bình quân đầu người với mức tiêu dùng tối thiểu bình quân đầu người
Hệ số người ăn theo đối với một người lao động
Đối với doanh nghiệp cần phải đảm bảo nguyên tắc tiền lương tối thiểu của doanh nghiệp không thể thấp hơn tiền lương tối thiểu của Nhà nước quy định và không được cao hơn 2,5 lần. Tiền lương tối thiểu do Nhà nước quy định. Đồng thời phải cân đối được thu nhập của doanh nghiệp với quỹ tiền lương.
Chương II: Thực trạng thị trường lao động và tiền lương tối thiểu trong doanh nghiệp Nhà nước
I. Thị trường lao động
1. Sự hình thành thị trường lao động Việt Nam
Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu, nền kinh tế chậm phát triển. Lại kéo theo một thời gian cơ chế tập chung bao cấp. Cho đến năm 1986, chúng ta mới thực hiện đổi mới. Chuyển nền kinh tế từ cơ chế tập chung bao cấp sang cơ chế thị trường. Các thị trường hình thành từ đó. Thị trường lao động là một bộ phận cấu thành của hệ thồng thị trường trong nền kinh tế thị trường. Nhưng so với các loại thị trường khác như vốn, công nghệ, hàng hoá thị trường lao động hình thành và phát triền chậm hơn.
Sự hình thành và phát triển thị trường lao động Việt Nam cũng như nhiều nước đang phát triển, gắn liền với quá trình phân hoá tự nhiên của nền sản xuất nhỏ. Từ những năm cuối của thập kỷ 80 đến những năm đầu của thập kỷ 90 thị trường lao động mới hình thành dưới các hình thức thuê mướn lao động theo kiểu hợp đông miệng thời gian ngắn, mang tình chất tạm thời, không ổn định. Dạng thuê lao động trong quan hệ lao động làm công ăn lương bằng các hình thức hợp đồng có thời hạn không có thời hạn chưa nhiều, chủ yếu xảy ra ở các tỉnh phía nam. Thị trường lao động giai đoạn này còn manh mún phân tán, chia cắt.Sự di chuyển lao động còn ít giữa các vùng cũng như giữa thành thị và nông thôn, trrong nước và ngoài nước. Khái niệm thất nghiệp cũng chưa được đề cập một cách chính thức về mặt xã hội chủ trương chuyển hướng nền kinh tế sang kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa được khởi đầu bởi nghị quyết đảng lần thứ 6. Cùng với một loạt cải cách lớn về thể chế và chính sách kinh tế đã tạo điều kiện cho thị trường lao động hình thành và từng bước phát triển. Sự ra đời của bộ luật lao động 1995 đã thể chế hoá quan niệm về cũng như các quy định có liên quan đến thị trường lao động như : hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể, an toàn vệ sinh lao động, tiền lương và chế độ trả lương, bảo hiểm xã hội, đưa người Việt Nam đi lao động có thời hạn ở nươc ngoài. Bộ luật lao động cũng đã cụ thể hoá các quy định của hiến pháp nước CHXHCH Việt Nam về lao động, quản lý lao động, mối quan hệ giữa người sử dụng lao động trên các vấn đề cơ bản về quyền nghĩa vụ và trách nhiêm của các bên bộ luật lao động đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và phát triển một thị trương lao động thống nhất linh hoạt trên phạm vi cả nước.
2. Các đặc điểm của thị trường lao động Việt Nam hiện nay.
2.1. Cung lao động.
Dân số nước ta hiện nay có khoảng trên 80 triệu người với cơ cấu dân số trẻ dù đang có sự chuyển biến theo hướng già hoá. Điều đó đã tạo nên một lực lượng lao động dồi dào có tốc độ tăng trưởng cao trong những năm vừa qua, trung bình 3 % trong giai đoạn 1989 – 1999.
Nguồn lao động dồi dào nhưng cơ cấu còn rất nhiều điểm bất hợp lý. Mặc dù chất lượng nguồn nhân lực dưới góc độ trình độ văn hoá ngày càng được nâng lên kể cả khu vực nông thôn, thành thị, song cơ cấu theo các tiêu thức khác đang nổi lên những vấn đề cần giải quyết.
