Đề tài Tiết kiệm là quốc sách - Lý luận và thực tiễn

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 1

CHƯƠNG I- TIẾT KIỆM LÀ QUỐC SÁCH 2

I- Khái niệm tiết kiệm và nguyên nhân phải tiết kiệm 2

1. Khái niệm 2

2. Nguyên nhân phải tiết kiệm 2

II- Mối quan hệ đầu tư - tiết kiệm 3

1. Các quyết định kinh tế của hộ gia đình 4

2. Các quyết định vay mượn và đầu tư của các hãng 5

3. Tiết kiệm của Chính phủ 5

4. Sự cân bằng giữa cho vay (Tiết kiệm) và vay (Đầu tư ) 6

III- Mối quan hệ giữa tích luỹ và tiết kiệm 8

1. Vấn đề chung về tích luỹ 8

2. Mối quan hệ giữa tích luỹ và tiết kiệm 10

IV- Tiết kiệm là quốc sách 11

 

CHƯƠNG II- NGUYÊN NHÂN VÀ THỰC TRẠNG CỦA VIỆC THỰC HÀNH TIẾT KIỆM CHỐNG LÃNG PHÍ 14

I- Trong lĩnh vực chi tiêu hành chính 14

II- Thực trạng của việc tiết kiệm trong xây dựng cơ bản 16

III- Thực trạng tình hình sử dụng tài sản công, tài nguyên thiên nhiên 19

IV- Trong lĩnh vực sử dụng vốn và tài sản của doanh nghiệp Nhà nước 22

V- Trong lĩnh vực chi tiêu của dân cư 25

 

CHƯƠNG III- NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ THỰC HÀNH TIẾT KIỆM, CHỐNG LÃNG PHÍ 27

I- Trong lĩnh vực chi tiêu hành chính sự nghiệp và kinh phí dự án 27

II- Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản 29

III- Trong mua sắm sử dụng tài sản công và sử dụng ngân sách Nhà nước tài nguyên thiên nhiên 31

IV- Trong lĩnh vực sử dụng vốn và tài sản tại doanh nghiệp Nhà nước 34

V- Tiết kiệm chống lãng phí trong sản xuất - tiêu dùng của nhân dân 36

Kết luận 38

 

