Đề tài Tiến trình xây dựng Option cho thị trường chứng khoán Việt Nam từ nay đến năm 2013

MỤC LỤC Trang

Chương I:

NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.1 THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN. . . 2

1.1.1 Khái niệm về thị trường vốn . . .2

1.1.2.Vai trò của thị trường chứng khoán . .4

1.1.2.1 Công cụ thanh khoản cho thị trường. . .4

1.1.2.2 Công cụ đo lường và đánh giá hoạt động của doanh nghiệp. .4

1.1.2.3 Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng. . .4

1.1.2.4 Chống lạm phát. . .5

1.1.2.5 Hỗ trợ và thúc đẩy các công ty cổ phần ra đời và phát triển. .5

1.1.2.6 Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế. . .5

1.1.3 Các loại chứng khoán lưu thông trên thị trường: . .5

1.2.1 Khái niệm về hợp đồng quyền chọn:. .5

1.2 HỢP ĐỒNG QUYỀN CHỌN: . . .7

1.2.1 Khái niệm về hợp đồng quyền chọn:. .7

1.2.2 Vai trò hợp đồng quyền chọn:. . .8

1.2.2.1 Quản lý rủi ro giá cả: . . .8

1.2.2.2 Vai trò định giá quyền chọn . . .9

1.2.2.3 Góp phần thúc đẩy thị trường tài chính phát triển . 9

1.3 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG OPTION. . .9

1.4. OPTION VỀ CHỨNG KHOÁN. . . 10

1.4.1 Khái niệm: . . . 10

1.4.2 Đặc điểm: . . . .10

1.4.2.1Ngày đáo hạn . . . 11

1.4.2.2 Giá thực hiện . . . 11

1.4.2.3 Thuật ngữ . . . 12

1.4.3.Giao dịch option. . .13

1.4.3.1 Những người tạo thị trường . . .13

1.4.3.2 Nhà môi giới trên sàn giao dịch. . . 13

1.4.3.3 Nhân viên lưu trữ lệnh . . .13

1.4.4 Công ty thanh toán hợp đồng Option (OCC): . .14

1.4.5 Thực hiện option . . .15

Chương II

THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

2.1 ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHN VIỆT NAM TỪ KHI ĐI

VÀO HOẠT ĐỘNG ĐẾN NAY. . . .

2.1.1 Từ năm 2003 đến nay. . . .19

2.1.1.1 Về sự quan tâm của nhà nước đối với sự phát triển của TTCK. .20

2.1.1.2 Hoạt động của thị trường diễn ra khá suông sẻ. . .26

2.1.1.3 TTCK thực sự chưa kênh huy động vốn. . .26

2.2 XÂY DỰNG CÁC CÔNG CỤ CHỨNG KHOÁN PHÁT SINH CHO THỊ

TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM LÀ MỘT VIÊC LÀM RẤT CẦN

THIẾT HIỆN NAY . . . 29

2.2.1 Option là một trong những biện pháp giúp tăng khả năng huy động vốn

trong và ngoài nước cho Việt Nam thông qua TTCK: . .30

2.2.2 Option giúp thu hút các nguồn vốn đến từ bên ngoài nước. .32

2.2.3 Các công cụ chứng khoán phái sinh đặc biệt là Option giúp thị trường

chứng khoán Việt Nam hoạt động một cách hiệu quả hơn trong việc cổ phần

hóa các doanh nghiệp nhà nước. . . .33

2.3 KHÓ KHĂN VÀ THÁCH THỨC TRONG VIỆC XÂY DỰNG VÀ PHÁT

TRIỂN OPTION CHO THI TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM. .33

2.3.1 Hạn chế về kinh nghiệm . . .34

2.3.2 Tính chủ động chưa cao: . . .35

2.3.3 Tâm lý thị trường còn e ngại: . . .35

2.3.4 Hạn chế về pháp lý . . .36

Chương III

TIẾN TRÌNH XÂY DỰNG OPTION CHO THỊ

TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TỪ

NAY ĐẾN NĂM 2013 . .

3.1 DỰ KIẾN BƯỚC ĐI HÌNH THÀNH THỊ TRƯỜNG OPTION CHO THỊ

TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM. . .37

3.1.1 Những nguyên tắc, quan điểm trong việ xây dựng Option cho thị trường

chứng khoán Việt Nam. . . .37

3.1.2 Dự kiến các bước đi hình thành thị trường Option từ nay đến năm 2013

3.1.2.1 Giai đọan 1: Chuẩn bị các cơ sở khoa học thực tiễn cần thiết để hình thành

Option , thời gian dự kiến của giai đọan này là 1 năm từ 2008-2009 .39

3.1.2.2 Giai đọan 2: Xây dựng, vận hành thử và hòan thiện thêm các trung tâm

giao dịch. Thời gian dự kiến của giai đọan này là 2009-2011 . 39

3.1.2.3 Giai đọan 3: Tiếp tục nâng cao và hòan thiện thêm kỹ thuật vận hành

cũng như cơ sở pháp lý cho họat động của Option trước khi được đưa ra kinh

doanh trên thị trường từ năm 2011-2013 . . 40

3.2 NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN CHO VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG

OPTION. . . .40

3.3 ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ TRONG VIỆC XÂY DỰNG OPTION CHO

THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHÓAN VIỆT NAM TỪ NAY ĐẾN NĂM 2013. .40

3.3.1 Nâng cao tính cạnh tranh của thị trường chứng khóan Việt Nam. .40

3.3.2 Tạo nhận thức thị trường . . .40

3.3.2.1 Tạo nhận thức về thị trường chứng khóan . .42

3.3.2.2 Tạo nhận thức về sản phẩm, đặc biệt là sản phẩm phái sinh trên thị

trường chứng khoán. . . . 42

3.3.2.3 Đánh thức tâm lý đầu tư của các tầng lớp dân cư . 43

3.3.3 Tăng cung - kích cầu trên thị trường chứng khoán. . 44

3.3.3.1 Tiếp tục đây mạnh quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà

nước. . . . .44

3.3.3.2 Khuyến khích phát triển các công ty cổ phần . . 44

3.3.3.3 Có chính sách khuyến khích, thu hút nhiều loại hình doanh nghiệp,

nhất là tạo điều kiện để các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia niêm yết trên

thị trường chứng khoán . . .44

3.3.3.4 Mở rộng hoạt động của các quỹ đầu tư trên thị trường tài chính, tăng

cường đào tạo nhân lực cho thị trường chứng khoán, thúc đẩy phát triển thị

trường OTC và thị trường Future cho nông sản Việt Nam. . 44

pdf50 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1692 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiến trình xây dựng Option cho thị trường chứng khoán Việt Nam từ nay đến năm 2013, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ả giao dịch option phải được thanh toán thông qua các thành viên. Nếu nhà môi giới không phải là thành viên của OCC thì họ phải dàn xếp để thanh toán với mọi giao dịch với một thành viên. Các thành viên được yêu cầu phải có một số vốn tối thiểu nhất định và đóng góp thành lập một quỹ đặc biệt để 18 có thể sử dụng khi bất cứ thành viên không thể đảm bảo nghĩa vụ thanh toán hợp đồng option do bị mất khả năng chi trả. Khi mua option người mua phải thanh toán đầy đủ vào buổi sáng của ngày làm việc kế tiếp. Quỹ được kí gửi tại OCC. Người phát hành option duy trì tài khoản kí quỹ với nhà môi giới. Nhà môi giới duy trì tài khoản kí quỹ với nhà môi giới. Nhà môi giới duy trì tài khoản kí quỹ với thành viên của OCC để thanh toán các giao dịch của họ. Thành viên của OCC lại duy trì một tài khoản kí quỹ với OCC. Mức kí quỹ yêu cầu là mức bắt buộc của OCC đối với thành viên của nó. Nhà môi giới có thể yêu cầu mức kí quỹ cao hơn đối với khách hàng,nhưng không thể yêu cầu mức thấp hơn. 1.4.5 Thực hiện option: Khi nhà đầu tư thông báo cho người môi giới thực hiện option nhà môi giới sẽ thông báo cho các thành viên của OCC để thanh toán cho giao dịch. Thành viên này đưa ngay lệnh đến cho OCC. OCC chọn ngẫu nhiên một thành viên có vị thế ngắn hạn đang sẵn sàng thực hiện trên cùng option. Thành viên được chọn chọn một nhà đầu tư đặc biệt đã phát hành option. Nếu là call option nhà đầu tư này được yêu cầu bán chứng khoán theo giá thực hiện. Nếu là put option nhà đầu tư này được yêu cầu mua chứng khoán theo giá thực hiện. Như vậy là nhà đầu tư đã chuyển nhượng. Khi option thực hiện lợi ích để ngỏ giảm đi một hợp đồng. Vào ngày đáo hạn của hợp đồng tất cả option ở vùng hái ra tiền sẽ được thực hiện trừ chi phí giao dịch quá cao làm mất đi toàn bộ lợi nhuận từ option. Một số công ty môi giới sẽ tự thực hiện option cho khách hàng của họ vào ngày đáo hạn khi nó phù hợp với lợi ích của khách hàng. Nhiều thị trường cũng có qui tắc thực hiện option ở vùng hái ra tiền lúc đáo hạn. 19 Kết Luận Có thể nói sự phát triển thị trường theo hướng ngày càng mở hơn của nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây đang đặt ra những yêu cầu bức thiết về sự phát triển các công cụ phòng ngừa rủi ro vừa cho cả thị trường hàng hóa lẫn thị trường tài chính, tiền tệ nhằm giúp các nhà sản xuất, đầu tư phòng ngừa rủi ro cũng như kinh doanh kiếm lời từ những biến động giá cả. Hợp đồng quyền chọn Option