Đề tài Tiếp cận tài chính hành vi để giải thích những bất thường trên thị trường chứng khoán Việt Nam

MỤC LỤC

Lời mở đầu . 5

Chương 1: Khảo sát lý thuyết về tài chính hành vi . 6

1. Thị trường hiệu quả. 6

1.1.1 Khái niệm thị trường hiệu quả. 6

1.1.2 Các giả thiết của thị trường hiệu quả . 7

1.1.3 Các đặc điểm của thị trường hiệu quả. 7

1.1.4 Ba hình thức của thị trường hiệu quả. 8

1.1.5 Hạn chế của thị trường hiệu quả . 9

1.2 Tài chính hành vi . 11

1.2.1 Tài chính hành vi là gì. 11

1.2.2 Những nền tảng cơ bản của tài chính hành vi . 12

1.2.2.1Giới hạn của nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch giá

trên thị trường tài chính . 12

1.2.2.2Hành vi không hợp lý của nhà đầu tư . 16

1.2.2.3Lý thuyết triển vọng và sự lựa chọn của nhà đầu tư . 24

1.2.3 Tâm lý bầy đàn. 27

Chương 2: Phân tích thực tiễn thị trường chứng khoán Việt Nam . 30

2.1 Tổng quan thị trường. 30

2.2 Kiểm định thị trường hiệu quả. 31

2.3 Phân tích thị trường Việt Nam từ góc nhìn của tài chính hành vi . 34

2.3.1 Sai lệch về niềm tin của nhà đầu tư . 34

2.3.2 Kiểm định hành vi bầy đàn. 39

2.3.3 Kết quả khảo sát. 43

Chương 3: Giải pháp giúp thị trường định giá hiệu quả. 63

3.1 Khuyến nghị đối với nhà đầu tư các nhân. 63

3.2 Khuyến nghị đối với doanh nghiệp niêm yết . 64

3.3 Khuyến nghị đối với cơ quan quản lý thị trường. 66

Kết luận . 69

Tài liệu tham khảo . 70

pdf91 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2582 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiếp cận tài chính hành vi để giải thích những bất thường trên thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
làm theo ý kiến của nhóm ngay cả khi họ biết rằng điều này sai. Bởi vì họ cảm thấy không thoải mái để trở thành thành phần thiểu số chống lại phần đa số mạnh mẽ. Trong hoạt động của thị trường chứng khoán vấn đề này vẫn được lặp lại. Có thể đối với một cá nhân thì với thế lực yếu ớt của mình không thể chống lại đối với một thị 28 trường mặc dù sai nhưng lớn mạnh, cũng không thể nói được gì vì hành động của họ được trả bằng tiền của chính họ Tâm lý bầy đàn đã được đưa ra vào cuối thập kỷ 90, điển hình là vụ “bong bong” internet ở Mỹ. Từ năm 1996 đến năm 2000, các nhà đầu cơ và nhà đầu tư tư nhân điên cuồng đầu tư số tiền lớn vào các công ty liên quan đến internet làm cho số lượng công ty niêm yết ở thị trường chứng khoán Nasdaq (sàn giao dịch điện tử lớn nhất Hoa Kì hiện nay) tăng từ 600 lên 5000 công ty. Xin nói thêm rằng các công ty Dot-com được điều hành bởi những người chỉ vào khoảng 30 - 40 tuổi, phát hành cổ phần, và tạo ra hàng trăm triệu đôla tiền vốn. Những công ty này cũng chẳng có kế hoạch kinh doanh gì nhiều, và tất nhiên cũng chẳng có những khoản thu nhập gì cả từ kinh doanh. Động lực khiến các nhà đầu tư này bỏ tiền vào dự án làm ăn không chắc chắn như vậy là do họ được trấn an bởi thấy quá nhiều người khác làm y như vậy. Vào đầu những năm 2000, tình hình bắt đầu lắng xuống. Các nhà đầu tư bắt đầu nhận ra thị trường internet thực sự là một quả bong bong và họ cũng rút vốn một cách ồ ạt như lúc họ đầu tư vì vậy năm 2001, nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái. Tâm lý bầy đàn thường không phải là chiến lược đầu tư có ích. Nhà đầu tư mang tâm lý bầy đàn thường xuyên mua và bán tài sản đầu tư của họ theo kiểu theo đuổi theo xu hướng đầu tư nóng và mới nhất. Ví dụ, nếu họ nghe thông tin đầu tư vào các cổ phiếu inernet là sự đầu tư tốt nhất hiện nay, họ sẽ bán các cổ phiếu khác và dùng vốn đó đổ vào cổ phiếu internet. Nếu sáu tháng sau mọi người đổ xô mua các cổ phiếu mà họ đã bán trước đây thì họ lại mua lại những cổ phiếu này. Lưu ý rằng tất cả việc bán mua thường xuyên này gánh chịu lượng đáng kể chi phí giao dịch, có thể làm giảm lợi nhuận hiện tại. Hơn nữa, cực kỳ khó để xác định chính xác thời gian giao dịch hợp lý để bảo đảm rằng bạn đang đi đúng hướng. Vào lúc nhà đầu tư bầy đàn biết về xu hướng mới, hầu hết các nhà đầu tư khác đã thu lợi từ thông tin này và khả năng tối đa hóa giá trị chắc chắn đã đạt mức cao nhất của cải. Điều này có nghĩa các nhà đầu tư bầy đàn đã gia 29 nhập trò chơi quá muộn và có thể mất tiền như khi thực hiện các chiến lược đầu tư khác. Trong khi đi theo xu hướng đầu tư mới, thì nhà đầu tư nên tránh tâm lý bầy đàn, chỉ vì mọi người đang nhảy bổ vào đầu tư theo phong trào chứ những chiến lược này chưa chắc đúng. Đồng thời việc đầu tư theo phong trào như vậy cũng gây ra hiện tượng cổ phiếu được định giá quá cao dựa trên sự lạc quan quá mức của nhà đầu tư. Điều này dễ chứa đựng nguy cơ bong bóng gây thiệt hại lớn khi thị trường đổ vỡ. Tóm lại, để có những quyết định đầu tư hợp lý và đạt được nhiều lợi nhuận, nhà đầu tư nên hạn chế những ảnh hưởng tâm lý trong các lý thuyết nêu trên, thay vào đó là sử dụng tổng hợp các công cụ phân tích tài chính, tạo tiền đề vững chắc cho các quyết định. 30 CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TIỄN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 2.1 Tổng quan thị trường Thị trường chứng khoán Việt Nam là thị trường mới nổi với 2 trung tâm giao dịch là Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM chính thức hoạt động vào 20/7/2000 và Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đi vào hoạt động từ 5/2005. Kể từ đó đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được những thành công đáng kể: quy mô hoạt động của thị trường không ngừng mở rộng; nhiều loại cổ phiếu và trái phiếu mới được niêm yết trên thị trường; trình độ của các chủ thể tham gia vào thị trường không ngừng được nâng cao… Bảng 1: Một số thông tin cơ bản về thị trường (Nguồn: www.tcptkt.ueh.edu.vn; www.fpts.com.vn; www.avsc.com.vn; Hạng mục 2000 2006 2007 2008 2009 5/2010 Số lượng tài khoản 5.000 95.000 330.000 430.000 766.725 879.730 Cá nhân 300.000 763.578 Tổ chức 3.147 Nước ngoài 4.400 7.000 10.000 14.026 Số lượng cổ phiếu niêm yết 2 189 250 338 457 576 Số lượng công ty chứng khoán 3 55 50 68 105 105 Giá trị giao dịch (tỉ VNĐ) 39.389 281.258 181.698 620.823 Mức vốn hoá thị trường (tỉ VNĐ) 2.000 170.511 429.565 225.000 669.000 740.433 31 Có thể nhận thấy từ bảng số liệu ở trên, tuy được thành lập từ năm 2000 nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam chỉ thật sự phát triển kể từ năm 2006 với mức vốn hoá thị trường tăng gấp 84 lần so với năm 2000 và tăng thêm 1,52 lần trong năm 2007 tương ứng giá trị giao dịch 281 ngàn tỉ đồng (tăng 6,14 lần so với năm 2006) đánh dấu sự tăng trưởng nhanh của thị trường. Suy thoái năm 2008 làm cho mức vốn hoá giảm 48% nhưng đã nhanh chóng bật dậy 198% vào năm 2009 và tiếp tục tăng 11% trong 5 tháng đầu