doc39 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1681 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiết kiệm là quốc sách - Lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cơ quan chức năng của Nhà nước đã nhiều lần sửa đổi và ban hành các chế đọ về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản. Vì vậy việc quản lý đầu tư xây dựng cơ bản từng bước đi vào hoạt động có nền nếp, nhiều công trình đã được hoàn tất và đưa vào thực hiện suôn sẻ đạt hiệu quả cao như: một số công trình về điện(2 tổ máy thuỷ điện sông Hinh, 2 tổ máy thuỷ điện Yaly, 3 tổ máy Tuốc bin, tổ máy số 1 thuỷ điện Hàm Thuận- Đa My), 2 nhà máy xi măng( Nghi xuân, Hoàng mai), Quốc lộ 1 đoạn Hà nội- Vinh, cầu Mỹ Thuận, các sân bay Cần Thơ, Đà Nẵng, các cảng Hải Phòng, Sài Gòn( giai đoạn 1), một số công trình thuỷ lợi( Đồng bằng sông Hồng, đê Hà nội), trường ĐHQGHN tất cả đều hình thành vào năm 2000 hiện nay đang đi vào hoạt động với chất lượng công trình cao. Tuy nhiên hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản của toàn xã hội nói chung vẫn chưa cao, tình trạng thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản còn lớn. Qua điều tra cho thấy rằng hiện nay mức thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản chiếm từ 10-20% tổng giá trị công trình , cà biệt có công trình lên đến 30% tổng giá trị. Thực trạng trên làm cho chất lượng hầu hết các công trình căn bản chưa được đảm bảo bởi do sự cắt xén vào giá trị của công trình của những người có liên quan. Do đó mà nhiều công trình sau khi đã hoàn thành nhưng khi đi vào hoạt động thì sự cố xảy ra như nhà bị sập, đường xá bị lụt, đê bị vỡ... Ta có thể kể ra một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản : Sai sót trong khâu lập, thẩm định, phê duyệt khảo sát thiết kế Khảo sát thiết kế là nhân tố đầu tiên quyết định đến chất lượng, kỹ mỹ thuật công trình . Trên thực tế qua kiểm toán tại các địa phương( tỉnh, thành phố nhất là huyện xã) công tác này bị xem nhẹ, tình trạng chủ đầu tư, ban quản lý dự án hợp đồng với các tổ chức cá nhân không có tư cách pháp nhân, không có giấy phép hành nghề khảo sát thiết kế là phổ biến. Khảo sát thiết kế vẫn được thẩm định phê duyệt, chi phí cho công tác này vẫn ngân sách Nhà nước thanh toán. Do đó tất xảy ra những sự cố khó lường trong khi thi công gây lãng phí tốn kém cho ngân sách Nhà nước . Như tại thành phố Hà nội có công trình trên 5 tỷ đồng thi công được nửa móng thì phát hiện ra một túi bùn lớn, việc khắc phục hậu quả rất khó khăn, tốn kém chi phí này nằm trong khối lượng bổ sung được ngân sách Nhà nước chi trả. Sự cố này làm ảnh hưởng đến thời gian thi công công trình do việc dừng thi công để khảo sát thiết kế lại một lần nữa, gián tiếp làm giảm hiệu quả vốn đầu tư xây dựng cơ bản , ngân sách Nhà nước lại phải thanh toán phần chênh lệch do thời gian dừng thi công quá dài. Sai sót trong khâu lập, thẩm định, phê duyệt dự toán Dự toán thường do các đơn vị thi công lập không loại trừ phần giá trị trùng giữa các công việc, giữa hạng mục, áp giá cao hơn đơn giá qui định. Cơ quan thẩm định, phê duyệt dự toán ở các địa phương do trình độ chuyên môn trách nhiệm, biên chế... hạn chế nên dự toán được thẩm định, phê duyệt chưa chính xác Khi quyết toán, thẩm định quyết toán cơ quan chức năng thường chấp nhận thanh toán nếu quyết toán bằng dự toán Ngân sách Nhà nước đã phải trả hết cả chiphí lập thẩm định phê duyệt dự toán , quyết toán thêm cả phần dự toán , quyết toán chưa chính xác Sai sót trong khâu đấu thầu thi công Đối với các chương trình phải đấu thầu, các đơn vị thi công thường cố tình bóc tiền lương dự toán thấp hơn so với thiết kế( cố tình bỏ sót một số công việc vật tư, thiết bị...) để