là một công cụ hứa hện những cơ hội phát triển bền vững, phụ hợp với sự phát triển mang tính quôc tế. Option không những là một công cụ quan trọng đối 20 với các nhà kinh doanh, sản xuất mà còn góp phần làm sôi động thêm sự phát triển của thị trường chứng khoán nước nhà trong những năm tới đây. 21 Chương II: THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 2.1 ĐÁNH GIÁ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHN VIỆT NAM TỪ KHI ĐI VÀO HOẠT ĐỘNG ĐẾN NAY. 2.1.1 Từ năm 2003 đến nay. Trong mỗi chúng ta giờ đây thì ai cũng có thể biết thị trường chứng khoán như thế nào. Và thực tế chúng ta thấy rằng TTCK từ năm 2003 đến giữa năm 2006 thì không tốt và sốt cho mấy. Cho đến từ cuối năm 2006 và đến đầu 2008 thì TTCK quá sốt làm cho các nhà đầu tư ồ ạt đổ xô vào thị trường. Vì là thị trường còn non trẻ nên TTCK Việt Nam như hiện nay được thể hiện như sau: ***Diễn biến thị trường chứng khoán năm 2007 Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2007 đánh dấu sự tăng trưởng mạnh về giá trị giao dịch, số lượng và giá trị các đợt IPOs, số lượng nhà đầu tư và các công ty chứng khoán. Nếu tính đến cuối năm 2006, cả nước có 106.393 tài khoản giao dịch chứng khoán, tăng 191,49% so với năm 2005, thì trong năm 2007 số lượng tài khoản giao dịch là trên 327.000 tài khoản. Bên cạnh đó, thị trường lại chứng kiến sự ra đời và đi vào hoạt động của hàng loạt các công ty chứng khoán, từ chỉ có 22 công ty chính thức đi vào hoạt động vào cuối năm 2006 thì tính đến cuối năm 2007, tổng số công ty chứng khoán đã hoạt động hiện nay lên đến hơn 62 công ty và hàng chục hồ sơ đang chờ cấp phép. ***Số lượng Công ty chứng khoán và Tài khoản giao dich Nguồn: SSC và HBBS Mặc dù số lượng các công ty chứng khoán và tài khoản giao dịch của các nhà đầu tư tăng mạnh thì ngược lại việc cung cấp nguồn hàng vẫn còn nhiều bất ổn. Trong 6 tháng đầu năm 2007 chỉ có duy nhất một cổ phiếu mới niêm yết là cổ phiếu RCL của CTCP Địa ốc Chợ Lớn lên sàn Hà Nội ngày 14/6. Tổng cộng hiện có 677 loại chứng khoán đang giao dịch trên cả 2 sàn giao dịch chứng khoán niêm yết (150 Cổ phiếu trên HOSE và 129 Cổ phiếu trên HaSTC), 03 chứng chỉ quỹ và 22 375 loại trái phiếu. Nếu tính đến cuối năm 2006, tổng giá trị vốn hóa thị trường khoảng 217 nghìn tỷ đồng, bằng 22,7% GDP; thì đến nay, mức tổng vốn hóa này đã đạt 491 nghìn tỷ đồng (tương đương 43% GDP tính theo giá thực tế). Bên cạnh đó, dư nợ thị trường trái phiếu đạt hơn 194 nghìn tỷ đồng (tương đương 17% GDP), vượt dự kiến của UBCKNN là tổng giá trị vốn hóa thị trường đạt 30% GDP đến năm 2010. +HOSE Sở GDCK TP.HCM (HOSE): Năm 2007, Chỉ số Vn – Index bắt đầu ở mức 751,77 điểm và liên tục tăng trong thời gian này, Vn – Index đã vượt mốc 1.000 điểm vào ngày 19/01 với 1.023,05 điểm và đạt mức cao nhất là 1.170,67 điểm vào ngày 12/3. Chỉ riêng trong 3 tháng đầu năm 2007, VN-Index tăng mạnh với tốc độ tăng trưởng bình quân là 16,41%/tháng và giá trị giao dịch bình quân lên đến hơn 1.000 tỷ đồng/phiên. Trong đó, riêng tháng 1/2007 đã đạt tốc độ tăng trưởng 38,25%/tháng. Tuy nhiên, kể từ giữa tháng 3, VN-Index bắt đầu sụt giảm mạnh và thường xuyên tăng, giảm với biên độ lớn. Ngày 24/4/2007, VN - Index chạm đáy ở mức 905,53 điểm, giảm 22,65% so với mức cao nhất. Từ cuối tháng 4 đến nửa đầu tháng 5, chỉ số VN-Index phục hồi mạnh, tuy nhiên vẫn không thoát khỏi chiều hướng đi xuống của thị trường Trong cả quý II về chỉ số cũng như khối lượng và giá trị giao dịch. Vn - Index một lần nữa chạm đáy mới 890,02 điểm vào ngày 20/08. Thị trường bắt đầu phục hồi trong tháng 9, Vn – Index đạt đỉnh 1106,06 điểm vào ngày03/10. Sau thời điểm này, do những đợt IPO dồn dập và sắp đến thời điểm hiệu lực của Chỉ thị 03, thị trường bắt đầu đi xuống với giá trị giao dịch sụt giảm, VN – Index “lao dốc” đến ngày 28/12 chạm mức 927,02 điểm. Khép lại cả năm 2007, với Vn – Index tăng 174,25 điểm, tăng 23%.7 +HaSTC TTGDCK Hà Nội (HaSTC): Hastc - Index luôn biến động song song cùng chiều với sự biến động của Vn - Index, Chỉ số HASTC-Index tăng trưởng liên tục và rất mạnh trong quý I năm 2007. Trong phiên giao dịch ngày 19/03, HASTC- Index đạt kỷ lục cao nhất kể từ khi hoạt động là 459,36 điểm, tăng 216,47 điểm 23 tức tăng 89,12% so với đầu năm. Tuy nhiên, kể từ nửa cuối tháng 3, chỉ số HaSTC-Index bắt đầu giai đoạn điều chỉnh giảm. Hastc – index chạm đáy 246,47 điểm vào ngày 22/08. Qua thời điểm này, cùng với sự phục hồi của Vn -index, Hastc - Index cũng phục hồi mạnh mẽ đạt đỉnh 393,59 điểm vào ngày 01/11. Qua đỉnh này, Hastc - index liên tục điều chỉnh giảm. Ngày 28/12, Hastc – index đạt 325,55 điểm. Như vậy, qua 1 năm hoạt động nhộn nhịp, hastc tăng 81,65 điểm, tương đương 33,75%. +OTC Do ảnh hưởng từ thị trường chính thức, thị trường OTC cũng tăng trưởng mạnh mẽ và sôi động suốt quý I, hầu hết cổ phiếu đều tăng giá. Trong đó , nhóm cổ phiếu của các Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần tiếp tục tăng giá mạnh và được thu mua nhiều nhất, tiếp đó là cổ phiếu dầu khí, điện, vận tải… Tuy nhiên, kể từ đầu tháng 03/2007, cổ phiếu OTC bắt đầu đợt điều chỉnh giảm và kéo dài đến gần cuối tháng 12/2007, có thời điểm nhộn nhịp trở lại vào tháng 10/2007. Tại thời điểm hiện nay, giá cổ phiếu đã giảm khá mạnh, nhưng vẫn còn một số chứng khoán có tính thanh khoản tốt, trong đó có cổ phiếu ngân hàng (mặc nhóm cổ phiếu ngân hàng đã mất giá khoảng 40% - 60% so với cuối tháng 2, đầu tháng 3/2007). Do ảnh hưởng của Chỉ thị 03/2007/CT-NHNN, giá cổ phiếu trên thị trường OTC giảm khá mạnh và giao dịch hết sức trầm lắng. Tính đến thời điểm hiện nay, chỉ thị 03 vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến thị trường OTC khiến cho nhà đầu tư bị sức ép phải bán cổ phiếu để trả nợ ngân hàng. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của các đợt IPO lớn (Đạm phú mỹ, Vietcombank, Sabeco) khiến thị trường không thể tiêu thụ hết dẫn đến tâm lý thận trọng của các nhà đấu tư. Trong 6 tháng đầu năm 2007, các nhà đầu tư đểu mong chờ các đợt IPO nên hạn chế lượng tiền tham gia đầu tư. Trong 6 tháng cuối năm, Do sự sôi động của của thị trường bất động sản và thị trường vàng, nhiều nhà đầu tư đã rút bớt lượng vốn chuyển sang thị trường này, dẫn đến nguồn cung tiền một lượng tiền khá lớn của các nhà đầu tư tổ chức đang chờ đợi giá cổ phiếu sẽ tiếp tục giảm để mua vào cũng như chờ đợi các đợt IPOs lớn. 2.1.1.1 Về sự quan tâm của nhà nước đối với sự phát triển của TTCK. 24 Không ai có thể phủ nhận rằng thị trường chứng khoán có vị trí rất quan trọng đối với nền kinh tế của nước ta hiện nay. Các doanh nghiệp cổ phần đang hình thành, phát triển ngày một nhiều hơn, xu thế của các doanh nghiệp Nhà nước là cổ phần hoá. Công ty cổ phần và cổ phần hoá sẽ giúp cho các doanh nghiệp có khả năng huy động vốn một cách thuận lợi, có động lực tốt hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu thị trường chứng khoán của chúng ta mất đi hoặc không phát huy được chức năng quan trọng của nó đối với nền kinh tế. Gần đây có nhiều ý kiến cho rằng Nhà Nước đang ưu tiên việc chống lạm phát lên hàng đầu còn việc phát triển thị trường chứng khoán đang là thứ yếu. Nhà nước ưu tiên chống lạm phát lên hàng đầu vì lợi ích của hơn 80 triệu dân còn thị trường chứng khoán niêm yết mới chỉ có hơn 300.000 tài khoản giao dịch chưa đáng để Nhà nước coi trọng. Tuy nhiên nghĩ kĩ lại rằng thì suy nghĩ như vậy là còn quá phiên diện, tại sao chúng ta không nghĩ rằng cần phải coi trọng cả 2, tại sao không vừa phải ngăn chặn lạm phát vừa phải giữ gìn, bảo vệ, phát triển thị trường