năm 2010. Điều này chứng tỏ thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn đang trên đà phát triển lên một tầm cao mới. Số lượng tài khoản được mở cũng tăng với tốc độ chóng mặt: năm 2007 tăng 247% so với năm 2006 và không ngừng tăng lên bất chấp sự sụt giảm của thị trường. Một đặc trưng điển hình của thị trường chứng khoán Việt Nam là hầu hết các tài khoản giao dịch thuộc sở hữu cá nhân (hơn 99% số lượng tài khoản trong năm 2009). Sự thiếu vắng trầm trọng các nhà đầu tư tổ chức trong giai đoạn này dễ dẫn đến những bất ổn của thị trường khi nhà đầu tư tổ chức không thể tác động đến giá hay kinh doanh chênh lệch để đưa giá trở về mức hợp lý. Các đợt tăng trưởng nóng và sụt giảm nhanh vừa qua là bằng chứng không thể phủ nhận. 2.2 Kiểm định thị trường hiệu quả 2.2.1 Lựa chọn biến kiểm định Thu thập số liệu VN-index theo ngày, sau đó xác định tỷ suất sinh lợi giữa hai phiên liền kề bằng cách lấy logarithm tự nhiên để tạo chuỗi tỷ suất sinh lợi theo thời gian với giả định rằng lãi suất được ghép liên tục rt = log(pt) – log(pt-1) = log(pt/pt-1) Trong đó: rt là tỷ suất sinh lợi của VN-index tại thời điểm t pt, pt-1 là VN-index lần lượt ở thời điểm t,(t-1) 2.2.2 Phương pháp kiểm định: kiểm định tương quan Nếu hai sự thay đổi giá cả liên tục trên thị trường của một chứng khoán là độc lập và có cùng quy luật phân phối, tức là giá cả tuân theo bước ngẫu nhiên, các 32 khuynh hướng trong quá khứ của giá cả không thể được dùng để dự báo những biến động trong tương lai. Có nhiều phương pháp để nhận diện liệu có tồn tại tính biến động theo bước ngẫu nhiên của giá cả trên thị trường chứng khoán Việt Nam hay không. Phương pháp được sử dụng trong phần này là phương pháp kiểm định tính tương quan giữa tỷ suất sinh lợi hiện tai với tỷ suất sinh lợi trong quá khứ của cổ phiếu. Tham số tự tương quan (còn được biết được với tên gọi quen thuộc hơn là hệ số tương quan của chuỗi số liệu thời gian) cho biết mối quan hệ giữa tỷ suất sinh lợi của chứng khoán trong giai đoạn hiện hành so với giai đoạn trước. Hệ số này được xác định bởi công thức:          N t t kN t ktt k rr rrrr 1 2 1 )( ))((  Trong đó: k hệ số tương quan của tỷ suất sinh lợi tại thời điểm t và thời điểm (t+k) N là số quan sát rt, rt+k tỷ suất sinh lợi của VN-index tại thời điểm t, (t+k) r tỷ suất sinh lợi trung bình của chuỗi số liệu. Mô hình hồi quy: rt= β0+ βir(t-i)+ εt Trong đó: + β0 : hệ số tự do + βi: hệ số (trong kiểm định này thì i chạy từ 1 đến 3) Chúng ta sẽ kiểm định tính sự tương quan giữa tỷ suất sinh lợi hiện tại của một cổ phiếu và tỷ suất sinh lợi trong quá khứ của cổ phiếu đó với độ tin cậy 95%. Giả thuyết H0 : 1 = 2 = 3 =…= k =0 [mức thu nhập của các chứng khoán qua theo chuỗi thời gian là không tương quan với nhau (tức là chúng biến đổi ngẫu nhiên) thị trường là hiệu quả. Ngược lại nếu kiểm đinh mà thấy với bất kỳ một k nào mà khác 0 (xác suất để giả thuyết này được chấp nhận quá nhỏ) kết luận: bác bỏ giả thuyết đã đưa ra. Nghĩa là giá chứng khoán có tương 33 quan với nhau  thị trường chứng khoán không hiệu quả, giá cả phụ thuộc vào nhau và có thể dự đoán trước được. Sau khi chọn ra 20 chứng khoán và VN-index, tính toán tỷ suất sinh lợi trong giai đoạn từ đầu năm 2006 đến nay và thực hiện kiểm định ta được bảng tổng hợp sau (kết quả kiểm định chi tiết