thắng thầu. Khi thi công theo thiết kế tất nhiên phát sinh thtêm khối lượng lại duyệt bổ sung, có trường hợp giá thắng thầu cộng giá bổ sung lớn hơn giá trần vẫn được thanh toán trong khi đó nhiều trường hợp lại không trừ tỉ lệ phần trăm giảm giá do đấu thầu cho phần giá trị bổ sung ngân sách Nhà nước phải gánh chịu. Rõ ràng việc tính thiếu dự toán là do đơn vị thi công phải chịu trách nhiệm, vì trước khi dự thầu và đưa ra giá đấu thầu họ đã được nghiên cứu thiết kế và tự tính tiêu lượng dự toán Mặt khác, khi tổ chức đấu thầu và xét trúng thầu, bên mời thầu có tình trạng cố tình không đảm bảo qui tắclà khách quan, công khaikhi mở thầu tức là mở thầu chỉ làhình thức mà thức tế đã có những thoả thuậnngầm nào đó để dành cho một đơn vị công ty thân quen. Điều này chắc chắn sẽ khôngcó một công trình chất lượng với giá hợp lý, gây lãng phí lớn cho ngân sách Nhà nước Sai sót trong khâu thi công Tình trạng sử sụng vật tư, vật liệu không có chứng chỉ xác nhận qui cách chất lượng không đầy đủ chứng từ hoá đơn do bộ tài chính phát hành là phổ biến ở các địa phương. Nhất là đối với đơn vị thi công là công ty tư nhân, công ty TNHH thậm chí không có sổ sách kế toán, không tập hợp chứng từ gốc hoặc có chứng từ thì hầu hết đều không hợp pháp, hợp lý, hợp lệ. Tình trạng khoán trắng cho các đội trực tiếp sản xuất ở các đơn vị thi công( kể cảđơn vị Nhà nước ) rất phổ biến. Chất lượng, khối lượng giá trị vật tư, nhân công, máy, công cụ ... xuất dùng cho công trình không thể quản lý, kiểm soát được. Do đó nhiều đơn vị thi công lập quyết toán bằng cách phô tô lại dự toán Sai sót trong khâu thẩm định, phê duyệt quyết toán Thẩm định không kỹ nên quyết toán không chính xác, ngân sách Nhà nước phải chi trả, rõ ràng sai sót này do cơ quan thẩm định quyết toán gây nên và chi phí cho công tác này ngân sách Nhà nước phải thanh toán cho họ. Tình trạng thẩm định phê duyệt quyết toán quá chậm xảy ra ở hầu hết các tỉnh thành phố, địa phương được kiểm toán ảnh hưởng đến việc quay vòng vốn đầu tư xây dựng cơ bản , giảm hiệu quả đầu tư , gián tiếp gây thất thoát vốn đầu tư xây dựng cơ bản Đó là một số nguyên nhân chính mà chúng ta cần khắc phục III. Thực trạng tình hình sử dụng tài sản công, tài nguyên thiên nhiên. Khi chuyển sang cơ chế mới, chúng ta đã công nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế khác nhau, nền kinh tế điều chỉnh theo cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì TSNN có khi không phải chỉ có cơ quan Nhà nước mới sử dụng mà còn có các thành phần kinh tế khác. Tài sản công là nguồn tài nguyên chính tiềm năng nó tạo ra nguồn tài chính để đầu tư vào phát triển kinh tế, do vậy tài sản công cần phải được quản lý một cách có hiệu quả. thế nhưng hiện nay tài sản Nhà nước không phải đã được quản lý tốt ở nhiều nơi. Trong các doanh nghiệp Nhà nước tình trạng lãng phí sử dụng kém hiệu quả diễn ra ở nhiều khâu : từ vốn liếng, tài sản, chi phí gián tiếp làm cho hiệu quả, sức cạnh tranh thấp. Hiện nay một số cơ quan Nhà nước hoạt động một cách không có hiệu quả. họ sử dụng nguồn lực của mình với hiệu suất thấp, nguyên nhân là do thiếu rõ ràng trong việc phân cấp thực hiện quyền sở hữu. Một điều để thể hiện rõ là các quyết định về nhân sự thường phụ thuộc vào Bộ quản lý chuyên ngành, trong khi quản lý tài chính, thể hiện nỗ lực và kết quả hiệu lực của doanh nghiệp lại do Bộ tài chính quyết định là chủ yếu. Bên cạnh đó, có sự phân cấp quyền sở hữu không rõ ràng giữa quy hoạch đầu tư (cấp quản lý ngành ) và cấp nguồn tài chính (cấp quản lý tài chính), giữa quản lý của Trung Ương và quản lý của địa phương...Với tình trạng như vậy thì quyền sở hữu bị phân tán ở nhiều cấp trung gian nhưng không có cơ quan nào chịu