Thứ nhất: lao động giản đơn còn quá cao, lực lượng lao động có trình độ kỹ thuật còn rất hạn chế và chuyển biến chậm, 84,48% lực lượng lao động không có chuyên môn kỹ thuật ( năm 2000 ) điều này phản ánh đội ngũ lực lượng lao động chưa sẵn sàng để hình thành và phát triển nền kinh tế trí thức.
Thứ hai: vẫn chưa ra khỏi tình trạng thừa thầy thiếu thợ. Theo kinh nghiệm của các nước thành công trong sự nghiệp CNH và HĐH cơ cấu kỹ thuật phổ biến là: 1 ĐH, CĐ: 4 THCN: 10 CNKT. Nhưng ở nước ta tình trạng bất hợp lý ngày càng trầm trọng. Năm 1979 tỷ lệ trên là: 1: 2,2: 7,1 ; năm 1989 là: 1: 1,8: 2,2; năm 1998 – 1999 là : 1: 1,3: 2.Mặc dù công tác đào tạo nghề cũng đã được quan tâm.
Thứ ba: thiếu cân đối trong cơ cấu lao động theo vùng. Tỷ trọng lao động ở vùng ĐB sông Hồng và ĐB sông Cửu Long cao nhất nước ( 20,5% và 21,7% trong lực lượng lao động ) gây khó khăn cho việc giải quyết công ăn việc làm.
2.2. Cầu lao động.
Nhu cầu về lao động phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế xã hội. Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đã đạt được thành tựu đáng kể trong thời gian qua. Tăng liên tục từ năm 1991-1996 đạt mức trên 9% / năm, năm 1997 bắt đầu vào đà giảm sút, năm 1999 chỉ đạt 4,47 % đến năm 2000 lại tăng lên 6,75 % và năm 2002 là 7.02%. Cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến tích cực phù hợp với tiến trình CNH và HĐH song còn rất chậm chạp. Trong vòng 10 năm qua ngành dịch vụ chỉ tăng được 3,4 %, công nghiệp tăng 12,8%. Điều đó tác động đến cầu lao động trong những năm qua.
Cơ cấu lao động theo ngành thì lực lượng lao động nông nghiệp vẫn là chủ yếu. Tỷ trọng này giảm chậm từ năm 1993 – 2000 chỉ giảm từ 71% xuống 62,56%. Việc phát triển và thu hút kinh tế trang trại năm 1999 góp phần đáng kể giữ vững tỷ lệ lao động trong nhóm ngành nông nghiệp. Luật doanh nghiệp ngày 1/1/2000 đã tạo ra 13.500 doanh nghiệp mới và tạo hơn 300.000 chỗ làm mới góp phần cải thiện cơ cấu lao động.
Cơ cấu lao động theo khu vực kinh tế, lao động trong khu vực Nhà nước chiếm tỷ lệ 10% ( năm 1999 ). Mặc dù tỷ trọng đóng góp vào GDP khá lớn. Cầu lao động trong các doanh nghiệp Nhà nước kể từ năm 1990 trở lại đây có xu hướng giảm. Khu vực ngoài quốc doanh thu hút phần lớn lực lượng lao động nhưng tỷ lệ đóng góp vào GDP vẫn chưa cao. Cầu lao động của khu vực này vẫn có xu hướng tăng. Khu vực vốn đầu tư nước ngoài thu hút nhiều lao động. Xuất khẩu lao động cũng là một hướng đi cơ bản nhằm giải quýêt việc làm cho người lao động. Hiện nay số người lao động xuất khẩu ngày càng tăng và thị trường lao động ngày càng rộng lớn. Tuy nhiên những hạn chế của lao động Việt Nam cũng ảnh hưởng đến cầu lao động của khu vực này.
Từ thực trạng trên cho thấy những nét nổi bật trong thị trường lao động Việt Nam là cung lớn hơn cầu rất nhiều dẫn đến áp lực lớn về việc làm, điều đó dẫn đến một tỷ lệ thất nghiệp cao ( 1996-1999: 5,88% -7,4%; 2000: 6,4 %) đặc biệt là khu vực thành thị. ở nông thôn thất nghiệp trá hình người lao động chỉ sử dụng ở mức 70%-73% thời gian lao động.
Cơ cấu nguồn lao động, chất lượng nguồn lao động chưa đáp ứng được cầu lao động trên thị trường trong nước càng khó cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tỷ lao động tham gia quan hệ thị trường thấp. Thị trường lao động chủ yếu tập trung ở khu vực đô thị lớn, trung tâm công nghiệp mới. Giá công lao động đang có xu hướng tăng lên đồng thời có sự khác biệt về giá công lao động giữa các địa phương, nghề, ngành và thành phần kinh tế đồng thời tiền lương chưa thực sự gắn với mối quan hệ cung cầu trên thị trường.