chứng khoán. Một điều có thể thấy là trong thời gian qua Nhà nước đang ưu tiên các biện pháp nhằm ngăn chặn lạm phát hơn là các biện pháp giữ gìn thị trường chứng khoán. Nhà nước đã lựa chọn biện pháp thắt chặt tiền tệ để hạn chế lạm phát tuy nhiên có thể thấy các biện pháp đó chưa mang lại nhiều hiệu quả trong công tác chống lạm phát, tỉ lệ lạm phát vẫn còn cao và chưa có nhiều dấu hiệu được ngăn chặn. Lạm phát chưa được ngăn chặn nhưng tác hại của các biện pháp chống lạm phát thì đang dần biểu hiện. Có thể ví như con bệnh được uống thuốc nhưng chưa mang lại hiệu quả chữa bệnh mà những liều thuốc đó đang làm cho con bệnh thêm mệt mỏi vì những tác dụng phụ của thuốc, giống như việc chúng ta uống quá nhiều thuốc Tây Y trong thời gian dài vậy. Tác hại thứ nhất dễ nhận thấy của các biện pháp chống lạm phát đó là làm cho thị trường chứng khoán thêm lạnh và tác hại dễ 25 thấy thứ 2 đó là việc huy động vốn của các doanh nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn vì thị trường chứng khoán khủng hoảng, tiền tệ bị thắt chặt nhằm chống lạm phát, việc kinh doanh lúc nào cũng cần vốn vậy mà nhiều doanh nghiệp của chúng ta đang trở nên khó xoay sở trong tình trạng hiện nay. Vậy tình trạng khó khăn đó của doanh nghiệp liệu có tốt cho nền kinh tế của chúng ta hay không. Nói về vấn đề 80 triệu dân hay 300.000 tài khoản, điều này lẽ ra không cần phải cân nhắc vì nếu chỉ chú ý tới 80 triệu dân không thôi mà bỏ rơi 300.000 tài khoản có nghĩa chúng ta bỏ rơi thị trường chứng khoán và như vậy có nghĩa là làm cho nền kinh tế đi vào trì trệ vậy thì có đáp ứng được yêu cầu 80 triệu dân. Chúng ta không nên tách biệt các thành phần trong nền kinh tế ra để rồi chọn người này, bỏ rơi người kia hay là thế nào đó. Điều mà Nhà nước và người dân cần chú ý tới là phải làm sao để phát triển nền kinh tế, tạo cuộc sống ấm no cho tất cả mọi người dân. Vì vậy Nhà Nước cần có những chính sách tổng thể và nhìn về lâu dài chứ không nên chỉ đưa ra những chính sách, biện pháp ngắn hạn, chụp giật, thiên lệch.Những chính sách đưa ra phải nhằm tới mục tiêu cao nhất là tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển. Vậy tại sao chúng ta không cố gắng để vừa ngăn chặn lạm phát vừa bảo vệ, phát triển thị trường chứng khoán phát triển ổn định, chính khi thị trường chứng khoán ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh làm tăng nguồn cung hàng hoá và từ đó có thể ngăn chặn lạm phát. Nếu một nền kinh tế mà hoạt động phát triển sản xuất kinh doanh thuận lợi, ổn định thì có phải suy nghĩ quá nhiều về lạm phát nữa không. Thị trường chứng khoán sơ cấp thực hiện việc huy động vốn cho doanh nghiệp còn thị trường chứng khoán thứ cấp là nơi các chứng khoán được giao dịch nhằm tạo điều kiện cho dòng vốn trong nhân dân đưa vào thị trường thuận lợi hơn. Nếu thị trường chứng khoán thứ cấp bị què quặt, ốm yếu thì chức năng huy động vốn cho nền kinh tế của thị trường chứng khoán sẽ khó mà thực hiện được từ đó ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp làm chậm đi 26 sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy để ổn định và phát triển nền kinh tế thì Nhà nước phải hết sức tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển, sự phát triển ở đây không nên hiểu nhầm là nâng chỉ số thị trường tăng cao mà nó bao gồm nhiều yếu tố khác nữa. Sự phát triển của thị trường phải được đánh giá trên nhiều phương diện như: Cơ chế giao dịch thuận lợi, khoa học, tiên tiến, hiện đại không kém tầm quốc tế, thu hút được sự quan tâm đông đảo của quần chúng nhân dân, thu hút được nhiều người dân có vốn tham gia đầu tư vào thị trường, tính thanh khoản của thị trường phải cao, việc mua – bán được tiến hành dễ dàng từ đó thuận lợi cho nhà đầu tư thực hiện các chiến lược đầu tư của mình vào thị