trách nhiệm toàn diện đến cùng đối với doanh nghiệp. Do đó dẫn đến doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả cũng không có cơ quan nào chịu trách nhiệm một cách cụ thể dẫn đếnd tình trạng buông lỏng trong quản lý. Một số doanh nghiệp không sử dụn hết nguồn tài sản nhà nước mình đang quản lý cũng dẫn đến tình trạng lãng phí. Một trong số tài sản Nhà nước bị lãng phí hiện nay là đất đai, nhà xưởng. Vì không được sử dụng có hiệu quả, đất đai bị sử dụng trái mục đích hoạt động của các cơ quan. Máy móc thiết bị cũng là một yếu tố gây lãng phí của các cơ quan, doanh nghiệp Nhà nước. Điều đó được thể hiện ngay từ khâu lựa chọn máy móc thiết bị. Các doanh nghiệp lựa chọn công nghệ không phù hợp với hoạt động sản suất kinh doanh của địa phương. Một số doanh nghiệp do yếu kém trong chuyên môn, quản lý đã nhập phải những công nghệ lạc hậu của nước ngoại làm thiệt hại đáng kể cho Nhà nước. Thế nhưng cũng có một số doanh nghiệp do không nghiên cứu kỹ tình hình kinh tế xã hội, đặc điểm của địa phương mình nên đã nhập những thiết bị không phù hợp. Những công nghệ mới này tuy đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ ở dạng tiềm năng, hoạt động với một phần nhỏ công suất được thiết kế. Công ty nước khoáng Cúc Phương của tỉnh Ninh Bình là một ví dụ : Công ty đã nhập dây truyền khai thác nước khoáng khá hiện đại của Italy, nhưng do không tìm hiểu thị trường nên hiện nay Công ty chỉ hoạt động với 10% công suất thiết kế Khai thác tài nguyên khoáng sản : Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố quan trọng, là điều kiện của một quốc gia phát triển kinh tế . Đất nước ta với nguồn tài nguyên thiên nhiên khá dồi dào, là điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế đất nước. Điều đó được thể hiện Tài nguyên đất : Toàn bộ quỹ đất nước ta có trên 33 triệu ha (đứng hàng thứ 58 trên thế giới) nhưng bình quân đất trên đầu người khá thấp (khoảng 0,6ha) trong đó hơn 2/3 diện tích tự nhiên là đất dốc đồi núi, đồng bằng chỉ chiếm khoảng 1/3 . Hiện trạng sử dụng đất hiện nay vẫn còn khá nhiều khá sai phạm. Mặc dù có đến 80% dân số là nông dân nhưng diện tích đất bình quân theo đầu người giành cho nông nghiệp ngày càng giảm, trong khi đất dùng cho xây dựng thuỷ lợi, giao thông, nhà cửa khá phung phí. Có khá nhiều nơi tự xây dựng nhà trên diện tích đất nông nghiệp là hậu quả của sự thiếu ý thức, quản lý không nghiêm của các ngành có thẩm quyền. Tài nguyên nước : Mặc dù nước ta có một mạng lưới sông ngòi khá dày đặc , phân bố tương đối đồng đều trên toàn bộ lãnh thổ. Thế nhưng hiện nay thườn44g xảy ra những hiện tượng khí hậu bất thường, dẫn đến phân bố nguồn nước cũng thay đổi. Bên cạnh đó do tình hình phá rừng bừa bãi nên đất kém khả năng giữ nước đôi khi dẫn đến hạn hán. Nước ngầm ở nước ta khá phong phú và dồi dào. Trừ lượng nước ngầm ở vùng đồng bằng từ 1 đến 200 m, có thể đạt 10 trên m3 /ngày đêm mà ta mới khai thác 48.000 m3/ngày đêm. Nguồn nước ngầm nước ta hiện nay đang có hiện tượng nhiễm bẩn do các chất thải của hoạt động sản xuất, sinh hoạt của người dân. Điều này sẽ ảnh hưởng đến khả năng sử dụng nguồn nước ngầm trong tương lai của chúng ta. + Khoáng sản: tài nguyên khoáng sản của nước ta tương đối phong phú về chủng loại, đa dạng về loại hình. Cho đến nay, đã phát hiện 3.500 mỏ và điểm quặng của hơn 80 loại khoáng sản. Tuy nhiên mới có 300 mỏ của 30 loại khoáng sản được đưa vào khai thác thiết kế. Một số loại khoáng sản có trữ lượn lớn và có giá trị kinh tế. Dầu mỏ và khí đốt là nguồn năng lượng quan trọng của nước ta. Trữ lượng khai thác 4 - 5 tỉ tấn dầu qui đổi. Trữ lượng khí đồng hành khoảng 250 đến 300 tỉ m3. Cùng với việc khai thác dầu, hiện nay vẫn phải đốt một lượng kông