Sự hạn chế của thể chế thị trường lao động Việt Nam đã làm ngăn cản sự phát triển của thị trường lao động Việt Nam vốn đã bị phân tán, di chuyển yếu và không linh hoạt.
3. Thị trường lao động trong khu vực Nhà nước.
Thị trường lao động trong khu vực Nhà nước là một bộ phận cấu thành của thị trường lao động Việt Nam.
Khu vực Nhà nước là khu vực chủ đạo của nền kinh tế, khu vực này chiếm khoảng 10% lực lượng lao động trong đó các doanh nghiệp Nhà nước chiếm tỷ trọng đóng góp vào GDP khá lớn 21.7% (2000)và là 23,38% (2002). Cầu lao động trong doanh nghiệp Nhà nước kể từ năm 1990 trở lại đây có xu hướng giảm do tổ chức lại sản xuất, sắp xếp lại lao động, tinh giảm bộ máy hành chính, cổ phần hoá, bán, khoán, cho thuê, giải thể doanh nghiệp Nhà nước. Cuối năm 1989 lao động làm việc trong các doanh nghiệp Nhà nước là 2,5 triệu người lao động đến năm 1998 là 1.7 triệu người.
Lao động trong khu vực Nhà nước được tuyển dụng theo hình thức biên chế họăc định biên cứng nên tác động của thị trường lao động rất hạn chế. Nói chung ở khu vực này cung lao động rất lớn nhưng cầu laao động lại rất hạn chế nên lượng lao động dôi dư lớn.Đây là kết quả của việc sử dụng lao động theo tính kế hoạch hoá tập trung dẫn đến Nhà nước phải chi nguồn kinh phí lớn để giải quyết lao động này và nó tạo tâm lý ý thức phụ thuộc của người lao động trông chờ vào Nhà nước không tự lo việc cho mình. Trước đây lực lượng lao động chủ yếu nằm trong khu vực Nhà nước nhất là từ khi mới chuyển từ tập chung bao cấp sang cơ chế thị trường khu vực này được Nhà nước bao cấp và bảo trợ nhiều nên nảy sinh nhiều tiêu cực. Từ khi thực hiện đổi mới các doanh nghiệp Nhà nước thì cũng đã có khá nhiều chuyển biến. Tuy nhiên hệ tư tưởng vẫn ăn sâu mà chưa thay đổi được của một bộ phận lực lượng lao động là làm trong khu vực Nhà nước nhàn hơn ổn định hơn, đó là tư tưởng thiếu trách nhiệm.
Chính vì vai trò chủ đạo của khu vực này mà Nhà nước đã bảo trợ cho khu vực này rất nhiều. Khi kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh không tốt Nhà nước lại phải bỏ ngân sách để bù vào như vậy những người hoạt động trong các doanh nghiệp này không phải lo phá sản, thu nhập thấp, hay sa thải…
Từ khi đổi mới các doạnh nghiệp được giữ lại để phát triển cũng phải đổi mới bộ máy. Tuyển dụng lao động có năng lực, bộ máylà những người có khả năng lãnh đạo. Sắp xếp lại lao động, thanh lọc những người không đủ khả năng đồng thời phải đào tạo lại lao động cho phù hợp với cơ chế mới và đổi mới trang thiết bị.
Như vậy nhìn chung cầu lao động trong khu vực này ngày càng giảm nhưng không phải toàn bộ. Cầu lao động trong khu vực này chi giảm với những lao động không có trình độ còn cầu lao động có trình độ chuyên môn cao lực lượng lao động được đào tạo nhất là lao động trí óc vẫn rất cao để đổi mới bộ máy doanh nghiệp giữ vững chức năng chủ đạo.
Cung lao động cho khu vực này còn rất cao trong đó lượng lao động có trình độ không phải là nhỏ. Điều đó cho thấy thị trường lao động khu vực này cũng đang rất sôi động và các nhà tuyển dụng có thể tuyển dụng được lao động theo ý muốn.