xem phụ lục 2): Bảng 2: Kết quả kiểm định thị trường hiệu quả β0 β1 β2 β3 R 2 F- statistic Prob Kết luận VN-Index 0.000165 0.303000 0.075753 0.009474 0.107693 2.488.639 0.000000 Bác bỏ H0 AGF -6.16E-05 0.270171 0.102133 0.046075 0.070108 1.617.943 0.000000 Bác bỏ H0 BBC 0.000225 0.268631 0.006827 0.038786 0.076929 1.791.811 0.000000 Bác bỏ H0 BT6 0.000582 0.208274 0.017584 0.021665 0.046866 1.055.191 0.000000 Bác bỏ H0 DHA 0.000105 0.181004 0.058394 0.001483 0.039074 8.734.404 0.000000 Bác bỏ H0 GIL 8.70E-05 0.153507 0.037129 0.012386 0.027456 6.069.598 0.000015 Bác bỏ H0 HAP -7.11E-05 0.229930 0.023325 0.052642 0.078693 1.834.707 0.000000 Bác bỏ H0 HAS 0.000416 0.169040 0.002927 0.041859 0.044871 1.009.112 0.000000 Bác bỏ H0 KDC -3.03E-05 0.215212 0.021129 0.022083 0.048752 1.097.789 0.000000 Bác bỏ H0 KHA 0.000138 0.202218 0.019482 0.051906 0.056141 1.272.874 0.000000 Bác bỏ H0 KHP 0.000104 0.265494 0.018038 0.023934 0.072704 1.601.019 0.000000 Bác bỏ H0 LAF 8.43E-05 0.281114 -0.011732 0.039438 0.090293 2.124.049 0.000000 Bác bỏ H0 NKD -9.52E-05 0.255870 0.004465 -0.060538 0.080820 1.881.617 0.000000 Bác bỏ H0 PNC -0.000177 0.199256 0.011994 -0.015590 0.055229 1.251.001 0.000000 Bác bỏ H0 REE 0.000238 0.165895 0.027341 0.022107 0.047004 1.055.508 0.000000 Bác bỏ H0 SAM -0.000248 0.292349 -0.033020 0.032710 0.094171 2.224.779 0.000000 Bác bỏ H0 SAV 3.76E-05 0.167087 -0.033803 -0.024838 0.032299 7.142.667 0.000001 Bác bỏ H0 SSC 7.34E-05 0.173012 -0.050685 0.033505 0.031779 7.024.024 0.000002 Bác bỏ H0 TNA 0.000200 0.194730 0.025778 -0.038995 0.042378 9.470.232 0.000000 Bác bỏ H0 TS4 0.000335 0.322247 -0.000515 0.012231 0.104824 2.505.925 0.000000 Bác bỏ H0 VSH 0.000123 0.235632 -0.004846 -0.048821 0.062465 1.360.513 0.000000 Bác bỏ H0 (Nguồn số liệu giá: www.cophieu68.com) 34 Kết luận: Thị trường chứng khoán Việt Nam không đạt hiệu quả dạng yếu, giá cả các chứng khoán có tương quan với nhau. Điều này hoàn toàn hợp lý vì theo giả định thị trường hiệu quả thì phải có một số lượng lớn các thành viên tham gia biết tối đa hóa lợi nhuận bằng việc phân tích và định giá các chứng khoán, các thành viên này độc lập nhau. Tuy nhiên thị trường chứng khoán Việt Nam số công ty niêm yết còn ít, số lượng các nhà đầu tư tham gia thị trường chủ yếu là các nhà đầu tư cá nhân thiếu kiến thức, trình độ không đồng đều, đa số các nhà đầu tư vẫn đầu tư theo cảm tính hoặc chạy theo đám đông chứ không ra quyết định đầu tư dựa trên những phân tích tình hình công ty. 2.3 Phân tích thị trường Việt Nam từ góc nhìn của tài chính hành vi 2.3.1 Sai lệch về niềm tin của nhà đầu tư Theo như kết quả kiểm định ở phần trên thì thị trường chứng khoán Việt Nam là thị trường không đạt hiệu quả dạng yếu. Do đó để giải thích được những bất thường trong thị trường vừa qua thì chúng ta phải sử dụng lý thuyết tài chính hành vi. Hình 2: Biểu đồ giá chứng khoán (Nguồn: www.cophieu68.com) 35 Diễn biến thị trường từ 2006 đến nay có thể chia thành các giai đoạn sau: Giai đoạn 1: thị trường tăng trưởng nóng trong giai đoạn 2006 - đầu 2007 Năm 2006 đã chứng kiến sự phát triển đầy sôi động của thị trường chứng khoán Việt Nam với nhiều sự kiện đáng chú ý. Trong đó, ấn tượng nhất là sự mở rộng về quy mô thị trường với tổng mức vốn hóa của toàn thị trường chứng khoán Việt