trường, cơ chế thông tin thực sự minh bạch, khách quan, chính sách quản lý của Nhà Nước phải thực sự khách quan, công bằng, hoạt động giám sát thị trường phải thực sự có hiệu quả và được đề cao để tạo ra một thị trường lành mạnh, không tiêu cực, thị trường phải có sự phân hoá, chọn lọc giữa những doanh nghiệp kinh doanh tốt và không tốt thể hiện đúng trong giá cổ phiếu chứ không đánh đồng hoặc phản ánh quá sai lệch trong giá cổ phiếu trước tình hình kinh doanh của doanh nghiệp từ đó mới có thể giúp đồng vốn đi vào thị trường biết chọn lọc và phát huy tác dụng đối với những doanh nghiệp kinh doanh tốt, vốn hoá thị trường chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế…và có như vậy thì chỉ số thị trường mới tăng trưởng và phát triển ổn định và thực sự trở thành “Phong vũ biểu” của nền kinh tế. Một điều có thể khẳng định rằng thị trường chứng khoán Việt Nam còn rất kém phát triển. Vốn hoá thị trường chưa cao, điều này do nguyên nhân khách quan là thị trường còn mới hình thành, cùng với thời gian thì vốn hoá thị trường sẽ tăng cao dần vào chiếm tỉ trọng cao trong nền kinh tế. Sự kém phát triển của thị trường còn thể hiện trong sự yếu kém, thiếu kinh nghiệm trong công tác quản lý của các cơ quan Nhà Nước, một phần có thể đổ lỗi cho thị trường còn non trẻ, nhân lực có trình độ còn thiếu…Tuy nhiên cũng cần nhận thấy rằng các cơ quan Nhà Nước còn chưa thực sự nhìn nhận hết tầm quan trọng của thị trường chứng khoán từ đó chưa thực sự đầu tư, nghiên cứu phát triển thị trường. Một sự yếu kém nữa mà có 27 lẽ nhà đầu tư ai cũng nhận thấy đó là các cơ chế hoạt động, cơ chế giao dịch của thị trường. Thị trường chứng khoán là thị trường tài chính cao cấp, nó đã hình thành và phát triển có lịch sử hàng trăm năm. Các nền kinh tế, các chuyên gia tài chính trên thế giới đã có rất nhiều thời gian để nghiên cứu, phát triển nó vì vậy thị trường chứng khoán đã thực sự phát triển thịnh vượng trên hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ở nước ta thị trường hình thành chưa lâu, tuy nhiên không phải vì vậy mà chúng ta cho phép nó yếu kém, lỏng lẻo trong hoạt động, không nên quá đổ lỗi cho những yếu kém hiện nay là do thị trường còn non trẻ. Điều cần phải bàn tới chính là các hoạt động của Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền. Nhà nước đã chưa nắm hết tầm quan trọng của thị trường chứng khoán. Tại sao một thị trường có giá trị đến hàng chục tỉ USD mà Nhà nước lại không thể đầu tư vài trăm triệu USD cho hệ thống giao dịch thật sự hiện đại không kém tầm thế giới để cho đến nay đã hình thành được hơn 7 năm mà tình trạng nhập lệnh vẫn nhập nhằng, thiếu minh bạch, nghẽn lệnh…Một thị trường có tầm quan trọng đối với nền kinh tế như vậy tại sao Nhà Nước không đầu tư vào nhân lực, dành nhiều nhân lực, dành thời gian, kinh phí cho hoạt động nghiên cứu phát triển thị trường. Các chính sách của Nhà Nước đều tính toán rất chậm chạp, khi đưa vào thực thi cũng chậm chạp không kém đến cả Luật chứng khoán, một văn bản pháp lý vô cùng cần thiết cho hoạt động của thị trường mà cũng phải đến năm 2007 mới có hiệu lực. Các công cụ cần thiết trên thị trường giúp thị trường phát triển ổn định lẽ ra phải được tính toán và cố gắng đưa vào càng sớm càng tốt thì lại có lộ trình dài lê thê chẳng hạn như nghiệp vụ bán khống, tại sao các cơ quan chức năng không tính toán để đưa vào thị trường sớm hơn. Trong khi chính sách cần đưa ra muộn hơn để ưu tiên nhà đầu tư, kích thích thị trường phát triển như việc đánh thuế thu nhập từ kinh doanh chứng khoán thì lại bị đưa ra quá sớm, không thích hợp về thời điểm. Thị trường chứng khoán quan trọng như vậy tại sao các quy định xử phạt vi 28 phạm không đủ mạnh chẳng làm ai sợ,công tác kiểm tra giám sát hoạt động của các chủ thể tham gia thị