Tuy nhiên cần thấy rằng thị trường lao động thì như vậy nhưng cơ chế tuyển dụng còn nhiều bất cập. Tuyển người thân quen, quyền chức, nhiều tiền mà sắp xếp cả những người không có trình độ điều này làm giảm nghiêm trọng chất lượng lao động khu vực này phải chăng đây cũng là một trong những lý do làm cho người thật sự có năng lực không muốn tham gia vào khu vực này. Đây là một thiệt thòi lớn cho các doanh nghiệp Nhà nước.
II. Lao động và tiền lương trong các doanh nghiệp Nhà nước
1. Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta
Do tình hình kinh tế nước ta phát triển sang nền kinh tế thị trường yêu cầu và đòi hỏi các doanh nghiệp phải năng động. Trong mọi lĩnh vực phải có một bộ máy thực sự tâm huyết và nhạy bén. Trong khi đó, các doanh nghiệp Nhà nước của chúng ta như một cỗ máy lâu năm cũ kỹ và trì trệ với công nghệ lạc hậu. Cơ chế tập ttung quan liêu bao cấp đã đem lại cho các doanh nghiệp giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế này những bộ mặt yếu kém về kinh tế. Sự làm ăn thua lỗ luôn nhận được sự bảo trợ của Nhà nước bảo thủ trì trệ không chịu đổi mới cho phù hợp và bắt kịp với sự phát triển của nền kinh tế.
Từ những bất cập đó đảng và Nhà nước ta đã định hướng rõ ràng cho nền kinh tế phát triển nền kinh tê nhiều thành phần có sự điều tiết của Nhà nước
Đối với thành phần kinh tế Nhà nước Nhà nước ta chủ chương chuyển dần các doanh nghiệp sang thành các công ty trách nhiệm hữu hạn, giao, bán, cổ phần hoá… đổi mới bộ máy quản lý trong các doanh nghiệp được giữ lại làm doanh nghiệp Nhà nước. Do vậy xu hướng của khu vực này là số lượng các doanh nghiệp sẽ ngày càng giảm. Năm 2003 chính phủ sở hữu khoảng 5200 doanh nghiệp Nhà nước và hàng chục tổng công ty. Theo đề án sắp xếp lại doanh nghiệp thì đén năm 2005 vẫn còn 50% số doanh nghiệp này vẫn do Nhà nước nước nắm giữ 100% vốn. Lượng lao động trong khu vực này nói chung là giảm nhưng để đổi mới được các doanh nghiệp này thì lượng cầu lao động có chất lưọng cao thì vẫn cao. Điều này ảnh hưởng đến thị trường lao động khu vực này với yêu cầu đòi hỏi cung lao động phải được đào tạo, có chất lượng cao để đáp ứng được yêu cầu công việc và vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế này. Việc thực hiện đổi mới cũng đã đạt được những kết quả nhất định. Năm 2002 đã có gần 77% doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có lãi so với con số 40% của năm 2001, số doanh nghiệp hoà vốn hơn 7% và16% doanh nghiệp Nhà nước vẫn còn thua lỗ. Đã tuyển dụng được những lao động có năng lực, khả năng lãnh đạo, có chuyên môn, thanh lọc và đào tạo mới, đào tạo lại lao động. Doanh nghiệp Nhà nước đã và sẽ giữ vững vai trò chủ đạo của mình.
2. Sự hình thành và phát triền của tiền lương tối thiểu.
2.1. Sự hình thành.
Trước đây, khi nền kinh tế của chúng ta còn đang trong giai đoạn cơ chế tập trung, quan liêu bao cấp, thu nhập theo phân phối thì mọi người lao động được hưởng như nhau. Tuy nhiên với cách phân phối đó góp phần làm cho nền kinh tế không phát triển được, do người làm ít hay nhiều vẫn được hưởng như nhau, nảy sinh tính ỷ lại trong người lao động. Thu nhập không thực hiện được chức năng đòn bẩy kinh tế của nó, nền kinh tế không có sự năng động, người lao động không có động lực làm việc.
Từ năm 1986 chúng ta bắt đầu chuyển dần nền kinh tế sang cơ chế thị trường và đến những năm đầu thập kỷ 90 nền kinh tế thị trường mới thực sự phát triển mạnh. Thu nhập của người lao động được tính theo sức lao động đã cống hiến. Làm theo năng lực hưởng theo sản phẩm. Điều đó làm cho người lao động tích cực hơn trong lao động đồng thời cũng quan tâm hơn tới kết quả lao động do nó ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của họ. Tạo nên sự cạnh tranh giữa người lao động, giữa các doanh nghiệp, các công ty vế sản phẩm mà chủ doanh nghiệp có thể hạ quá thấp mức lương trả cho người lao động. Để đảm bảo thu nhập cho người lao động, năm 1993 lần đầu tiên Nhà nước đã quy định mức lương tối thiểu cho người lao động. Với mức tiền lương này đảm bảo đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu để tái sản xuất sức lao động cho họ, một phần cho gia đình họ và một phần bảo đảm tuổi già. Lao động này là những lao động giản đơn nhất ở mức độ nhẹ nhàng nhất trong điều kiện bình thường.
2.2. Các giai đoạn phát triển.
Năm 1993 Nhà nước quy định mức tiền lương tối thiểu chung là 120.000đ/tháng với mức tiền lương này cũng đáp ứng khoảng 70% nhu cầu của người lao động. Mức tiền lương này được xác định dựa trên một số tiêu chuẩn về nhu cầu của người lao động và tình hình kinh tế của đất nước. Lúc này mức tiền lương tối thiểu như vậy là tương đối phù hợp với mức sống của người lao động. Tuy nhiên do sự tăng trưởng và phát triển kinh tế thì mức tiền lương tối thiểu này không còn phù hợp nữa. năm 1997 Nhà nước nâng mức lương tối thiểu lên 144.000đ/tháng. Năm 2000 là 180.000đ/tháng, năm 2001 là 210.000đ/ tháng, và đến 1/1/2003 là 290.000đ/tháng.
Đơn vị: Đồng
Năm
1993
1997
2000
2001
2003
TLTT
120.000
144.000
180.000
210.000
290.000
Như vậy mức tiền lương tối thiểu ở nước ta liên tục được nâng lên cho phù hợp với sự phát triển kinh tế, nhưng như chúng ta thấy thì mức tăng tiền lương như vậy chưa đáp ứng đủ được sự trượt giá của đồng tiền để mức sống của người dân được đảm bảo như năm 1993 chứ chưa nói đến việc nâng cao mức sống của người lao động, thực tế cho thấy chúng ta có thể đạt được một số tích cực sau :
Việc tiền tệ hoá tiền lương và thay đổi cơ cấu tiền lương đã cơ bản xoá bỏ chế độ bao cấp và đảm bảo công bằng hơn về phân phối thu nhập. Kết hợp việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu theo mức độ trượt giá với biện pháp mở rộng bội số tiền lương đã phần nào bổ xung được thu nhập cho người lao động, khắc phục một phần tính bình quân trong chế độ tiền lương bước đầu phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của đất nước.
Tuy nhiên nhìn chung chế độ tiền lương còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế. Nếu tính mức lương tối thiểu được điều chỉnh 210.000đ/ tháng đối với các đối tượng hưởng lương ngân sách và mức lương tối thiểu trong các doanh nghiệp không vượt quá650.000đ/tháng cho thấy mức lương này thấp hơn nhiều so với mức trượt giá. Từ năm 1994 chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng so với mốc năm 1993, năm 1994 tăng 14,2%, năm 1995 tăng 12,7% đầu năm 1997 tăng 35% mức tăng giá hàng năm làm cho tiền lương tối thiểu ngày càng giảm sút.
Về lý thuyết khi xây dựng mức tiền lương tối thiểu nhu cầu của người lao động được ưu tiên xem xét tính toán tỷ mỷ tuy nhiên khi ban hành thường không bảo đảm. Ví dụ tại thời điểm 1/4/1993 mức tiền lương tối thiểu tính toán là 170.000đ/tháng trong khi tiền lương thực tế là 120.000đ/ tháng. Việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu rất chậm không theo kịp với tốc độ tăng giá của các mặt hàng thiết yếu nên khả năng tái sản xuất sức lao động ngày càng giảm đi.
Dưới giác độ kinh tế tiền lương tối thiểu thấp đã hạn chế tính linh hoạt và hiệu quả của các doanh nghiệp không khuyến khích các cơ quan kinh tế Nhà nước sử dụng và bố trí lao động một cách hợp lý tạo ra sự chia cắt thị trường giả tạo sự gian dối trong hạch toán kinh doanh của các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước khiến thất thu ngân sách.
Một trong những tồn tại lớn trong khi thiết kế điều chỉnh tiền lương tối thiểu là gắn chặt với việc cân đối ngân sách. Việc điều chỉnh tiền lương tối thiểu thường do sức ép bên ngoài hơn là do các yếu tố có liên quan như giá cả sinh hoạt trình độ phát triển của mức sống, năng suất lao động.
Từ đó cho thấy mức lương hiện nay chưa đảm bảo tái sản xuất sức lao động chưa bù đắp được các chi phí thiết yếu cho bản thân người lao động chưa kể đến con cái và gia đình họ. Tiền lương thấp dẫn đến hiện tượng khá phổ biến là người lao động không sống, các cơ quan đơn vị xoay sở thêm thu nhập cho người lao động phần nào làm mất đi ý nghĩa của tiền lương. Sự gia tăng phần thu nhập ngoài lương chính là nguyên nhân dẫn đến định hướng sai lầm của người lao động làm nảy sinh các hiện tượng tiêu cực, một số cán bộ công chức không nhiệt tình với việc công, lạm dụng giờ hành chính Nhà nước làm ngoài là mầm mống của bất ổn xã hội và giảm uy tín của bộ máy công quyền.
3. Tiền lương tối thiểu trong doanh nghiệp Nhà nước.
Mức tiền lương tối thiểu do Nhà nước đặt ra được áp dụng nghiêm túc nhất trong khu vực Nhà nước. Từ năm 1993 tiền lương tối thiểu đặt ra với mức độ bao phủ thấp, chỉ áp dụng với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và khu vực Nhà nước nhưng nay đã được áp dụng cho tất cả các doanh nghiệp.
Theo nghi định 28/CP ban hành ngay 28/3/97 quy định mức lương tối thiểu để tính đơn giá tiền lương cho các doanh nghiệp Nhà nước như sau: Các doanh nghiệp Nhà nước được áp dụng hệ số tăng thêm tiền lương tối thiểu không quá 1.5 lần so với mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định để làm cơ sở tính đơn giá tiền lương. Khi áp dụng hệ số tăng thêm này phải đảm bảo nguyên tắc không làm giảm các khoản nộp ngân sách Nhà nước đặc biệt là không giảm lợi nhuận so với năm trước đã thực hiện trừ trường hợp Nhà nước giá bán sản phẩm hoặc giá dịch vụ của doanh nghiệp.
Nghị định 03/2001/NĐ-CP sửa đổi bổ xung một số điều của nghị định số 28/CP trong đó có quy điịnh thêm: Đối với các doanh nghiệp thực hiện đầy đủ các quy định nguyên tắc trên, do yêu cầu công việc thường xuyên phải sử dụng số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao trên 50% tổng số lao động trong doanh nghiệp và kế hoạch xây dựng lợi nhuận cao hơn 5% trở nên so với lợi nhuận thực hiện năm trước liền kề thì được áp dụng hệ số điều chỉnh tăng thêm tiền lương tối thiểu không quá 2 lần so với mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định để làm cơ sở tính đơn giá tiền lương. Như vậy theo quy định trên với mức tiền lương tối thiểu là 290.000 đ/tháng các doanh nghiệp có quyền áp dụng từ 290.000 đến 725.000đ/tháng với những doanh nghiệp đạt mứcquy định trên thì mức tối đa là 870.000 đ/tháng. Nếu như các doanh nghiệp Nhà nước của chúng ta có thể áp dụng tiền lương tối thiểu tối thiểu tối đa trên thì đời sống người lao động đã được cải thiện rất nhiều. Nhưng thực tế cho thấy các doanh nghiệp Nhà nước của chúng ta chưa đạt được mức đó. Đối với các doanh nghiệp được đổi mới và làm ăn có lãi thì tiền lương đẫ được cải thiện phần nào còn đối với những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ mặc dù nhận được sự bảo trợ của Nhà nước thì mức tiền lương tối thiểu của doanh nghiệp cũng không được nâng lên là bao nhiêu.
Theo báo cáo của tổng cục thống kê thu nhập bình quân mỗi tháng của một lao động năm 2001 trong khu vực Nhà nước đạt 889.600đ tăng 15.9% so với năm 2000. Năm nghành có mức thu nhập bình quân một lao động mỗi tháng trên 1 triệu là : công nghiệp khai thác 1.565.400đ/tháng, điện nước 1576000đ/tháng, tín dụng 1413100đ/tháng tư vấn đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35531.doc