Nam đạt 220.000 tỷ đồng, tương đương 13,8 tỷ USD, tăng gấp hơn 20 lần so với cuối năm 2005 và bằng khoảng 17% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2006, vượt xa so với mục tiêu đạt 5% GDP mà các nhà quản lý đặt ra hồi đầu năm đạt mức tăng trưởng cao nhất khu vực Châu Á- Thái Bình Dương với 145% , thậm chí đứng trên TTCK Thượng Hải với mức tăng 130%. Và đầu năm 2007 vẫn đang tăng 46% - cao nhất trên thế giới. Thị trường tăng mãnh liệt đã gây sốc cho không ít nhà đầu tư trong nước và các chuyên gia chứng khoán kể cả những nhà quản lý thị trường Có thể giải thích hiện tượng này bằng các yếu tố trong tài chính hành vi: phản ứng thái quá, tâm lý bầy đàn và quá tự tin. Quá trình phản ứng thái quá những thông tin tốt như: gia nhập WTO, Tổng thống Mỹ George W. Bush đã đến thăm trung tâm giao dịch chứng khoán TP. HCM và gặp gỡ với lãnh đạo nhiều Doanh nghiệp lớn của Việt Nam, luồng vốn đầu tư nước ngoài ồ ạt… đã làm dấy lên sự hưng phấn của giới đầu tư trong và ngoài nước Bản thân doanh nghiệp cũng tranh thủ có một lượng huy động cao, bằng mọi cách để đưa giá lên mà chưa đề cao sự xứng đáng hay không với giá trị thực sự của nó. Thậm chí, có những hành vi phản ứng thái quá tiêu cực là lợi dụng thời cơ này để kiếm tiền “nóng”, bằng việc dành rất nhiều thời gian để “thổi giá” cổ phiếu, thay vì tập trung vào những tính toán mang tính chiến lược. Về phía các nhà đầu tư thì cứ thấy doanh nghiệp huy động vốn bằng phát hành cổ phiếu mới, chia cổ tức bằng cổ phiếu, có nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phiếu thì tham gia đẩy giá cổ phiếu lên nữa. Điều này dễ tạo thành giai đoạn đầu tiên trong quá trình “phản ứng thái quá” trên thị trường chứng khoán 36 Tâm lý bầy đàn Vì trình độ phân tích và dự đoán còn yếu kém, thông tin được cung cấp không đầy đủ nên một bộ phận không nhỏ các nhà đầu tư hoàn toàn đầu tư theo số đông (thị trường chứng khoán Việt Nam, đám đông thường có khuynh hướng hành động theo nhà đầu tư nước ngoài) xem chứng khoán là khoản đầu tư chỉ có lời chứ không lỗ bất chấp giá trị tính toán thực tế, triển vọng phát triển, tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khiến cho thị trường đã nóng nay lại càng nóng hơn.Chính vì vậy mà việc nhà đầu tư nước ngoài tăng tốc mua bán chứng khoán còn làm cho cầu trên thị trường, kể cả thị trường OTC “nóng” gấp nhiều lần. Tại phiên giao dịch 1.423 ngày 22/11, chỉ số VN - Index đạt 598,22 điểm, tăng 13,96 điểm (+2,39%) so với phiên giao dịch hôm trước. Đặc biệt là hiện tượng trạng những cổ phiếu của các công ty có quy mô nhỏ, vốn thấp nhưng giá vẫn tăng vùn vụt. Thậm chí trong khi thị trường hoặc lình xình, hoặc mất điểm, các CP này vẫn tiến lên theo phương thẳng đứng. Dẫn đầu là cổ phiếu BMC với giá chào sàn khá khiêm tốn, chỉ 50.000 đồng/ cổ phiếu nhưng BMC đã lập một kỷ lục "vô tiền khoáng hậu" khi tăng trần liên tiếp 27 phiên, đạt một mức giá kinh hoàng là 769.000 đồng/ cổ phiếu. Nối gót đàn anh BMC, hàng loạt các cổ phiếu LBM, TCT... cũng liên tục tăng nóng đến mức độ được gọi là cổ phiếu hàng hiếm. Quá tự tin Trong khoảng thời gian từ đầu năm 2007 đã thấy xuất hiện những bài báo có uy tín cảnh báo về khả năng sụp đổ của bong bóng thị trường như: phòng thương mại Mỹ tại Việt Nam (AMCHAM) đăng tải trên website của họ bài viết “thị trường