trường cũng quá thiếu và yếu để chính những điều đó làm thị trường phát triển thiếu lành mạnh, vậy Nhà Nước đang ưu tiên điều gì trong công tác của mình mà không thực sự chú tâm tới thị trường chứng khoán. Suốt giai đoạn từ khi hình thành cho đến đầu 2006 khi thị trường còn trầm lắng, có thể thấy sự chậm chạp trong các biện pháp, chính sách xây dựng,phát triển thị trường. Cho đến giai đoạn thị trường tăng trưởng mạnh và đến thời điểm hiện nay thì vẫn chưa thấy các cơ quan Nhà nước có những hoạt động mạnh mẽ, nhanh chóng để xây dựng thị trường. Giai đoạn thị trường tăng trưởng nóng thì các cơ quan chức năng lại quá chú tâm vào việc tăng nguồn cung vào thị trường, đưa ra hàng loạt tiến trình IPO, cổ phần hoá trong khi lại thiếu sự quan tâm đến hoạt động xây dựng cơ sở vật chất hiện đại cho hoạt động giao dịch, thiếu quan tâm xây dựng hệ thống thông tin minh bạch, đầy đủ cho thị trường,cho mở rộng thêm nhiều công ty chứng khoán rồi gần như thả nổi hoạt động của họ trong khi họ là một bộ phận vô cùng quan trọng cho sự phát triển của thị trường. Nhà nước đã quá chú ý đến việc tăng vốn hoá thị trường mà chưa tính đến công tác xây dựng thị trường để đáp ứng điều đó để rồi giờ đây đành phải gác lại nhiều tiến trình IPO. Thiết nghĩ rằng giờ đây thì kiềm chế lạm phát là công việc rất quan trọng vì tác hại của lạm phát đến nền kinh tế là rất lớn, nhưng không phải vì vậy mà bỏ rơi thị trường chứng khoán. Mong rằng Nhà nước cần coi trọng cả 2, vừa phải kiềm chế lạm phát nhưng cũng phải tăng cường mạnh mẽ hơn nữa việc bảo vệ, xây dựng, phát triển thị trường. Thị trường chứng khoán đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế vì thế mong rằng Nhà nước sẽ có chính sách đầu tư thích đáng cho sự phát triển của nó, nếu Nhà nước có thể đầu tư 1 tỷ USD cho dự án nào đó thì thiết nghĩ dự án đó là xây dựng một thị trường chứng khoán tiên tiến, hiện đại không kém thị trường chứng khoán ở nhiều nước trên thế giới. Điều đó sẽ làm 29 thị trường chứng khoán Việt Nam trở thành một kênh huy động vốn ổn định, thuận tiện cho nền kinh tế giúp nền kinh tế tăng trưởng và phát triển tốt. 2.1.1.2 Hoạt động của thị trường diễn ra khá suông sẻ. Đó là một thời đã qua của TTCK diễn ra khá suông sẻ nhưng trong bối cảnh như hiện nay thì đó là một điều hoàn toàn trái ngược. Nhà đầu tư bỏ sàn, thị trường chao đảo với VN-INDEX gần 1200 xuống dưới 400 như hiện nay. 2.1.1.3 TTCK thực sự chưa kênh huy động vốn. TTCK đã mất hai năm để tăng từ 500 điểm lên hơn 1.000 nhưng chỉ mất có một năm để quay về mốc 500 điểm. Sự biến đổi quá nhanh chóng đã khiến cho cả những nhà đầu tư cá nhân, nhà đầu tư chuyên nghiệp lẫn những nhà quản lý trở tay không kịp. +Kết quả huy động èo uột Theo thông tin từ Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN), từ đầu năm đến nay, Ủy ban chỉ cấp phép phát hành thêm cổ phiếu huy động vốn cho 28 công ty và một ngân hàng với giá trị hơn 3.000 tỉ đồng theo mệnh giá. Trong đó, 8 công ty đã xin hoãn phát hành sau khi được cấp phép. Bức tranh vào quí 4-2007 lại hoàn toàn đối lập khi UBCKNN cấp phép cho tổng cộng 73 công ty và ngân hàng phát hành thêm tổng cộng 1,36 tỉ cổ phần với tổng giá trị là 13.600 tỉ đồng theo mệnh giá. Điều đáng nói là trong quí 1 năm nay, các công ty chỉ thu được 73,5 tỉ đồng từ việc phát hành 5,8 triệu cổ phần cho cổ đông hiện hữu, đấu giá được 1,68 triệu cổ phần thu về 79 tỉ đồng, và 2,47 triệu cổ phần được bán trong các đợt IPO thu về 78,5 tỉ đồng. Như vậy, tổng lượng vốn huy động được từ TTCK trong quí 1 chỉ đạt 231 tỉ đồng, bằng khoảng 7,7% so với số lượng đăng ký (tính theo mệnh giá). Sự ảm đạm của TTCK từ đầu năm đến nay đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp muốn huy động vốn qua kênh này. Ngay cả những công ty có tên tuổi cũng