nhỏ khí đồng hành do không dẫn được vào bờ. Đây là một lãng phí khá lớn đang được chúng ta khắc phục. Than: Than của nước ta tập trung chủ yếu ở Quảng Ninh. Tính đến độ sâu 300 m có trữ lượng thăm dò 3,5 tỷ tấn, ở độ sâu 300 - 900 m có trữ lượng dự báo khoảng 2 tỷ tấn. Nếu tính cả trữ lượng của các mỏ than nhỏ ở địa phương thì tổng trữ lượng lên khoảng 6 tỷ tấn . Trong đó vùng Quảng Ninh có tới 5,5 tỷ tấn, chiếm gần 90% trữ lượng than của cả nước. Việc quản lý khai thác ngành than có một sai phạm gây ra lãng phí tài nguyên của Nhà nước. Điều đó được thể hiện ở những sai phạm của Tổng công ty Than Việt Nam. Theo kết luận của Đoàn thanh tra Nhà nước ngày 15/6/2000 về tình hình sản xuất kinh doanh ở Tổng công ty Than Việt Nam từ năm 1998 đến năm 2000 đã phát hiện: Ngành than đã báo cáo sai sự thật hơn 1,9triệu tấn than tồn kho, nợ 6 triệu m3 đất đá bốc dỡ, vay nợ ngân hàng 300 tỷ đồng, làm thiệt hại 270 tỷ đồng và 586,574 USD. Trình trạng khai thác khoáng sản còn thiếu tổ chức và gây ra lãng phí tài nguyên. Đây là loại tài nguyên không thể phục hồi nên cần có chiến lược khai thác thích hợp, đem lại hiệu quả kinh tế cao. + Tài nguyên sinh vật - Tài nguyên sinh vật nước ta phong phú và đa dạng trên đất liền chúng ta có khoảng 7000 loại thực vật bậc cao, 200 loài cây trồng, hơn 200 loài thú quý, 700 loài chim, 500 loài cá nước ngọt. ở dưới biển có khoảng 2000 loài cá (trong đó hơn 100 loài có giá trị kinh tế), hàng trăm loài tôm, 650 loài rong biển. Do phá rừng và khai thác tài nguyên quá mức, tài nguyên sinh vật đang bị giảm sút đáng kể. Nhiều loại trở nên hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng. Các hệ sinh thái rừng ngập mặn đangbị huỷ hoại nghiêm trọng. Nước ta hiện nay có khoảng 9,3 triệu ha rừng tập trung chủ yếu ở ba vùng: Bắc Trung Bộ (gần 1,7 triệu ha), duyên hải miền trung( 1,7 triệu ha) và Tây Nguyên ( 3,3 triệu ha). Nạn phá rừng đang là một hiện tượng nhức nhối của nước ta. Vì vậy, bên cạnh khai thác hợp lý, cần có những biện pháp hữu hiệu về bảo vệ và trồng rừng. Nguyên nhân của hiện tượng phá rừng và khai thác tài nguyên một cách bừa bãi là do thiếu sự quản lý chặt chẽ một cách có hệ thống. Bên cạnh đó là sự thiếu hiểu biết, thiếu ý thức của người dân cũng góp phần vào việc làm cạn kiệt nguồn tài nguyên. Trong lĩnh vực sử dụng vốn và tài sản của doanh nghiệp Nhà nước Việt Nam sau nhiều đợt cải cách và đổi mới doanh nghiệp Nhà nước đến nay cả nước có khoảng 5740 doanh nghiệp Nhà nước. Xét về mặt số lượng chỉ chiếm khoảng 17% nhưng vẫn luôn đóng vai trò chủ đạo của nền kinh tế và nắm giữ hầu hết các nguồn lực cơ bản trong xã hội : 86,6% tổng số vốn, 85 % TSCĐ, 100% mỏ, 80% rừng; 90% lao động được đào tạo có hệ thống. Hàng năm các doanh nghiệp Nhà nước nộp khoảng 30% GDP, trong đó số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả chiếm khoảng 40%. Thực tế đã cứng minh rằng doanh nghiệp với 1 đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ chuyên môn cao, có năng lực quản lý nhiệt tình, luôn đi sâu sát nhậy bén trong việc quản lý bồi dưỡng lao động, khia thác thị trường ,không ngừng cải tiến sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm bằng cách đổi mới công nghệ và thiết bị hiện đại. Kết hợp với việc thực hiện rất nhiều biện pháp khác nhau để huy động vốn đáp ứng nhu cầu đầu tư thiết bị, đầu tư đổi mới công nghệ, nhu cầu vốn lưu động và đã giải quyết được mâu thuẫn cơ bản giữa khả năng hạn hẹp về vốn ới nhu cầu vốn ngân sách cấp bằng đa dạng hoá các nguồn vốn từ vốn vay ngân hàng, vốn tín dụng ưu đãi , vốn từ quỹ hỗ trợ quốc gia, vốn bổ sung từ lợi nhuận doanh nghiệp ,vốn huy động của cán bộ công nhân viên, vốn do chuyển đổi địa điểm, vốn từ các đối tác nước ngoài ...Thêm vào đó doanh nghiệp thường xuyên thừc hiện phát động các phong trào thi đua tiết kiệm trong sản xuất ,phát huy sáng kiến sử dụng công nghệ tiên tiến.Các doanh nghiệp này sẽ luôn giữ được tốc độ tăng trưởng cao, thu hút được nhiều lao động và tiết kiệm được các nguồn lực sẵn có trong nền kinh tế bằng cách sử dụng có hiệu quả chúng. Ta có thể lấy ra một số doanh nghiệp làm ăn đạt hiệu quả cao như : tổng công ty Giấy: Đây là một đơn vị luôn có sự tăng trưởng cao,mặc dù năm 2000 có rất nhiều trở ngại cản trở lớn tới tổng công ty như sự khủng hoảng tài chính năm 1999 nhưng tăng trưởng lợi tức của Tổng công ty vẫn đạt 8,9% so với năm trước, bằng 152% kế hoạch đề ra; Tổng công ty thiết bị kỹ thuật điện năm 2001 giá trị sản xuất toàn công ty bằng 825,532 tỷ đồng đạt 105% kế hoạch và bằng 115% so với năm 2000, tổng doanh thu bằng 881,906 tỷ đồng bằng 110,24% só với kế hoạch, đạt 114,5% só với năm 2000. Chỉ tính riêng thành phố hà nội thì có khoảng 25 doanh nghiệp Nhà nước làm ăn đạt hiệu quả cao có tốc độ tăng trưởng bình quân 1994-1997 : 18%, vốn tăng 10,4%, tỷ suất lợi nhuận trên vốn 9,9%/năm, tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu 4,2%/năm ( gấp hai lần mức bình quân chung) thu hút được 11733 lao động... Tuy nhiên, bên cạnh những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả hiện nay nước ta vẫn còn tồn tại 1 tỷ trọng lớn các doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả thường có lỗ thật lãi giả gây thiệt hại và lãng phí cho nền kinh tế . Cụ thể là hiện nay trong 17 tổng công ty chiếm phần lớn vốn Nhà nước thì chỉ có 5 tổng công ty có lãi là Dầu khí, Bưu chính viễn thông, Điện lực, Cao su và Công nghiệp tầu thuỷ còn các công ty thành viên trong các tổng công ty khác đều lỗ hoặc hoà vốn. Những tổng công ty có lãi là nhờ khai thác tài nguyên thiên nhiên đang có giá hoặc độc quyền hoặc có quyền định giá, trừ cao su và công nghiệp tâù thuỷ. Các công ty mà hoạt động ảnh hưởng nhiều và trực tiếp đến đời sống nhân dân như lương thực, giấy, thép, dệt may, xi măng, đường, trong 6 tháng đầu năm 2002 đều lỗ hoặc hoà vốn. Nợ của các doanh nghiệp Nhà nước vào cuối năm 2000 lên đến 190.000 tỷ đồng (13,1 tỷ USD), bằng 33% GDP .Vì là nợ Nhà nước gánh,số nợ này đưa tổng nợ công của Nhà nước Việt Nam lên 21,3 tỷ USD bằng 63% GDP (không kể số mà doanh nghiệp nợ lẫn nhau), một con số khá lớn, còn các doanh nghiệp Nhà nước nợ lẫn nhau chiếm 5% GDP tức là khoảng 25.000 tỷ đồng, 1,7 tỷ USD. Chính vì thế mà nhìn chung cho toàn bộ doanh nghiệp trong hệ thống doanh nghiệp Nhà nước thì hiệu quả sử dụng vốn và tài sản đạt rất thấp và hiện nay lại đang có xu hướng giảm sút. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn giảm từ 11,2% năm 1996 xuống còn 10,8 % năm 1997, 10,6% năm 1998 và 10,7 % năm 1999. Còn tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu giảm từ 3,46% năm 1995 xuống còn 2,9 % năm 1998, thậm chí trong ngành công nghiệp : 1 đồng vốn chỉ làm ra 0,024 đồng lợi nhuận, chỉ đóng góp 40,7% thu ngân sách trong lĩnh vực công nghiệp trong khi đó khu vực công nghiệp chiếm 47,4% vốn, 28,5% lao động. Mặt khác không những vốn và tài sản không được sử dụng hiệu quả mà trong doanh nghiệp Nhà nước còn có tình trạng dư thừa lao động. Chỉ tính ở 42 tỉnh thành phố đến thời điểm 6/1999 số lao động không bố trí được việc làm là gần 42.000 người chiếm 6,08 % tổng số lao động hiện có của các doanh nghiệp Nhà nước do đó ước tính số lao động không được bố trí việc làm vào khoảng 20 vạn người và tình trạng này đang có xu hướng gia tăng. Theo số liệu khảo sát ở một số doanh nghiệp tại 1 vài tỉnh, thành phố hồi tháng 3/2000 cho thấy tỷ lệ này đã lên tới 7,26%. Dự tính trong 3 năm tới (2001-2003) thì sẽ có khoảng 9,76% lao động thuộc diện dôi dư. Hà nội là 1 thành phố có nhiều doanh nghiệp Nhà nước đang hoạt động trong đó chỉ có khoảng 15 đến 20% doanh nghiệp Nhà nước thuộc diện làm ăn khá, chuyển đổi và thích nghi nhanh chóng với cơ chế mới. Còn khoảng 60% doanh nghiệp làm ăn trung bình cố gắng đứng vững trong tình hình khó khăn hiện nay sưc cạnh tranh của sản phẩm không cao, khả năng ổn định và phát triển chưa chắc chắn. 20% doanh nghiệp Nhà nước yếu kém thực sự, thua lỗ kéo dài, nợ đọng lớn. Năm 1996 tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu của các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ đạt 2,1 %/năm tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh đạt7,5%. Từ năm 1994 đến hết năm 1996 có 47 doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ, trong đó có 18 doanh nghiệp lỗ 1 năm, 22 doanh nghiệp lỗ 2 năm, 7 doanh nghiệp lỗ 3 năm. Đặc biệt tốc độ tăng trưởng sản xuất của các doanh nghiệp Nhà nước thuộc thành phố Hà nội có biểu hiện tăng chậm lại: năm 1997 so với năm 1995 doanh thu của doanh nghiệp Nhà nước tăng 12,56%, mức tăng đã giảm dần từ 10,1% năm 1996 xuống 2,2% năm 1997. Tổng lãi thực hiện của các doanh nghiệp Nhà nước năm 1997 chỉ bằng 7,8% của năm 1995( năm sau thấp hơn năm trước, từ 178 tỷ xuống 164 tỷ và xuống 138,8 tỷ đồng). Lỗ cộng dồn năm 1997 tuy có giảm 6% so với năm 1996 nhưng tăng 2,3 lần so với năm 1995. Tổng nộp ngân sách của doanh nghiệp Nhà nước của Hà nội năm 1997 chỉ bằng92,76% so với năm 1995. Trong khi đó trong 3 năm 95-97 mức tăng vốn kinh doanh của các doanh nghiệp là 25,22% và mức tăng của vốn ngân sách là 43,54%.Như vậy mức vốn ngân sách cấp cho địa phương tăng nhiều(43,54%) nhưng mức đóng góp của doanh nghiệp địa phương lại giảm, thấp hơn năm 95 là 7%. Điều đáng chú ý là việc tăng đóng góp vào ngân sách của các doanh nghiệp chủ yếu là do tăng phần thuế tiêu thụ đặc biệt( tăng 101,8%). Thuế tiêu thụ đặc biệt thực chất là thuế do doanh nghiệp đóng hộ người tiêu dùng, không phải do hoạt đọng có hiệu quả của doanh nghiệp mà có phần thuế lợi tức thể hiện hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì giảm dần 19%. Rõ ràng các doanh nghiệp không có hiệu quả nguồn vốn được cấp. Nguyên nhân làm cho các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ là do: Doanh nghiệp có đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt năng lực yếu, kém năng động, ít am hiểu thị trường có biểu hiện tham nhũng, mất đoàn kết nội bộ, không chuyên tâm tìm hướng cho doanh nghiệp phát triển thoát ra khỏi tình trạng khó khăn. Hơn nữa lại thường có kiểu đầu tư vào một số lĩnh vực theo phong trào, đầu tư chắp vá, tản mạn nặng nề về đầu tư cho trước măt mà chưa có chương trình đầu tư cho tương lai, chưa tính đến đối thủ cạnh tranh( nhà máy đường, xi măng). Bên cạnh đó, tính kỷ luật của doanh nghiệp lỏng lẻo, không đưa ra được các phong trào thi đua ý thức trách nhiệm của mỗi lao đọng gây nên tình trạng trong doanh nghiệp còn có người lao động có tư tưởng trông chờ ỷ lại vào sự bao cấp của Nhà nước . Nhiều người chưa quen chấp nhận sự vật lộn bươn chải cùng đồng lòng vươn lên tự cứu lấy mình, chấp nhận khó khăn tạm thời thu hút mọi tài trí cùng với doanh nghiệp góp vào giải quyết khó khăn phát triển đi lên Doanh nghiệp được đầu tư mất cân đối về cơ sở vật chất ngay từ khi được thành lập cho đến nay, máy móc thiết bị công nghệ sản xuất, dây chuyền sản xuất lạc hậu so với thế giới từ 10-20 năm và do hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp còn thời gian khấu hao tài sản cố định kéo dài, bình quân từ 10-12 năm, trong khi đó mức khấu hao bình quân của khu vực và thế giới là 7-8 năm, dẫn đến khả năng cạnh tranh