chứng khoán Việt Nam thăng hoa thiếu cơ sở”;Thời báo Tài Chính Anh (Financial Times) dẫn lời các nhà quản lý tài chính nước ngoài cảnh báo thị trường chứng khoán TP.HCM đang rơi vào tình trạng quá nóng và vượt quá giá trị thật. Thậm chí tuần báo Wall Street Joural – tuần báo có uy tín vào hạng bậc nhất trên thế giới cũng có bài bình luận về Thị trường chứng khoán Việt Nam với tựa "Saigon’Miss”. Đáng chú ý là IMF cũng đã gửi bản khuyến cáo đến chính phủ VN về sự bùng nổ của TTCK. Đặc biệt chính phủ đã có những động 37 thái nhằm ngăn chặn sự phát triển quá nóng của thị trường. Tuy nhiên nhà đầu tư nhỏ lẻ trong giai đoạn này vẫn còn “cả tin” vào khả năng phán đoán của mình về sự tăng trưởng của nền kinh tế và sức mạnh của thị trường bất chấp những rủi ro tiềm ẩn. Giai đoạn 2: 11/2007 đến tháng 3/2009: thị trường suy giảm Cuối 2007 diễn biến thị trường chứng khoán (TTCK) VN xấu nhất trong suốt hơn 8 năm hoạt động. Chỉ số giá chứng khoán của cả hai sàn giảm mạnh: HaSTC-Index ở dưới mức 100 điểm vào ngày 27/11. So với thời điểm đầu năm 2008, HaSTC-Index và VN-Index giảm tương ứng 67,2% và 66,9%. Việc huy động vốn qua TTCK giảm tới 75 - 80% và cả 3 kênh: Phát hành tăng vốn của doanh nghiệp, cổ phần hóa, phát hành trái phiếu đều sụt giảm mạnh so với năm trước; Tính thanh khoản - khối lượng giao dịch giảm khoảng 70% so với năm trước… Ðể phục hồi thị trường, ngay từ đầu năm, cơ quan quản lý đã đưa ra nhiều giải pháp, trong đó, có những giải pháp khiến dư luận kỳ vọng nhiều rồi lại thất vọng không ít như: cho phép Tổng Cty Ðầu tư và kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) mua vào cổ phiếu, thu hẹp biên độ rồi lại nới rộng biên độ... Thị trường chứng khoán sụt giảm trong những tháng qua chủ yếu xuất phát từ chính nội tại của nền kinh tế, bên cạnh đó là yếu tố bày đàn của các nhà đầu tư trong nước. Tâm lý bầy đàn Quý II năm 2008, tình hình kinh tế thế giới và Việt Nam xấu đi nhanh chóng. Lác đác đã có những định chế tài chính hùng mạnh tại Phố Wall đổ vỡ như Lehman Brothers (ngân hàng lớn thứ 4 của Hoa Kỳ), công ty bảo hiểm AIG … VN-dex trượt dài về đáy 366 điểm vào ngày 20/6/2008. Tâm lý nhà đầu tư nội vốn quan sát động thái mua bán của khối ngoại để ra quyết định cũng hoảng sợ và lo ngại về khả năng chứng khoán tiếp tục giảm sâu, nhiều nhà đầu tư đổ hàng ra bán nhằm cắt lỗ khiến chứng khoán càng giảm mạnh hơn dẫn đến giá nhiều cổ phiếu đã xuống tới mức thấp hơn giá trị sổ sách mặc dù hầu hết các công ty niêm yết tại thị trường chứng khoán Việt Nam vẫn đang làm ăn khá tốt, đạt hoặc vượt kế hoạch. 38 Hiệu ứng phân bổ tài khoản Đây là dạng xu hướng hành vi mà các nhà đầu tư có khuynh hướng luôn ở trong vị thế lỗ rất lâu và thanh lý vị thế thắng rất sớm Nhìn vào khối lượng giao dịch của cả thời kỳ quan sát, ta sẽ nhận thấy hiệu ứng phân bổ tài khoản của nhà đầu tư: tại thời điểm cuối năm 2008 khối lượng giao dịch cao hơn nhiều so với giai đoạn đỉnh điểm của thị trường vào đầu và cuối năm 2007. Đây là tâm lý chung thường thấy của nhà đầu tư khi trì hoãn việc thanh lý tài sản của mình khi thị trường lao dốc và mang tâm lý chờ đợi thị trường tiếp tục tăng điểm thay vì cắt lỗ và đầu tư vào các tài sản khác mang lại lợi nhuận cao hơn. Thành kiến vốn có là việc các nhà đầu tư không tìm hiểu về công ty định đầu tư để có cái nhìn toàn diện thấu đáo mà chỉ dựa trên những thông tin gần nhất được đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng.Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2008 tràn ngập các tin đồn vô căn cứ như: Chủ tịch HĐQT Công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI) “bị bắt, các tin đồn rầm rộ về “mở room” ngân hàng, về “tạm ngừng giao dịch” v.v... Cuối năm, khi thị trường tưởng như đã “ngủ yên”, lại rộ lên tin đồn về việc ông Đoàn Nguyên Đức, Chủ tịch HĐQT Hoàng Anh - Gia Lai, bị “quản thúc và cấm xuất ngoại”, rồi tin Công ty chứng khoán VnDirect nộp đơn “xin phá sản”. Dù biết là vô căn cứ nhưng những “tin vịt” kiểu này vẫn có tác động nhất định đến tâm lý của một số nhà đầu tư “yếu bóng vía”.Trên các sàn giao dịch, nhiều nhà đầu tư không còn giữ được bình tĩnh và quyết định bán tháo cổ phiếu để cắt lỗ mặc dù những doanh nghiệp có kết quả kinh doanh rất tốt. Giai đoạn 4: Quý 2/2009 đến nay thị trường bắt đầu sự phục hồi tương đối ấn tượng Thị trường chứng khoán bắt đầu đi lên sau khi thiết lập mức đáy 235 điểm vào cuối tháng 2/2009. Tính đến ngày 8-6, chỉ số VN-Index đã tăng 113% so với mức đáy trên, trong khi giá nhiều cổ phiếu đã tăng gấp hai, gấp ba lần tốc độ tăng trung bình của thị trường. Dòng tiền lại ồ ạt chảy vào thị trường chứng khoán. Nếu trong năm 2008 giá trị giao dịch bình quân một phiên của cả hai thị 39 trường chỉ khoảng 500 tỉ đồng, thì hiện nay con số đó khoảng 1.500 tỉ đồng. TTCK tăng trưởng mạnh mẽ, nằm ngoài dự đoán của giới chuyên gia và trở thành điểm sáng ấn tượng khi có tốc độ phục hồi nhanh nhất châu Á. Các nhà đầu tư trong nước lại chính là những người dẫn dắt thị trường, ngay cả trong những phiên nhà đầu tư nước ngoài bán ra mạnh thì khối lượng mua vẫn ở mức cao và giá chứng khoán vẫn tăng. Hầu hết các chuyên gia đều lắc đầu khi nhắc đến lý do vì sao thị trường chứng khoán lại tăng mạnh mẽ trong vài tháng gần đây. Lý do chung nhất được đưa ra là nhà đầu tư đang trong trạng thái hưng phấn sau khi thị trường đã điều chỉnh quá sâu trong suốt năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, đồng thời nền kinh tế trong nước đã có những dấu hiệu hồi phục sau khủng hoảng năm 2008. Nguyên nhân từ sự hồi phục của nền kinh tế thế giới cũng được nhắc đến nhiều như một yếu tố củng cố tâm lý của nhà đầu tư Việt Nam. Ngoài ra việc chia cổ tức đến sớm tạo hứng khởi cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên từ tháng 11 cho tới cuối năm các chỉ số bắt đầu rơi vào chu kỳ giảm điểm do nửa cuối tháng 10-2009, Ngân hàng Nhà nước đã yêu cầu các ngân hàng phải chấm dứt cho vay chứng khoán và yếu tố tâm lý xu hướng điển hình - nhà đầu tư lao vào xả hàng vì lo sợ “lịch sử lặp lại” (chứng khoán có thể sẽ lập đáy như thời điểm đầu năm) 2.3.2 Kiểm định hành vi bầy đàn Có một vài phương pháp thống kê để tính mức độ bầy đàn như của Lakonishok,Shleifer, and Vishny hay bản sửa đổi port-folio-change measure (PCM) của Wermers. Hai phương pháp này sẽ quan sát mỗi liên hệ giữa những nhóm nhỏ khi mua bán một loại chứng khoán. Ngoài ra, còn những phương pháp khác như của Christie and Huang, tính toán độ lệch khỏi giá trị trung bình, hay một phương pháp phức tạp của Nofsinger and Sias... Ở đây chúng ta dùng phương pháp tính độ phân tán của tỷ suất sinh lợi so với giá trị trung bình để kiểm tra xem liệu hành vi bầy đàn có tồn tại trong việc ra quyết định của nhà đầu tư không. Khi tâm lý bầy đàn tồn tại nhất quán trong 40 toàn thị trường thì mức độ biến động được dự đoán tương đối thấp. Ngược lại, theo các mô hình định giá hợp lý thì độ phân tán được dự đoán sẽ tăng lên bởi vì lợi nhuận của các cổ phiếu riêng rẽ bị đẩy xa khỏi tỷ suất sinh lợi thị trường do độ nhạy cảm của chúng sẽ biến động không cùng chiều với sự biến động của thị trường. Ví dụ như trong giai đoạn thị trường giá giảm, tâm lý bầy đàn phổ biến nhất, mức độ tăng của độ phân tán trong tỷ suất sinh lợi thực tế được phản ánh bởi sự gia tăng trong độ phân tán của tỷ suất sinh lợi được dự đoán bởi những mô hình định giá tài sản hợp lý Giải thích phổ biến nhất cho sự biến đổi của tỷ suất sinh lợi chứng khoán được cho là do những thay đổi giá cả ảnh hưởng đến tâm lý bầy đàn của nhà đầu tư. Bài làm này tập trung vào việc tâm lý bầy đàn tác động tới giá cả bằng việc điều tra xem tỷ suất sinh lợi của chứng khoán thể hiện hành vi bầy đàn như thế nào. Để đo ảnh hưởng tiềm năng của hành vi bầy đàn đến giá cả, đầu tiên chúng ta sẽ xem xét hành vi bầy đàn có thể biểu hiện như thế nào trong dữ liệu tỷ suất sinh lợi. Theo định nghĩa truyền thống của hành vi bầy đàn, một biện pháp đo lường trực quan tác động của nó tới thị trường là độ phân tán, định nghĩa như là độ lệch chuẩn cắt ngang của lợi nhuận.Độ phân tán của tỷ suất sinh lợi của các chứng khoán đơn lẻ gần với giá trị trung bình. Khi tỷ suất sinh lợi của các chứng khoán riêng lẻ bắt đầu thay đổi so với tỷ suất sinh lợi thị trường , mức độ phân tán tăng lên. Mục tiêu của chúng tôi là để kiểm tra xem có sự xuất hiện của hành vi đàn không khi hành vi bầy đàn có nhiều khả năng hình thành. Bởi vì các cá nhân có thể đàn áp niềm tin của riêng mình do sự nhất quán của thị trường trong giai đoạn thị trường chuyển động thị trường bất thường, hành vi đàn rất có thể sẽ xuất hiện trong giai đoạn căng thẳng của thị trường. Chúng tôi khai thác ý nghĩa của hành vi này bằng cách kiểm tra xem độ phân tán đáng kể thấp hơn tỷ lệ trung bình trong thời kỳ thị trường có những bất thường. Dự đoán liên quan đến hành vi của sự phân tán trong thời kỳ căng thẳng của thị 41 trường cũng xuất hiện từ mô hình định giá tài sản hợp lý. Trong số những yếu tố liên quan đến tỷ suất sinh lợi của các chứng khoán riêng lẻ thì tỷ suất sinh lợi thị trường là yếu tố quan sát nổi bật nhất.Trong thời gian căng thẳng trên thị trường, mô hình định giá tài sản hợp lý dự đoán rằng thay đổi lớn trong tỷ suất sinh lợi thị trường sẽ chuyển thành một gia tăng mức độ phân tán, bởi vì các tài sản riêng lẻ khác nhau về độ nhạy cảm đối với tỷ suất sinh lợi thị trường. Như vậy, hành vi bầy đàn và các mô hình định giá tài sản hợp lý cung cấp các dự báo trái ngược nhau cho hành vi của sự phân tán trong thời kỳ thị trường căng thẳng. Độ phân tán của tỷ suất sinh lợi chứng khoán Độ phân tán của tỷ suất sinh lợi chứng khoán (S) được xác định bởi công thức: Trong đó: ri : tỷ suất sinh lợi trong kỳ quan sát i r : tỷ suất sinh lợi trung bình n: Số lượng tỷ suất sinh lợi trong danh mục Tâm lý bầy đàn Trong giai đoạn biến động giá bất thường lớn trung b

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfDe tai Tai chinh hanh vi.pdf
Tài liệu liên quan