không tránh khỏi thất bại khi huy động vốn qua TTCK. Sabeco và Habeco là hai ví dụ rõ ràng nhất. Tổng công ty 30 Bia, Rượu, Nước giải khát Hà Nội (Habeco) chỉ bán được 4,38 trệu cổ phần trong số 34,77 triệu cổ phần đưa ra đấu giá trong đợt bán đấu giá cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO) cuối tháng 3. Trước đó, Tổng công ty Bia, Rượu, Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) cũng thất bại trong đợt IPO khi chỉ bán được 60% lượng cổ phần chào bán. Nhiều chuyên gia trong ngành nói sự thất bại của hai đợt IPO mà trước đó rất được mong đợi là do định giá khởi điểm quá cao, tuy nhiên yếu tố tâm lý thị trường cũng là một nguyên nhân mà ít ai phủ nhận. Không chỉ tránh phát hành thêm cổ phiếu, các doanh nghiệp cũng ngại niêm yết trên sàn. Một cán bộ của Sở giao dịch chứng khoán TPHCM cho biết từ đầu năm đến nay đã cấp phép niêm yết cho khoảng mười công ty nhưng công ty nào cũng chần chừ chưa muốn lên sàn để tránh bị như Tổng công ty cổ phần bảo hiểm Bảo Minh, chưa có phiên nào tăng điểm từ sau khi niêm yết tại sàn TPHCM vào cuối tháng 4. Tuy nhiên, dù không muốn thì ba tháng sau khi được cấp phép, các công ty trên đều buộc phải niêm yết. Không chỉ các doanh nghiệp tránh huy động vốn qua TTCK mà ngay cả những đơn vị có trách nhiệm cũng khuyến khích các doanh nghiệp hạn chế hoạt động này. UBCKNN vào đầu tháng 1 đã ra một văn bản kêu gọi các doanh nghiệp có kế hoạch phát hành thêm cổ phiếu huy động vốn nên cân nhắc lại cho phù hợp với tình hình thị trường và sẽ tạo điều kiện cho những công ty đã được cấp phép hoãn việc phát hành. Và không biết do ủy ban muốn hạn chế tối đa nguồn cung cho thị trường hay các doanh nghiệp thực sự không dám huy động vốn qua TTCK mà trong suốt hai tháng qua, không có một giấy phép phát hành cổ phiếu nào được cấp. +Đòi hỏi phải linh hoạt Công ty cổ phần Pan Pacific vừa tuyên bố hủy bỏ việc phát hành thêm 7,2 triệu cổ phiếu để huy động vốn do giá của công ty rớt quá mạnh. Ông Nguyễn Văn Khải, Tổng giám đốc công ty, cho biết Pan Pacific đang phải cân đối lại nguồn 31 vốn, dừng thực hiện các dự án còn nằm trong kế hoạch cần vốn lớn và chỉ ưu tiên cho những dự án đã triển khai đến giai đoạn cuối. Pan Pacific không phải là trường hợp cá biệt. Hàng loạt các công ty đang bế tắc trong việc tìm nguồn vốn để phát triển các dự án của mình. Công ty Đầu tư và Thương mại thủy sản (Incomfish) trong đại hội cổ đông gần đây đã thông báo dừng đợt phát hành 24 triệu cổ phiếu và sẽ ủy quyền cho hội đồng quản trị lựa chọn các tổ chức tín dụng để tìm nguồn vốn vay cho các dự án của mình. Bên cạnh đó, Incomfish sẽ tạm dừng các dự án đã được thông qua tại đại hội bất thường vào tháng 8-2007 bao gồm hai nhà máy chế biến cá đông lạnh tại TPHCM và tỉnh Phú Yên và các dự án bất động sản tại TPHCM. Tổng giám đốc một công ty chứng khoán tại TPHCM cho biết nhiều công ty đang lâm vào tình trạng vô cùng khó khăn trong giai đoạn hiện nay khi không thể vay vốn của ngân hàng và cũng không thể huy động vốn qua TTCK. Đối với những công ty bất động sản, phương thức đang được áp dụng hiện nay là các công ty trong và ngoài nước liên doanh, liên kết với nhau để góp vốn thực hiện các dự án. Còn đối với các công ty thuộc những ngành chuyên biệt, vị tổng giám đốc này chỉ lắc đầu. Ông cho biết không ủng hộ việc hạn chế nguồn cung cho thị trường hiện nay của UBCKNN bởi vì có nhiều công ty làm ăn thực sự có hiệu quả và đang rất cần vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Công ty ông hiện đang tư vấn cho một công ty phát hành cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu với giá bằng mệnh giá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfỨng dụng Option cho thị trường chứng khoán Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan