MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU
NỘI DUNG
CHƯƠNG I. TÍNH TẤT YẾU CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
1. Xu thế toàn cầu hoá hiện nay
1.1. Khái niệm chung về toàn cầu hoá
1.2. Tính tất yếu của toàn cầu hoá
1.3. Hai mặt của toàn cầu hoá
2. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
2.1. Việt Nam tất yếu, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
2.2.Nội dung và hình thức hội nhập kinh tế quốc tế
2.2.1. Nội dung hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay
2.2.2. Các hình thức hội nhập kinh tế quốc tế
2.2. Một số lợi ích bước đầu nước ta đạt được trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế
CHƯƠNG II. TIẾN TRÌNH THỰC TRẠNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
1. Tiến trình hội nhập (trong thời gian vừa qua) của Việt Nam
2. Thực trạng hội nhập kinh tế của Việt Nam hiện nay
2.1. Việt Nam trong lộ trình AFTA
2.2. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ
2.3. Quan hệ kinh tế thương mại Việt - Trung
2.4. Việt Nam với Liên minh Châu Âu EU
2.5. Việt Nam với tổ chức thương mại thế giới WTO
3. Những khó khăn của nước ta trong tiến trình hội nhập hiện nay
3.1. Trình độ phát triển thấp của nền kinh tế Việt Nam với hai đặc trưng nghèo nàn và lạc hậu
3.2. Khó khăn thứ hai bắt nguồn từ đặc trưng Việt Nam đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường.
3.3. Làm thế nào để hội nhập kinh tế quốc tế mà vẫn độc lập tự chủ về chính trị, vẫn giữ gìn bản sắc văn hoá của dân tộc?
3.4. Cuối cùng đó là nhân tốc bối cảnh quốc tế ngày càng diễn ra phức tạp, khó lường.
4. Những thuận lợi của Việt Nam trong hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay
4.1. Nền kinh tế Việt Nam có mức tăng trưởng khá ổn định
4.2. Việt Nam có môi trường chính trị ổn định, quốc phòng an ninh đảm bảo, môi trường đầu tư kinh tế an toàn.
4.3. Nhân dân ta có truyền thống cần cù, thông minh, dân tộc ta có truyền thống đoàn kết yêu nước.
CHƯƠNG III. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CHỦ ĐỘNG HỘI NHẬP KINH TẾ
1. Xác định quan điểm chủ động quốc tế
2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế trong tình hình hiện nay
2.1. Nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế
2.1.1. Đối với doanh nghiệp, Nhà nước để nâng cao sức cạnh tranh cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu.
2.2.2. Xây dựng kế hoạch hội nhập tới từng cấp, ngành, chủ thế kinh tế
2.3. Tạo môi trường đầu tư ổn định, hiệu quả để thu hút vốn đầu tư nước ngoài
2.4. Tập trung phát triển nhân lực
2.5. Tiếp thu điều chỉnh chính sách thương mại
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6147 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiến trình thực trạng hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát triển nhất, hội nhập kinh tế quốc tế với vai trò chi phối song chủ yếu và trước hết vẫn đưa vào các hiệp nghị kinh tế thương mại hai bên: Mỹ - Nhật, Mỹ - Châu Âu.... Nhật Bản hay các nước NIESS cũng vậy. Các quốc gia này, tay không tham gia vào các khối kinh tế song các quan hệ hai bên của họ cũng đủ sức tạo ra cạnh tranh những lợi thế so sánh có lợi cho họ trong cạnh tranh quốc tế. Ví dụ, các quốc gia ký hiệp định kinh tế, thương mại với Mỹ, dù chỉ là quan hệ giữa hai nước nhưng tổng lượng thị trường hàng hoá dịch vụ đầu tư đã không thua kém bất kỳ một khối kinh tế nào. Mặc dù vậy các hiệp định kinh tế dù có rộng lớn đến đâu vẫn có những hạn chế, đó là khi phải đối diện với các vấn đề mang tính toàn cầu, những khối kinh tế hùng mạnh.
2 - Các khối kinh tế khu vực.
Hiện nay, trên thế giới có thể kể đến hàng chục khối kinh tế khu vực khác nhau, nhưng hoạt động nổi bật hơn cả là: EU (Liên minh Châu Âu) NAFTA (Khối kinh tế Bắc Mỹ), AFTA (khu vực mậu dịch tự do ASEAN), APEC (Diễn đãn kinh tế Châu á - Thái Bình Dương).... Tuy nhiên mức độ hợp tác của các khối kinh tế này khác nhau. Có khi chỉ dừng lại ở mức độ thỏa thuận buôn bán, có khối đã thoả thuận xoá bỏ hoàn toàn hàng rào thuế quan và phi thuế quan trong khối, có khối đã lập ra liên minh thuế quan, tạo lập ra cả một thị trường chung cho phép tự do thương mại hàng hoá, dịch vụ vốn, lao động. Nấc thang phát triển cao nhất hiện nay của các khối kinh tế là liên minh kinh tế. Liên minh Châu Âu (EU) bắt đầu hoạt động từ năm 1992 với các chính sách: tiền tệ, tài chính, thương mại công nghệ, an ninh chung, quốc hội, toà án, đồng tiền chung...
Việc ra đời các khối kinh tế có tác động quan trọng, thúc đẩy tự do hoá thương mại đầu ra, thúc đẩy quá trình mở cửa thị trường các quốc gia, tạo lập ra những khu vực thị trường rộng lớn, thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá tiên tiến...
3 - Những tổ chức kinh tế toàn cầu:
Thứ nhất là các tổ chức kinh tế có tác dụng điều chỉnh các quan hệ kinh tế toàn cầu hiện có: Tổ chức Thương mại thế giới (WTO); Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), một số tổ chức kinh tế của Liên hiệp quốc: VNDP, G8 (G7 Nga), Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế DECD... Hoạt động nổi bật nhất hiện nay vẫn là WTO, IMF, WB. Tuy nhiên, cho đến nay mới chỉ có những cam kết quốc tế về thương mại hàng hoá là tương đối có hiệu lực, còn các lĩnh vực chính sách tiền tệ, đầu tư chu chuyển vốn, bảo vệ, tiêu chuẩn về lao động và di chuyển lao động quốc tế, chống tham nhũng.... vẫn cần có luật lệ toàn cầu hữu hiệu hơn. Ngay cả hoạt động của IMF và WB cũng chỉ kiểm soát một phần dòng vốn, tiền tệ chính thức của Nhà nước, còn việc buôn bán tiền tệ, và dòng vốn tư nhân vẫn vận động ngoài vòng kiểm soát. Do đó việc cải tổ thích hợp những tổ chức này là điều cần thiết trong thời gian tới.
Thứ hai là các tổ chức kinh doanh toàn cầu: đó là các Công ty xuyên quốc gia với các con số đáng kể: 60.000 Công ty xuyên quốc gia với 500.000 chi nhánh, nắm 25% sản xuất thế giới, 50% mậu dịch quốc tế, 90% với đầu tư trực tiếp, trên 80% bản quyền kỹ thuật và công nghệ mới. Các đặc trưng mới hiện nay của các Công ty xuyên quốc gia là: (1) làn sóng sát nhập gia tăng, chứng tỏ sức cạnh tranh toàn cầu ngày càng mạnh, đòi hỏi vốn, công nghệ mạng lưới phân phối ngày càng cao; (2) các Công ty nhỏ và vừa cũng gia tăng hoạt động xuyên quốc gia, đặc biệt trong dịch vụ; (3) ở các nước đang phát triển xuất hiện các Công ty xuyên quốc gia của mình hoạt động ở nhiều nước; (4) các Công ty xuyên quốc gia ở các nước phát triển. Nếu không có các Công ty xuyên quốc gia thì sự hội nhập chỉ dừng lại hoạt động xuất nhập khẩu, thu hút nước ngoài vào nước mình. Do đó có thể dự báo: các Công ty xuyên quốc gia sẽ là hình thức doanh nghiệp cơ bản trong tương lai.
2.3. Một số lợi ích bước đầu nước ta đạt được trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Mặc dù vấp phải rất nhiều khó khăn, song nhìn lại những năm qua, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế vẫn không ngừng được mở rộng và bước đầu đã đưa lại những lợi ích đáng kể, không thể phủ nhận cho đất nước.
Một là, thông qua các hiệp ước song phương và đa phương, cho đến nay, nước ta đã có quan hệ với 165 nước trên thế giới (tại thời điểm năm 2000 là 154 nước), kim ngạch xuất khẩu tăng từ 677,8 núp/USD năm 1986 lên 14,3 tỷ USD năm 2000, năm 2001 tăng 4,5%. Trong cùng thời gian kim ngạch nhập khẩu tăng tương ứng từ 1,83 tỷ núp/USD lên 15,2 tỷ USD. Từ chỗ nhập siêu tương đối lớn vào nửa những năm 80 đến nay cán cân xuất - nhập gần đạt cân bằng, từ cuối những năm 90, nước ta đã có những mặt hàng xuất khẩu đạt trên 1 tỷ USD như: dầu thô, gạo, hàng dệt may, giày dép, chế biến thuỷ sản...
Cuối năm 2001, hiệp định thương mại Việt - Mỹ chính thức hiệu lực mở ra cho hàng hoá dịch vụ Việt Nam một thị trường rộng mở và đầy thách thức cùng thời gian này việc Trung Quốc gia nhập WTO, tạo điều kiện cho Việt Nam xâm nhập thị trường với 1,3 tỷ dân. và chắc chắn cơ hội mở rộng thị trường ra khu vực từng bước thế giới vẫn chưa dừng ở đó.
Hai là, song song với việc xâm nhập thị trường quốc tế, Việt Nam đã tăng khả năng thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài. Kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được chính thức ban hành đầu năm 1988 và từng bước được điều chỉnh đến cuối năm 2000 đã có trên 700 Công ty thuộc 62 nước và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào nước tă với hơn 3.000 dự án, có tổng số vốn đăng ký trên 36 tỷ USD trong đó vốn đã thực hiện 17 tỷ USD.
Mặc dù do khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực và sự chậm đổi mới trong chính sách kinh tế, song sự đóng góp của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài vẫn có xu hướng gia tăng những năm gần đây, cụ thể là tỷ trọng của khu vực này trong GDP tăng lên, 6,3% năm 1995; 7,4% năm 1996; 9,1% năm 1997; 9,8% năm 1998; 10% năm 1999; trên 10% năm 2000 và đến hết ngày 30/10/2001 cả nước thêm 1,9 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài tăng 200% về vốn so với cùng kỳ năm 2000. Bên cạnh đó, ngoài thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, các dự án có vốn đầu tư nước ngoài tạo ra khoảng 35 việc làm trực tiếp và hàng chục vạn việc làm gián tiếp.
Hiện nay Việt Nam được đánh giá là đặc điểm an toàn nhất khu vực Châu á - Thái Bình Dương. Đây có phải là cơ hội cho dòng chảy vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam tăng lên?
Ba là, không chỉ các dòng vốn trực tiếp, nhiều tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới được đưa vào nước ta. Trong những dự án liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài thuộc các ngành bưu chính viễn thông, dầu khí, điện, điện tử, dệt may, da giày... các công nghệ được chuyển giao là tương đối hiện đại. Mặc dù vẫn có những công nghệ trung bình không còn phù hợp với các nước Mỹ, Nhật... nhưng vẫn có hiệu quả ở nước ta trong một số ngành sự khác do yêu cầu sử dụng lao động của các công nghệ đó cao, có khả năng tạo thêm nhiều việc làm mới.
Quả thực thu hút vốn đầu tư trực tiếp đồng thời tiếp nhận chuyển giao công nghệ và sử dụng nó có hiệu quả là con đường thích hợp với trình độ Việt Nam hiện nay hơn cả, mặc dù nước ta vẫn có khả năng nhập khẩu công nghệ từ bên ngoài vào.
Bốn là, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo điều kiện giao lưu các nguồn lực giữa nước ta và thế giới trong đó nguồn nhân lực trí tuệ và tay nghề cao có tầm quan trọng đặc biệt trong sự phát triển. Nguồn nhân lực Việt Nam khá dồi dào: song lại đang có những hạn chế nên đã đưa đến tình trạng hiện nay là: thừa nhiều lao động giản đơn chưa được đào tạo nhưng lại thiếu nghiêm trọng lao động kỹ thuật biết kinh doanh. Trong tình hình này, thông qua con đường hội nhập kinh tế quốc tế, mối năm nước ta xuất khẩu từ 24 - 25 ngàn lao động đồng thời thực hiện hợp đồng gia công chế biến xuất khẩu. Do đó đã giảm bớt sức ép về việc làm trong nước lại vừa học hỏi những kinh nghiệm về quản lý điều hành công nghệ tiên tiến.
Cả bốn thành quả bước đầu trong tiến trình chủ động hội nhập nói trên đều là những nhân tố mới của tăng trưởng kinh tế, đồng thời mang lại những lợi ích quan trọng cho nền kinh tế đất nước. Chúng lại tiếp tục khẳng định tư tưởng đúng đắn chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng, Nhà nước, là nguồn cổ đông cho những bước đi tiếp theo trong tiến trình hội nhập, tham gia toàn cầu hoá.
Chương II
tiến trình thực trạng hội nhập kinh tế
quốc tế của Việt Nam
1. Tiến trình hội nhập trong thời gian vừa qua của Việt Nam
Nghiên cứu vấn đề này ta mới nhận thấy rằng: chính sách mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển đất nước không phải là một điều hoàn toàn mới mẻ đối với Đảng và Nhà nước ta. Nó chính là sự kế thừa, phát triển và vận động sáng tạo và từng hoàn cảnh, từng giai đoạn của đất nước những luận điểm mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà vừa mới ra đời. Trong bài trả lời phỏng vấn của các nhà báo ngày 23 tháng 10 nă, 1945, Người đã nói: "Chúng ta hoan nghênh những người Pháp muốn đem tư bản xứ ta khai thác những nguồn nguyên liệu chưa có ai khai thác.... Chúng ta sẽ mời những nàh chuyên môn Pháp, cũng như Mỹ, Nga hay Tàu đến đây giúp việc cho chúng ta trong việc kiến thiết quốc gia..." cuối năm 1946 trong "Lời kêu gọi Liên hiệp quốc" Người lại viết "Trong chính sách đối ngoại của mình, nhân dân Việt Nam sẽ tuân thủ những nguyên tắc dưới đây":
1) Đối với Lào và Miên (Campuchia), nước Việt Nam luôn tôn trọng nền độc lập của hai nước đó và bày tỏ lòng mong muốn hợp tác trên cơ sở bình đẳng tuyệt đối giữa các nước có chủ quyền.
2) Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực:
Một là nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình.
Hai là, nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường xá giao thông cho việc buôn bán quá cảnh quốc tế.
Ba là, nước Việt Nam tham gia một tổ chức hợp tác quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hiệp quốc.
Tuy nhiên trong thời gian đó, do hoàn cảnh lịch sử, quan hệ quốc tế của nước ta chỉ giới hạn trong Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) khối liên kết kinh tế xã hội chủ nghĩa. Có nghĩa là Việt Nam chỉ có quan hệ kinh tế với các nước xã hội chủ nghĩa, mà chủ yếu là nước ta dựa vào sự giúp đỡ của họ, đặc biệt là Liên Bang Xô Viết.
Tiếp theo đó là hai cuộc kháng chiến trường kỳ thần thánh chống Pháp và chống Mỹ của dân ta. Mọi nguồn lực, sức người, sức của đểu được tập trung tối đa cho chiến tranh, các vấn đề khác tạm thời gác lại.
Đến khi đất nước hoàn toàn giải phóng, nước ta lại tập trung khôi phục nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung có sự giúp đỡ to lớn của xã hội chủ nghĩa trong Hợp đồng tương trợ kinh tế (SEV)?
Đồng thời nhận thấy xu thế toàn cầu hoá đang ngày càng tăng lên, các quốc gia ở mức độ này hay mức độ khác đều tuỳ thuộc vào nhau, do đó nếu nước nào đóng cửa với thế giới là đi ngược xu thế của thời đại mà mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu tất yếu hướng tới sự phát triển. Đại hội VI của Đảng (12 - 1986), trong khi quyết định chuyển từ mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thì cũng đồng thời chủ trương: Việt Nam phải tham gia ngày càng rộng rãi vào sự phân công lao động quốc tế, tích cực phát triển quan hệ kinh tế và khoa học, kỹ thuật với các nước, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
Tuy nhiên trong tình hình cuộc chiến tranh lạnh lúc đó tiếp diễn, Mỹ vẫn ngoan cố kéo dàu việc bao vây, cấm vận chống lại nước ta thì việc thực hiện chính sách mở cửa và hội nhậ kinh tế quốc tế của Việt Nam những năm tiếp theo đó chủ yếu nghiêng về một phía - Liên Xô và các nước chủ nghĩa xã hội trong Hội đồng tương trợ kinh tế (SEU).
Phải trải qua gần 5 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta bắt đầu vận hành có kết quả, đồng thời đứng trước thực tế của các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã sụp đổ, Liên Xô cũng đang trượt dài tới bờ vực của sự tan rã, đại hội VII của Đảng (6 - 1991) mới đề ra các luận điểm có ý nghĩa phương châm chỉ đạo, tổng quát cho việc thị trường chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế rộng rãi ở nước ta. "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển"; "Đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền bình đẳng và cùng có lợi".
Đại hội Đảng lần thứ VIII ( 6- 1996) tiếp tục cụ thể hoá các luận điểm trên và quyết định "đẩy nhanh quá trình hội nhậ kinh tế khu vực và thế giới" Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ IV khoá VIII (12 - 1997) cũng đã đưa ra nguyên tắc hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta.
Một là, trên vấn đề phát huy nội lực, thực hiện nhất quán lâu dài chính sách thu hút nguồn lực bên ngoài.
Hai là, tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ, gia nhập APEC và WTO.
Ba là, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khu vực AFTA.
Gần đây nhất, Đại hội IX của Đảng (4 - 2001) tiếp tục vạch ra phương châm cho tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian 10 năm tới 2001 - 2010: "... nâng lên một bước mới gắn với việc thực hiện các cam keets quốc tế đòi hỏi chúng ta phải ra sức nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế". Nghị quyết Đại hội Đảng lần này lại nhấn mạnh thêm: "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường".
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và những luận điểm có ý nghĩa phương châm chỉ đạo hành động của Đảng, 15b năm qua cùng với việc đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, Nhà nước ta lần lượt thi hành một loạt biện pháp để thúc đẩy tiến trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Tháng 12 - 1987, Quốc hội nước ta thông qua Luật đầu tư nước ngoài Việt Nam và cho đến nay vẫn liên tục được bổ sung, sửa đổi để phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế từng giai đoạn.
Năm 1989, Việt Nam đã mở các cuộc đàm phán để nối lại quan hệ quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng thế giới (WB) và đến tháng 10 - 1993 đã bình thường hoá quan hệ tín dụng với hai tổ chức tài chính, tiền tệ lớn nhất thế giới này.
Tháng 7/1995, Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN, và từ ngày 01/01/1999 bắt đầu thực hiện cam kết trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do ASEAN tức AFTA, cũng tháng 7 này, Việt Nam đã ký kết Hiệp định chung về hợp tác kinh tế, khoa học, kỹ thuật, và một số lĩnh vực khác với cộng đồng Châu Âu (nay là Liên minh Châu Âu EU), đồng thời bình thường hoá quan hệ với Mỹ.
Tháng 3/1996 Việt Nam tham gia với tư cách thành viên sáng lập diễn đàn hợp tác kinh tế á - Âu (ASEM).
Tháng 11/1998, Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ đã được ký kết và sau bao nhiêu nỗ lực, Hiệp định chính thức có hiệu lực vào ngày 10/12/2001 mà không kèm theo cái gọi là Đạo luật nhân quyền nghị viện và tổng thống Mỹ đưa ra. Đây là bước tiến thuận lợi trong quá trình gia nhập WTO của nước ta. Mà trước đó, cuối năm 1994, Nhà nước ta đã gửi đơn xin gia nhập vào tổ chức này, hiện đang trong quá trình đàm phán để được kết nạp.
Tháng 9 /2001, tại Hà Nội đã diễn ra hội nghị Bộ trưởng kinh tế các nước á - Âu lần thứ 3 (EMM - 3) và Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN lần thứ 33 và điều phối viện Châu á của EMM - 3 và đã hoàn thành một cách tốt đẹp bạn bè đã biết đến một Việt Nam đang cố gắng bứt lên, một Việt Nam có tiềm năng và nội lực dồi dào, đón nhận đầu tư của các nước trong khu vực và quốc tế, một Việt Nam sẵn sàng hội nhập kinh tế quốc tế.
2. Thực trạng hội nhập kinh tế của Việt Nam hiện nay.
Cho đến thời điểm hiện nay thì không thể nói rằng Việt Nam mới bắt đầu hội nhập kinh tế quốc tế. Thực tế Việt Nam đã tham gia vào hầu hết các hình thức hội nhập, đặc biệt là ba hình thức cơ bản đã trình bày ở đây chỉ có thể xem như là một lát cắt ngang thực trạng quan hệ Việt Nam với các tổ chức các nước mà có tác động lớn tới nền kinh tế nước ta.
2.1. Việt Nam trong lộ trình AFTA.
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) được ký hiệp định thành lập năm 1992 giữa các nước ASEAN nhằm tạo ra bước ngoặt phát triển kinh tế của các nước 6 thành viên. Mục tiêu của AFTA là giảm dẫn thuế quan hầu hết các mặt hàng, trước hết là giảm dần hàng công nghiệp chế biến.
Theo sự điều chỉnh được cam kết gần đây nhất, Việt Nam sẽ thực hiện đầy đủ các quy định AFTA vào năm 2006, trong khi đối với các thành viên khác, thời hạn đó là 2003. Ví dụ, đối với danh mục hàng hoá cắt giảm bình thường thì: các loại sản phẩm có thuế suất trên 20% sẽ giảm xuống dưới 20% vào ngày 01/11/.2001 (nước khác là 1998) và sau đó xuống dưới 5% vào ngày 01/01/2006 (với các nước là 2003) còn các loại sản phẩm có thuế suất 20% hoặc dưới mức 20% sẽ được giảm xuống đến 0- 5% vào 1/1/2002 (nước khác là 2000). Quả thực nước ta định hướng vượt ưu đãi khi áp lực về thời gian được nới ra so với các nước khác đầu năm 1998, ta đã công bố lịch trình giảm thuế để thực hiện AFTA vào năm 2006. Tiếp đó, luật thuế xuất nhập khẩu được sửa đổi nhằm tạo điều kiện để xây dựng hệ thống thuế nhập khẩu 3 cột (phổ thông, ưu đãi chung theo Quy chế trí tuệ quốc - MFN và ưu đãi đặc biệt) cũng như các quy định về thuế chống phá giá và thuế đối kháng, Việt Nam cũng đã cam kết tăng số dòng thuế sản phẩm có thuế suất dưới 5% vào năm 2006.
Nhìn chung cho đến nay, Việt Nam đã đáp ứng cơ bản những đòi hỏi về lộ trình của CFPT/AFTA. Hết năm 2001 tiến trình cắt giảm thuế quan CEPT/AFTA được chuẩn bị và bước đầu đạt được những kết quả đáng kích lệ. Tuy nhiên cũng có rất nhiều vấn đề đặt ra cần quan tâm, xử lý đó là: không ít các kết quả đã có chỉ mang tính thủ tục, tiến bộ giảm thuế suất xuống 5% và dưới 5% thực tế vẫn diễn ra chậm. Mặc dù đến 2006 Việt Nam mới thực hiện đầy đủ AFTA, song sự chậm chạp đó có nghĩa là việc cắt giảm thuế sẽ dồn vào những năm sau này. Đó là ngay bây giờ chúng ta phải xét đến tình hình hiện nay. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã có hiệu lực, Trung Quốc đã gia nhập WTO.v.v...
Cũng cần nhìn nhận rằng đối với Việt Nam, trong quan hệ so sánh với các thành viên ASEAN khác thực hiện đầy đủ AFTA chủ yếu có nghĩa là phải chấp nhạan cạnh tranh sòng phẳng với nhiều đặc điểm bất lợi hơn. Việt Nam có khoảng thời gian ưu đãi hơn nhưng nó chỉ có giá trị với điều kiện là có sự nố lực rất lớn trong việc cải thiện sức cạnh tranh. Quãng thời gian 3 năm quả thực là quá ngắn nếu so quãng thời gian mà các nước ASEAN khác đã có để đạt tới sức cạnh tranh hiện tại.
Chính vì vậy, Việt Nam cần phải nỗ lực hơn nữa, năm 2006 đã gần kề tình hình kinh tế trong nước và khu vực luôn biến đổi. Do đó việc học tập rút kinh nghiệm từ các thành viên ASEAN là không thể bỏ qua.
2.2. Hiệp định thương mại Việt - Mỹ.
Quan hệ Việt - Mỹ là một quan hệ đặc biệt so với các quá trình giữa Việt Nam và các nước khác không chỉ bởi vì Mỹ là cường quốc trên thế giới. Trước đây Mỹ là kẻ thù của dân tộc Việt Nam trong chiến tranh. Mỹ cũng đã từng cấm vận Việt Nam gây ra một thời kỳ khó khăn vất vả cho cả nước. Bây giờ Mỹ là một bạn hàng to lớn, một thị trường rộng mở và càng đặc biệt khi Hiệp định - Thương mại Việt - Mỹ chính thức có hiệu lực từ 10/12/2001.
Đây là Hiệp định được đánh giá đồ sộ và có quy mô lớn nhất trong lịch sử đàm phán Việt Nam. Nó bao gồm các thoả thuận bao trùm tất cả lĩnh vực kinh tế - thương mại thế giới WTO. Tính đến ngày được ký kết (13/7/2001) Hiệp định đã trải qua 11 vòng đàm phán (vòng 1 bắt đầu vào 9/1996 tại Hà Nội). Như vậy để thấy rằng Hiệp định thương mại Việt - Mỹ có ý nghĩa to lớn như thế nào đối với nước ta. Đến nay tuy thời gian hiệp định có hiệu lực chưa dài song có người cũng đã nhận thấy sự khác nhau trong quan hệ hai nước so với trước đây. và quan trọng hơn đó là tác động của Hiệp định đối với kinh tế Việt Nam. Những số liệu sau đây có thể xem là những ví dụ cụ thể và những tác động đó là:
Đối với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô, theo các chuyên gia kinh tế Việt Nam, xuất khẩu nước ta có thể tăng ngày 4% - 5% trong năm 2002, chủ yếu tập trung ngành dệt, may mặc, dày dép, gốm sữ, sơn mài, chế biến nông sản thực phẩn. Việc cắt giảm thuế quan song song với việc được hưởng mức thuế suất thương mại bình thường làm GDP tăng lên 0,23% trong ngắn hạn và 0,26% trong dài hạn. có thể thấy là việc mở rộng thị trường xuất khẩu sang Hoa Kỳ làm cho GDP nước ta tăng một cách bền vững trong tương quan dài hạn. tổng tiêu dùng xã hội cùng tăng 0,44% trong khi đó các ngành công nghiệp bị ảnh hưởng lớn, ví dụ, ngành dầu thô giảm 0,34%, ngành thép giảm 0,29%...
Đối với sổ thu ngân sách Nhà nước, qua các chỉ số cụ thể của từng ngành, trong ngắn hạn tăng khoảng 0,05% và 0,11% trong dài hạn. Trong đó chương trình cắt giảm thuế quan mở rộng xuất khẩu, về lâu dài số thu ngân sách tăng 0,1%. Nếu phân tích sâu sắc và rộng rài hơn, có khả năng kinh tế Việt Nam thu được lợi ích cao hơn và số thu ngân sách được đảm bảo ổn định.
Việc ký kết hiệp định thương mại Việt - Mỹ là chủ trương lớn trong đường lối đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Hiệp định không nước đáp ứng được lợi ích của cả hai nước, mà còn có tác động tích cực đến quan hệ đối ngoại khác của Việt Nam và Hoa Kỳ đối với ASEAN, khu vực và thế giới. Chính vì vậy tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng đối với toàn bộ nền kinh tế nước ta của các chương trình điều chỉnh chính sách thương mại trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế cần được ưu tiên và đầu tư thích đáng.
2.3. Quan hệ kinh tế thương mại Việt - Trung.
Trung Quốc là người bạn láng giềng "khổng lồ" của nước ta, không chỉ là một đất nước rộng lớn với 1,3 tỷ dân mà còn là một cường quốc về kinh tế. là hai nước láng giềng quá trình giao lưu buôn bán đã có từ rất lâu và rất sâu sắc.
Thực tệ, người tiêu dùng Việt Nam đã quen thuộc với hàng hoá Trung Quốc với các đặc tính: rẻ, mẫu mã phong phú đa dạng nhưng chất lượng chưa cao lắm (thực ra, đây không phải là do công nghệ kém mà là "chiến thuật" của Trung Quốc). Ngày 10/11/2001, Trung Quốc chính thưc là thành viên của WTO. Sự kiện này càng làm cho nền kinh tế Trung Quốc có cơ hội tăng mạnh tính cạnh tranh đồng thời có tác động mạnh mẽ đến thị trường hàng hoá thế giới, trong đó Việt Nam là một trong những nước chịu ảnh hưởng nhiều nhất, đặc biệt là phải đối mặt với những thách thức về khả năng giảm kim ngạch xuất khẩu và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Thách thức về xuất khẩu đối với Việt Nam xuất phát từ khả năng cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc được tăng cường do được hưởng những điều kiện thương mại bình đẳng và ưu đãi của WTO. Trước hết là cơ cấu hàng xuất khẩu hai nước có tính tương đồng trùng lặp khá cao như: dệt may, giày dép, điện tử, linh kiện máy tính, thủ công mỹ nghệ... mà chi phí lao động và chi phí sản xuất của họ thấp hơn nên sẽ ảnh hưởng đến khả năng tăng xuất khẩu của hàng hoá nước ta. Việt Nam và Trung Quốc lại có chung các đối tác lớn như Nhật, Mỹ, EU, Hàn Quốc, ASEAN... Hơn nữa, gia nhập WTO, khả năng giảm giá của hàng hoá Trung Quốc hoàn toàn có thể xảy ra khi họ từng bước điều chỉnh tỷ giá đồng nhân dân tệ theo hướng giảm giá so với đô la Mỹ. Như vậy, có nghĩa là, trên thị trường thế giới sức cạnh tranh của hàng Trung Quốc sẽ mạnh hơn.
Một thách thức lớn nữa là về thu hút vốn đầu tư nước ngoài (ĐTNN) dù 10 năm qua tỷ lệ thu hút DTNN so với GDP của Việt Nam cao hơn Trung Quốc nhưng theo Ngân hàng Thế giới, thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam còn thiếu yếu tố bền vững, hiệu quả và thực chất mới chỉ thể hiện về số lượng. Ngược lại thu hút đầu tư nước ngoài của Trung Quốc hướng được vào xuất khẩu, tạo nhiều việc làm trực tiếp và gián tiếp. Tuy còn có một số trở ngại: lạm phát cao, nạn quan liêu tham nhũng nhưng Trung Quốc cũng đã tiến hành hàng loạt biện pháp tạo môi trường ổn định, thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài như: thực hiện chính sách miễn thuế nhập khẩu thiết bị, giảm tiền thuê đất, đơn giản hoá thủ tục đầu tư, xúc tiến mạnh mẽ hợp tác song phương và đa phương. Trong khi đó Việt Nam còn có rất nhiều hạn chế, đặc biệt là tình trạng thanh tra, kiểm tra hoạt động doanh nghiệp còn tuỳ tiện, chồng chéo, ít sức thuyết phục...
Như vậy có thể thấy việc Trung Quốc gia nhập WTO đưa đến những nguy cơ và thách thức không nhỏ đối với nền kinh tế Việt Nam. Việc đưa ra các giải pháp tính thuế cũng như lâu dài là hết sức cấp thiết.
2.4. Việt Nam với Liên minh Châu Âu đã có những bước khởi đầu từ năm 1975.
Trải qua sự cố gắng, nố lực từ hai phía, đỉnh cao của sự phát triển quan hệ này được đánh dấu bằng sự kiện trọng đại diễn ra vào ngày 17/7/1995 khi "Hiệp định hợp tác giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và cộng đồng Châu Âu" được ký kết.
ở đây tôi muốn đi sâu vào một số mặt hàng mà Việt Nam hiện đang có lợi thế trên thị trường EU và trong cả những năm tới.
Trước hết là hàng dệt may. Từ 1/1993, hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam là một trong hai mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu cao nhất nước ta. Hiện nay hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu sang hơn 40 nước trong đó xuất khẩu sang các nước EU chiếm từ 34% đến 38% tổng kim ngạch hàng xuất khẩu dệt may cả nước.
Thứ hai là hàng thuỷ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 79327.DOC