Lời mở đầu 1
Phần I: Tìm hiểu chung về lãI suất 2
I.Khái niệm và vai trò của lãi suất. 2
1. Khái niệm. 2
2. Vai trò của lãi suất. 3
2.1.Đối với kinh tế vĩ mô. 3
2.2.Đối với tầm vi mô. 3
III. Các loại lãi suất thông dụng. 6
1.Lãi suất đi vay. 6
2.Lãi suất cho vay. 6
3.Lãi suất đơn. 6
4.Lãi suất kép. 6
II. Nguyên tắc và phương pháp xác định lãi suất. 6
1. Các nguyên tắc cơ bản để xác định chế độ lãi suất. 7
1.Phương pháp xác định lãi suất. 9
1.1. Cơ sở hình thành lãi suất. 9
1.2 Công thức tổng quát tính lãi suất. 10
PHẦN II. 12
THỰC TRẠNG LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY. 12
I.Sơ lược việc điều hành, cải tiến lãi suất trong thời gian qua. 12
II.Cơ chế lãi suất ở Việt Nam hiện nay 15
III.Các cách hiểu về lãi suất cơ bản. 18
1. Lãi suất cơ bản là lãi suất tái chiết khấu. 18
2. Lãi suất cơ bản là lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước. 19
3.Lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa. 19
4. Lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay tối đa. 22
5.Lãi suất cơ bản bằng ngoại tệ. 24
I. Mục tiêu cần hướng tới đối với chính sách lãi suất hiện nay. 25
1. Lãi suất cơ bản phải đáp ứng mục tiêu lãi suất tín dụng. 25
2. Mục đích của việc điều chỉnh lãi suất hiện nay. 26
PHẦN III: QUÁ TRÌNH TIẾN TỚI TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 28
II.Sự cần thiết của việc tự do hoá lãi suất . 29
1.Những mặt lợi. 30
2.Những hạn chế của việc tự do hoá lãi suất. 32
III.Kinh nghiệm của các nước trong việc tự do hoá lãi suất. 34
Phần IV: Tự do hoá lãI suất ở việt nam 37
I. Việt Nam trong thời điểm hiện nay chưa đủ điều kiện để tiến hành tự do hoá lãi suất 37
II. Giải pháp điều chỉnh dần theo hướng tự do hoá lãi suất. 38
1.Hoàn thiện hệ thống ngân hàng, hoàn thiện hệ thống chính sách. 38
2.Từng bước điều chỉnh cơ chế lãi suất, tiến dần theo hướng tự do hoá. 40
Kết luận 43
45 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1109 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng điều kiện cần và đủ nào cho việc hoạch định và điều hành chính sách lãi suất tốt hơn.
Quan điểm định hướng về chính sách lãi suất mới.
Do một số điều kiện đặc thù, thị trường tiền tệ Việt Nam vẫn ở trong giai đoạn quá độ với trình độ hết sức sơ khai. Tham khảo một tài liệu của đoàn IMF, thuộc chương trình ESAF dành cho Việt Nam (giai đoạn 2) qua mấy năm đổi mới, chỉ số phát triển chiều sâu về tài chính của Việt Nam vẫn ở xu hướng giảm và còn thấp. Chỉ số M2/ GDP mới chỉ là 25,1% so với mức bình quân trên 60% của nhiều nước đang phát triển, riêng Trung Quốc đạt mức cao là 82,3%; Chỉ số Mo/ tiền gửi ngân hàng vẫn còn cao là 61,2%, trong khi khối các nước ASEAN phổ biến chỉ khoảng12%, riêng Trung Quốc là 20,4%. Có nghĩa trong lúc mức độ tiền tệ hoá nền kinh tế còn rất thấp thì chủng loại “hàng hoá ”cho mọi giao dịch vốn, tiền tệ còn hết sức nghèo nàn, phương thức giao dịch còn thô sơ và mức độ rủi ro tiền tệ còn lớn. Đặc trưng của nền kinh tế Việt Nam là các quan hệ cung cầu vốn, tiền tệ hình thành một cách hết sức khó khăn, diễn ra không bình thường. Sự ấn định giá cả (hình thành lãi suất thị trường) không tránh khỏi bị áp đặt bởi số ít lực lượng tham gia thị trường đóng vai trò độc quyền. Sự nôn nóng theo đuổi các mục tiêu, chính sách đôi lúc khiến NHNN cũng bị cuốn hút vào đó, mặc dù không phải lúc nào việc áp đặt các mức trần lãi suất cũng suôn sẻ và dễ dàng được thị trường chấp nhận....
Xét về năng lực thể chế yếu kém của hệ thống ngân hàng Việt Nam, khuôn khổ pháp lí và quy chế dự phòng rủi ro chưa hoàn bị cũng cho thấy trong thời điểm hiện nay để cho thị trường tự định đoạt lãi suất cho nó là rất khó thực hiện. Dựa trên nền tảng này không thể có ngay chính sách lãi suất thích hợp. Cũng phải thấy là việc duy trì trần lãi suất cho vay là để hạn chế các ngân hàng yếu về tài chính chấp nhận mức rủi ro quá mức. Trong chừng mực nhất định trần lãi suất chỉ bảo đảm cân bằng tương đối về tiền tệ ở góc độ vĩ mô, nhưng ở góc độ vi mô cũng còn vướng mắc. Nội dung chính sách lãi suất hiện nay là không chỉ kiểm soát lãi suất cho vay(kiểm soát về giá), theo đó là kiểm soát lãi suất sàn huy động vốn hay chênh lệch lãi suất đầu vào-đầu ra(đã bỏ), mà còn khống chế về tổng lượng tín dụng của nền kinh tế bằng hạn mức tín dụng, hạn mức vay nợ nước ngoài, mức cung ứng tiền tăng thêm hàng năm và một số chỉ tiêu khống chế tài sản khác...Riêng về số dư tiền dự trữ (RM) được coi là một trong 3 nội dung quản lí căn bản(bên cạnh lãi suất, mức cung ứng tiền) của chính sách tiền tệ chưa được quan tâm đúng mức.
Trong hơn 10 năm đổi mới, cơ chế điều hành lãi suất đã ngày càng trở nên linh hoạt hơn, nới lỏng từng bước theo hướng tự do hoá, bám sát cung cầu vốn trên thị trường, quyền chủ động ấn định lãi suất kinh doanh của các TCTD được mở rộng, nên làm tăng khả năng canh tranh nhưng vẫn kiểm soát được lãi suất trên thị trường tiền tệ, góp phát triển thị trường tài chính trong nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của đồng Việt Nam. Để thúc đẩy phát triển kinh tế và hội nhập quốc tế, NHNN phải tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành lãi suất, từng bước áp dụng lãi suất cơ bản thay dần cho việc ấn định trần lãi suất đi đôi với sử dụng công cụ điều tiết lưu thông tiền tệ phù hợp với cơ chế thị trường.
III.Các cách hiểu về lãi suất cơ bản.
Theo luật NHNN Việt Nam , lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh.Lãi suất cơ bản được hình thành trên nguyên tắc thị trường chứ không phải tự hình thành ttrên thị trường tiền tệ với bước đi thích hợp, thận trọng, phù hợp với điều kiện thực tế của thị trường tiền tệ, từng bước tiến tới tự do hoá lãi suất, quốc tế hoá hoạt động tài chính trong nước; đồng thời với các biện pháp phát triển thị trường tiền tệ và nâng cao năng lực tài chính và năng lực điều hành của các TCTD; xử lý lãi suất VND trong mối quan hệ với lãi suất ngoại tệ và chính sách tỷ giá , quản lý ngoại hối .
Trên cơ sở có nhiều cách hiểu và nhận thức về lãi suất cơ bản, ta cùng phân tích một số loại lãi suất cơ bản:
1. Lãi suất cơ bản là lãi suất tái chiết khấu.
Hiện nay ở Việt Nam chưa hình thành lãi suất tái chiết khấu, do chưa tổ chức được nghiệp vụ tái chiết khấu của Ngân hàng Trung ương, vì vậy chưa có cơ sở để xác định lãi suất cơ bản là lãi suất tái chiết khấu.
2. Lãi suất cơ bản là lãi suất tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước.
Nước ta chưa hình thành lãi suất tái chiết khấu, nhưng lại có lãi suất tái cấp vốn, nhưng lãi suất này cũng mang nặng tính chất để điều hành chính sách tiền tệ là chính, nên nó chủ yếu căn cứ vào lãi suất cho vay, lãi suất huy động vốn trên thị trường (cũng do NHNN công bố) để quy định. Vì vậy, cũng không thể dùng lãi suất tái cấp vốn làm lãi suất cơ bản được.
3.Lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa.
Các tổ chức tín dụng ấn định các mức lãi suất tiền gửi trong phạm vi khống chế lãi suất tiền gửi tối đa và ấn định các mức lãi suất tiền gửi vay cụ thể phù hợp với cung cầu về vốn.
Thực chất của lãi suất cơ bản loại này là NHNN chỉ công bố và kiểm soát lãi suất tiền gửi tối đa và tự do hoá lãi suất cho vay, việc điều hành và kiểm soát lãi suất cho vay thông qua điều hành lãi suất tiền gửi tối đa và các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ. Lãi suất tiền gửi tối đa có thể xác định theo công thức:
Lãi suất tiền gửi = Lạm phát dự + Lãi thực của
tối đa kiến người gửi.
Lãi suất cơ bản theo cách này có ưu điểm là tạo ra một bước tiến mới trong chính sách lãi suất, tiến sát đến sự tự do hoá lãi suất hoàn toàn(đã tự do hoá lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi dưới mức tối đa), là cơ chế lãi suất linh hoạt theo quan hệ cung cầu vốn, phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế, tạo ra khả năng cạnh tranh lớn giữa các tổ chức tín dụng, giảm thiểu sự quản lí của nhà nước bằng mệnh lệnh hành chính. Khống chế lãi suất tiền gửi tối đa sẽ không cho phép các tổ chức tín dụng huy động với bất cứ laĩ suất nào, chạy đua về lãi suất tiền gửi để huy động mới bù đắp nợ cũ, bảo đảm an toàn hệ thống và bảo vệ được lợi ích của người gửi tiền. Đồng thời, lãi suất cơ bản loại này thì chắc chắn sẽ hình thành nhiều khu vực lãi suất theo quan hệ cung cầu vốn và chi phí ngân hàng khác nhau như: lãi suất khu vực nông thôn sẽ cao hơn khu vực thành thị, lãi suất cho vay các tổ chức tín dụng cổ phần sẽ cao hơn các tổ chức tín dụng có quy mô và sức cạnh tranh lớn như các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam.
Muốn điều hành lãi suất cho vay một cách có hiệu lực thông qua việc khống chế lãi suất tiền gửi tối đa thì NHNN sẽ phải kết hợp cả 2 phương pháp điều hành trực tiếp và gián tiếp:
+ Điều chỉnh lãi suất cho vay bằng việc trực tiếp nâng hoặc hạ lãi suất tiền gửi tối đa tương ứng: muốn hạ lãi suất cho vay thì hạ lãi suất tiền gửi tối đa và ngược lại( điều hành bằng mệnh lệnh hành chính)
+ Điều hành gián tiếp bằng việc dùng các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ tác động vào khối lượng vốn trên thị trường như: NHNN mua bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn của các tổ chức tín dụng( nghiệp vụ thị trường mở), NHNN tái chiết khấu các loại chứng từ có giá(cửa sổ chiết khấu), thị trường liên ngân hàng hoạt động có hiệu quả nhằm thực hiện NHTƯ là người cho vay cuối cùng. Muốn điều hành khối lượng tiền bằng các công cụ gián tiếp có hiệu quả thì việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân ở mức độ khá phổ biến nhằm làm cho NHNN kiểm soát được tổng phương tiện thanh toán ở mức độ cao. Tuy nhiên, hiện nay các điều kiện trên ở nước ta chưa hội đủ, vì vậy khả năng kiểm soát và quản lí lãi suất cho vay sẽ rất hạn chế do chỉ còn mỗi một công cụ trực tiếp mà NHNN có thể thực hiện được là nâng hoặc hạ lãi suất tiền gửi tối đa để theo nó mà nâng hoặc hạ lãi suất cho vay. Tuy nhiên, xét theo quan hệ cung cầu về vốn, thì việc nâng hoặc hạ lãi suất tiền gửi tối đa trong điều kiện chưa có các công cụ gián tiếp phối hợp có thể tác động theo chiều ngịch, hạ lãi suất tiền gửi cũng có thể làm cho vốn tín dụng huy động được ít, trở nên khan hiếm và lãi suất cho vay sẽ “đắt lên” và ngược lại.
Vì vậy, trong điều kiện hiện tại của nước ta, khi chưa hội đủ các điều kiện như trên, nếu thực hiện lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa thì có thể dẫn đến tình trạng:
+ Các tổ chức tín dụng sẽ nâng lãi suất cho vay lên cao để đạt được lợi nhuận cao, vì bản chất của cơ chế thị trường là lợi nhuận tối đa. Dự kiến mức lãi suất cho vay có thể lên đến 2,5 % / tháng hoặc cao hơn, khi đó muốn điều chỉnh giảm lãi suất cho vay, NHNN chỉ còn một công cụlà giảm lãi suất tiền gửi tối đa nhưng hiệu lực sẽ rất kém, và lãi suất cho vay có thể không thể hạ xuống được. Khi lãi suất cho vay quá cao, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn, dư luận và các đại biểu quốc hội có thể phản ứng, khi đó điều hành qua lãi suất tiền gửi tối đa có thể kém hiệu lực và lãi suất cho vay có thể vẫn không hạ được theo ý muốn và lại phải quay trở lại với cơ chế lãi suất cho vay tối đa.
+ Lãi suất cao nhưng các doanh nghiệp và hộ sản xuất vẫn phải vay vì thiếu vốn sản xuất và vay để bù đắp các khoản nợ cũ đến hạn do cung về vốn ở nước ta luôn nhỏ hơn cầu, lợi nhuận thấp hơn chi phí phải trả ngân hàng sẽ dẫn đến nguy cơ cả doanh nghiệp và ngân hàng đều khó khăn và dẫn đến chỗ cả hai đều mất khả năng thanh toán.
+ Đồng thời, nếu thực hiện lãi suất này thì chắc chắn sẽ hình thành nhiều khu vực lãi suất theo cung cầu vốn và chi phí ngân hàng khác nhau như: lãi suất khu vực nông thôn sẽ cao hơn khu vực thành thị, lãi suất cho vay các tổ chức tín dụng cổ phần sẽ cao hơn các tổ chức tín dụng có quy mô và sức cạnh tranh lớn như các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Và như vậy, sẽ giảm bớt tính lành mạnh của cạnh tranh và trong sự cạnh tranh này chắc chắn các tổ chức tín dụng lớn, có nguồn vốn lớn là các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài có ưu thế hơn, các tổ chức tín dụng nhỏ như ngân hàng thương mại cổ phần, quỹ tín dụng nhân dân sẽ gặp không ít khó khăn.
+ Việc thực hiện chính sách giảm lãi suất cho vay ở khu vực núi cao, hải đảo sẽ khó có cơ sở để thực hiện, trong khi các đối tượng vay vốn thuộc các khu vực này chưa được tách bạch là đối tượng chính sách được vay theo chính sách riêng của Nhà nước. Vì hiện tại việc giảm lãi suất miền núi cao(khu vực 3 ở vùng miền núi) được quy định giảm 30% trần lãi suất cùng loại do NHNN công bố.
Vì vậy, khi NHNN xây dựng và củng cố thị trường tiền tệ, chuyển từ điều hành chính sách tiền tệ từ công cụ trực tiếp sang kết hợp điều hành bằng công cụ trực tiếp với công cụ gián tiếp, đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động để mua bán các chứng khoán ngắn hạn của các tổ chức tín dụng, thực hiện tái chiết khấu các chứng từ của các tổ chức tín dụng, củng cố và kiểm soát thị trường liên ngân hàng có giá để thực hiện vai trò của Ngân hàng Trung ương là người cho vay cuối cùng, tiếp tục củng cố và mở rộng việc mở và sử dụng tài khoản cá nhân, để trên cơ sở đó thực hiện một chính sách lãi suất cơ bản linh hoạt hơn trần lãi suất như công bố lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa có sự kiểm soát của Nhà nước bằng cả trực tiếp và gián tiếp. Sau quá trình thực hiện thành công lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa thì ta sẽ tiến thêm một bước nữa để tự do hoá lãi suất hoàn toàn khi đã có và chủ động về các công cụ điều hành chính sách tiền tệ và các điều kiện khác về kinh tế và chính sách tiền tệ ổn định.
4. Lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay tối đa.
Lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay tối đa có thể có nhiều loại như sau:
- Lãi suất cơ bản là lãi suất trần cho vay như hiện nay.
- Lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay trung bình của các tổ chức tín dụng trong điều kiện bình thường đủ bù đắp chi phí, có lợi nhuận và cộng hoặc trừ một biên độ dao động để các tổ chức tín dụng hoạt động trong điều kiện khó khăn hoặc thuận lợi hơn so với mức trung bình về chi phí và cung cầu về vốn để có điều kiện bù đắp chi phí và điều hoà cung cầu vốn huy động khi cần thiết.
-Lãi suất cơ bản là mức lãi suất cho vay tối thiểu đủ bù đắp các chi phí và có lợi nhuận của các tổ chức tín dụng và cộng biên độ dao động để các tổ chức tín dụng ấn định các mức lãi suất tiền gưỉ và tiền vay cụ thể.
Trong các loại lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay tối đa trên thì trần lãi suất vẫn là loại lãi suất có nhiều tính ưu việt hơn, các loại lãi suất cộng hoặc vừa cộng vừa trừ một biên độ nhất định, thực chất là khống chế lãi suất cho vay tối đa nhưng kém linh hoạt hơn trần lãi suất do vừa bị khống chế trần trên vừa khống chế sàn dưới về lãi suất cho vay hoặc lãi suất tiền gửi. Trần lãi suất thể hiện được các tính ưu việt hơn so với các loại lãi suất khác có thể nhận biết như:
-Đối với các tổ chức tín dụng được tự do hoá lãi suất tiền gửi và cho vay trong phạm vi trần tối đa. Tùy theo đặc điểm, điều kiện của các loại hình tổ chức tín dụng về quy mô, chi phí khác nhau, cung cầu vốn của các vùng khác nhau mà NHNN có thể quy định nhiều mức lãi suất trần cho phù hợp với điều kiện riêng có của các loại hình tổ chức tín dụng và của các vùng khác nhau. Các tổ chức tín dụng căn cứ vào trần lãi suất của NHNN để ấn định các mức lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi cụ thể phù hợp cung cầu về vốn , các vùng khác nhau, mức chi phí và lợi nhuận...
-Đối với Nhà nước, kiểm soát được lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng , bảo vệ được lợi ích của người vay, nhất là các doanh nghiệp nhà nước và hộ gia đình ở nông thôn là hai thành phần chiếm tỉ trọng vay vốn ngân hàng khoảng 70 % tổng dư nợ vay ngân hàng, không phải vay với lãi suất quá cao, đồng thời điều hoà lợi nhuận giữa người vay và ngân hàng một cách hợp lí.
-Tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng trong khuôn khổ trần lãi suất, tránh được tình trạng chạy đua theo lợi nhuận tối đa nên bảo đảm được an toàn hệ thống của các tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên, lãi suất cơ bản theo trần lãi suất phải là một trần đủ rộng để đáp ứng được yêu cầu lãi suất linh hoạt, tăng cường tính cạnh tranh của các tổ chức tín dụng, phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế, trần lãi suất nên ở mức đủ rộng và thông thoáng phản ánh được quan hệ cung cầu về vốn tín dụng và cạnh tranh lành mạnh giữa các tổ chức tín dụng. Trần lãi suất phải là trần lãi suất đủ rộng, đảm bảo được cho mọi tổ chức tín dụng và mọi khách hàng ở mọi vùng khác nhau, những nơi có nhu cầu vốn lớn, chi phí cho vay cao thì cho vay sát trần, còn những nơi có điều kiện ngược lại thì cho vay thấp hơn trần để cạnh tranh lẫn nhau, và vì vậy, nên là một trần chung nhất mà không nên là nhiều trần như hiện nay. Trần như vậy thì chỉ có nâng lên khi cung thấp hơn cầu về vốn do các yếu tố tỉ giá, lạm phát.... tăng lên làm cho trần bị “chật chội”, còn khi cầu thấp hơn cung về vốn, các tổ chức tín dụng tự hạ lãi suất cho vay và huy động xuống dưới trần. Vì nếu khi các tổ chức tín dụng hạ lãi suất cho vay xuống dưới trần và NHNN cũng hạ trần lãi suất sát xuống theo thì sẽ làm mất ý nghĩa của trần lãi suất, không còn là một cơ chế lãi suất linh hoạt nữa, mất tính cạnh tranh, không phản ánh đúng quan hệ cung cầu vốn trên thị trường và trở thành một cơ chế lãi suất gò bó, thiếu linh hoạt như yêu cầu đặt ra.
5.Lãi suất cơ bản bằng ngoại tệ.
Có thể lấy lãi suất SIBOR của USD kì hạn 6 tháng hoặc 1 năm làm lãi suất cơ bản cho lãi suất ngoại tệ, tổ chức tín dụng được cộng với biên độ dao động do NHNN quy định để ấn định lãi suất cho vay bằng USD. Lãi suất cho vay các đồng tiền khác cũng do TCTD ấn định.
Khi xác định lãi suất cơ bản và biên độ giao động của lãi suất ngoại tệ cần căn cứ vào các yếu tố như: Căn cứ vào lãi suất SIBOR của USD để công bố lãi suất cơ bản và điều chỉnh khi cần thiết; căn cứ xác định biên độ dao động của lãi suất ngoại tệ; quan hệ tỉ giá ngoại tệ trong nước; quan hệ cung, cầu vốn ngoại tệ và nội tệ trong nước; chủ trương thu hút vốn trong nước và ngoài nước của nhà nước.
Hoặc lãi suất cơ bản bằng ngoại tệ là trần lãi suất và tiếp tục khống chế các mức lãi suất tiền gửi tối đa bằng USD, theo chính sách quản lí ngoại hối và tỉ giá trong từng thời kì như hiện nay đang thực hiện.
Với những ưu, nhược điểm và mức độ phù hợp với tình hình Việt Nam của mỗi loại lãi suất cơ bản trên, cần tìm ra loại lãi suất đáp ứng được tối đa những yêu cầu hiện nay ở nước ta. Trong đó lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay tối đa là hợp lí nhất vì:
Việc sử dụng lãi suất cho vay của ngân hàng làm lãi suất cơ bản có sự tương đồng hơn về mặt bằng giá vốn trên thị trường, nó cũng tương đương với mức phí gọi vốn của nhà sản xuất, do vậy sẽ phản ánh sát thực hơn tình hình cung- cầu vốn trên thị trường.
-Khi sử dụng lãi suất cho vay của ngân hàng làm lãi suất cơ bản, các TCTD sẽ hoàn toàn chủ động và linh hoạt trong kinh doanh cũng như điều tiết cung- cầu về vốn, góp phần tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các TCTD trong khuôn khổ lãi suất cơ bản.
-Quan điểm điều hành lãi suất cơ bản này cho phép bảo vệ lợi ích của người vay và tạo ra mặt bằng tương đối về phân phối lợi nhuận giữa các thành phần kinh tế với các TCTD và người gửi tiền.
-Việc quy định lãi suất cơ bản theo trần lãi suất cho vay tối đa tạo ra mặt bằng chung về lãi suất cho vay trên phạm vi rộng khắp, do vậy tạo điều kiện cho công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát và điều hành chung về lãi suất của NHTW.
-Việc xác định và công bố lãi suất cơ bản trong điều hành chính sách lãi suất của NHTW theo trần lãi suất cho vay tối đa sẽ dễ dàng, linh hoạt, thuận tiện hơn nhiều so với việc sử dụng lãi suất tiết kiệm tối thiểu của ngân hàng làm lãi suất cơ bản, vì về bản chất, lãi suất tiết kiệm của các ngân hàng không phải là mức giá vốn được chấp nhận trên thị trường, do vậy nó sẽ không phản ánh sát thực tình hình cung- cầu vốn.
-Việc sử dụng lãi suất cho vay của ngân hàng làm lãi suất cơ bản cũng phù hợp với tình hình thực tiễn về điều hành lãi suất hiện nay ở Việt Nam.
-Mặt khác việc chuyển sang điều hành chính sách lãi suất thị trường tự do hoàn toàn khi hội đủ các điều kiện cần thiết thì việc sử dụng trần lãi suất cho vay tối đa cũng sẽ dễ dàng hơn so với việc sử dụng lãi suất tiết kiệm tối thiểu của ngân hàng làm lãi suất cơ bản xuất phát từ xu hướng chung là chấp nhận mức lãi suất có mối quan hệ mật thiết và tương đồng với mặt bằng giá vốn làm cơ sở chung để điều hành chính sách lãi suất.
I. Mục tiêu cần hướng tới đối với chính sách lãi suất hiện nay.
1. Lãi suất cơ bản phải đáp ứng mục tiêu lãi suất tín dụng.
Lãi suất tín dụng của Việt Nam luôn phải đặt trong điều kiện giải quyết đồng thời nhiều mục tiêu, nhưng mục tiêu đó có khi lại mâu thuẫn nhau, đó là:
Giải quyết cơ bản các tồn đọng cũ của hệ thống NHTM.
Đây là điều kiện đầu tiên để NHNN công bố lãi suất cơ bản và nó có thể đi vào cuộc sống thuận lợi. Hiện nay đang có hàng ngàn tỉ đồng vốn cho vay của hệ thống NHTM đóng băng trong núi nợ quá hạn và tài sản phát mại phải có biện pháp hữu hiệu để giải quyết dứt điểm. Nếu chưa lành mạnh hoá tình hình tài chính- tiền tệ cho hệ thống NHTM thì còn khó khăn cho việc thực hiện bất kì một chính sách nào của ngân hàng.
Huy động nhiều nhất mọi nguồn vốn trong dân cư để đáp ứng vốn cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Mức lãi suất vừa đáp ứng quan hệ cung- cầu vốn của nền kinh tế, vừa phải từ từ giảm thấp để phù hợp với lợi nhuận bình quân của nền kinh tế(đặc biệt là đối với doanh nghiệp vay vốn), vừa đảm bảo cho NHTM có lãi nhất định.
Lãi suất tín dụng vừa kích thích được sản xuất trong nước, vừa khuyến khích phát triển kinh tế đối ngoại, xử lí hài hoà lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ để điều chỉnh quan hệ tín dụng quốc tế phù hợp, hiệu quả.
Lãi suất tín dụng vừa đảm bảo yêu cầu của tín dụng thương mại, nhưng còn phải giải quyết yêu cầu tín dụng chính sách bởi hai khu vực này chưa có sự tách bạch một sớm, một chiều.
Lãi suất tín dụng phải đáp ứng yêu cầu xử lí linh hoạt, vừa đáp ứng yêu cầu cạnh tranh giữa các chủ thể tham gia kinh doanh tiền tệ để tiến tới tự do hoá lãi suất.
2. Mục đích của việc điều chỉnh lãi suất hiện nay.
Giảm lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn.
Thực tế hiện nay ở nước ta cho thấy có 2 hướng xử lí vấn đề lãi suất ngân hàng:
Giảm lãi suất cho vay để kích thích tăng trưởng kinh tế.
Tăng lãi suất để huy động tối đa tiền nhàn rỗi trong dân vào sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Cả 2 xu hướng này đều có mục tiêu như nhau nhưng biện pháp khác nhau. Đối với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, nên kết hợp hài hoà giữa hai hướng, trong đó ưu tiên cho hướng thứ nhất, tức là giảm lãi suất cho vay, kích thích các doanh nghiệp vay vốn mở rộng sản xuất kinh doanh vì:
+ Các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hiện nay rất cần vay vốn để đầu tư chiều sâu phát triển sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường trong nước và xuất khẩu. Thế nhưng yêu cầu đó đang gặp khó khăn là lãi suất quá cao so với tỉ suất lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh.
+ Vốn nhàn rỗi trong dân còn nhiều, nhưng chưa huy động được bao nhiêu. Muốn tăng sức hấp dẫn đối với dân cư, ngoài lãi suất hợp lí, phải đảm bảo tính ổn định và an toàn của giá trị đồng tiền.
Xu hướng giảm lãi suất cho vay; lãi suất huy động có nhiều tính tích cực hơn và hạn chế được rủi ro trong hoạt động tín dụng của các NHTM, đồng thời tạo được tâm lí ổn định của khách hàng.
Phần III: Quá trình tiến tới tự do hoá lãi suất Trong giai đoạn hiện nay
I . Lý luận chung về tự do hoá lãi suất
Tự do hoá lãi suất là một bộ phận cơ bản của tự do hoá tài chính, tức là lãi suất được tự do biến động để phản ứng theo các lực lượng cung-cầu vốn trên thị trường, loại bỏ những áp đặt mang tính hành chính lên sự hình thành của lãi suất. Nó cho phép các ngân hàng tự chủ trong việc ấn định các mức lãi suất kinh doanh của mình. Trong cơ chế tự do hoá lãi suất, nếu nhà nước hoàn toàn không can thiệp đến hệ thống lãi suất thị trường thì đó là cơ chế tự do hoá hoàn toàn (thả nổi hoàn toàn). Nếu nhà nước có tham gia can thiệp gián tiếp theo một định hướng xác định thì đó là cơ chế tự do hoá lãi suất có quản lý, và khi đó NHTƯ tác động tới lãi suất chủ yếu dựa trên các công cụ kiểm soát tiền tệ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở, tái chiết khấu, hợp đồng mua lại, và một phần dựa vào áp đặt tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Có thể khái quát sự tác động gián tiếp đó như sau:
Nghiệp vụ thị trường mở (Open Market Operations):
NHTƯ muốn đẩy mạnh tăng trưởng, mở rộng tín dụng bằng cách mua vào các chứng khoán có giá sẽ làm cho cung về tiền tệ tăng lên, dẫn tới giảm lãi suất. Ngược lại, khi NHTƯ muốn thu hẹp tín dụng bằng cách bán ra các chứng khoán có giá, cung tiền tệ giảm xuống dẫn tới tăng lãi suất trên thị trường tiền tệ.
Lãi suất tái chiết khấu (Discount Rate):
Khi NHTƯ nâng lãi suất tái chiết khấu, các NHTM buộc phải tăng dự trữ để tránh phải vay với lãi suất cao khi thiếu hụt khả năng thanh toán.Đồng thời, NHTM cũng phải tăng lãi suất cho vay để bù đắp chi phí cho những khoản tăng thêm dự trữ, do vậy mà lãi suất thị trường tăng lên. Ngược lại, việc giảm lãi suất tái chiết khấu của NHTƯ cho phép các NHTM giảm dự trữ và hạ lãi suất cho vay, do đó mà hạ lãi suất thị trường.
Hợp đồng mua lại (Repurchase Agreement):
Hợp đồng mua lại là hợp đồng bán những chứng khoán, trong đó người bán cam kết sẽ mua lại chứng khoán này vào một thời điểm trong tương lai với mức giá được xác định trước trong hợp đồng. Như vậy, thực chất hợp đồng mua lại là cho vay có thế chấp, trong đó chứng khoán đóng vai trò thế chấp. Khi mua thế chấp (tức cho vay), NHTƯ bơm tiền vào thị trường tài chính và do vậy làm giảm lãi suất ngắn hạn. Khi bán thế chấp từ tài khoản của mình, NHTƯ hút tiền ra khỏi thị trường tiền tệ và do đó tạo ra sức ép làm tăng lãi suất ngắn hạn.
II.Sự cần thiết của việc tự do hoá lãi suất .
Từ đầu năm 1996, chính sách lãi suất của NHNN đã có sự thay đổi theo hướng tự do hoá; huỷ bỏ quy định về lãi suất tiền gửi, điều chỉnh giảm mức trần lãi suất cho vay phù hợp với cung cầu vốn và lạm phát thấp. Các TCTD căn cứ vào mức lãi suất trần cho vay và lãi suất huy động vốn trên thị trường và từ tháng 11/1997, trong nghị quyết của Quốc hội đã không quy định về chênh lệch lãi suất 0,35% đối với hoạt động tín dụng ngân hàng. Chính sách lãi suất đã đảm bảo được các yêu cầu lãi suất cho vay trung, dài hạn cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn, rút ngắn khoảng cách giữa lãi suất tiền gửi dân cư và tiền gửi doanh nghiệp. Mức chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn không còn bị khống chế mà phụ thuộc vào thị trường và hiệu quả kinh doanh của từng TCTD. Những giải pháp đó đã được thị trường chấp nhận và góp phần và thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Các ngân hàng có nhiều biện pháp đổi mới huy động vốn như mở ra nhiều loại huy động, kì phiếu trả lãi trước , tiết kiệm quay số mở thưởng. Đến 31/12/1998 nguồn vốn huy động và quản lí chiếm 82% tổng nguồn vốn hoạt động (riêng các NHQD là trên 92%) NH Nông Nghiệp &PTNT huy động kì phiếu trả lãi trước 1%/ tháng, chỉ trong 4 ngày cuối tháng 12/1998 đã huy động được trên 170 tỉ đồn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0745.doc