thấp và do đó lợi nhuận và doanh thu thấp gây tình trạng thua lỗ. Mặt khác các doanh nghiệp này còn thiếu vốn một cách trầm trọng. Họ không có các phương thức thu hút vốn từ nhiều nguồn khác nhau mà chỉ trông chờ vào số vốn ít ỏido Nhà nước cấp và để khắc phục việc không đủ vốn họ đi đầu tư rót vốn nhỏ giọt, không chớp được những cơ hội tốt nhất trong kinh doanh. Ngoài ra trong quá trình đổi mới công nghệ thiết bị triển khai ứng dụng hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm quố tế chưa được các doanh nghiệp chú trọng đẩy mạnh và thực hiện quyết liệt, chưa có phương pháp rèn luyện cho người lao động thích ứng với máy móc thiết bị hiện đại1 cách khoa học. Chính vì thế mà dù tốn rất nhiều tiền của để đổi mới máy móc nhưng năng suất và chất lượng sản phẩm vẫn không cao và đạt được tiêu chuẩn quốc tế. Nhiều doanh nghiệp khi đầu tư mới mở rộnghoặc theo chiều sâu không chuẩn bị kĩ lưỡng từ khâu lập dự án thẩm định và phê duyệt, chọn cơ cấu nguyên vật liệu chính chưa phù hợp với nhu cầu tiêu dùng. Thêm nữa, doanh nghiệp lại thường tổ chức các cuộc hội họp có chi vượt quá định mức cho phép ( kiểm tra cho thấy16 bộ ngành chi cho hội nghị vượt chế độ 130 triệu, chi sai chế độ 363 tr) Đó là một vài lý do chủ yếu dẫn đến sự kém hiệu quả trong việc sử dụng vốn và tài sản ở các doanh nghiệp Nhà nước , gây nên lãng phí không nhỏ đối với nền kinh tế nói chung. V. Trong lĩnh vực chi tiêu của dân cư. Có thể nói người dân Việt Nam vẫn chưa thật tiết kiệm trong tiêu dùng, sinh hoạt. Đơn cử trong việc tổ chức đám cưới, hầu hết các đám cưới đều tổ chức ăn uống với trung bình khoảng 150 - 200 khách mời. Số khách mời có thể lên đến 900 - 1000 khác tuỳ vào tính chất công việc và các mối quan hệ của người nhà cũng như của cô dâu chú rễ. Mỗi người đi ăn Cưới đều mang tiền mừng trong phong bì như một thông lệ tự thoả thuận. Hiện tượng này được báo chí nhắc với danh từ "cơm bụi giá cao" cho thấy tính hình thức, tiêu cực của nó. Ngoài ra những đám cưới (phần lớn ở nông thông) tổ chức ăn trong nhiều ngày không phải quá hiếm. Tất cả chi phí cho một đám cưới gồm ăn uống, xe ô tô, quần áo.. thực sự là vấn đề lo lắng cho mỗi gia đình. Nhà nước ta đã qui định về việc tổ chức cưới theo nếp sống mới, văn minh và tiết kiệm nhưng thực sự là vẫn chưa được hưởng ứng rộng rãi trong nhân dân. Mặc dù các cơ quan địa phương, trung ương đã chỉ đạo và tổ chức làm mẫu những đám cưới theo nếp sống mới và đưa lên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng việc thực hiện mới chỉ dừng lại trong số những người có thu nhập hạn hẹp, những người có ít họ hàng, người thân thích… Đó chỉ là một ví dụ điển hình, việc tiêu xài hoang phí, không đúng mức còn có thể thấy trong việc ma chay, tổ chức các ngày lễ trong năm (Tết, rằm,…), ngày kỉ niệm của đời người (ngày lễ đầu tháng, sinh nhật…). Thêm vào đó 2,3 năm trở lại đây các cơ quan chức năng cũng đã phải lên tiếng khi nạn đốt vàng mã ở các đền, chùa, phủ quá nhiều gây ô nhiễm môi trường và lãng phí tiền của nhân dân. Vẫn biết việc thờ cúng tổ tiên, đi lễ đền, chùa vào ngày lễ là một truyền thống, phong tục đáng trân trọng của nhân dân ta. Song cũng cần phải được định hướng để phù hợp với nếp sống văn minh, văn hoá trong thời đại mới. Suy cho cùng, lý do của những việc tiêu sài không hợp lý trên đây là do tâm lý của người Việt Nam vẫn chưa thực sự đổi mới, vẫn theo những lối mòn cũ không phù hợp với thực tế thời đại. Cá biệt có những người lợi dụng những việc trên để trục lợi cho bản thân, thương mại hoá làm mất đi những nét đẹp văn hoá của chúng. Bên cạnh những vấn đề trên, trong đời sống hàng ngày chúng ta cũng chưa thật tiết kiệm. N

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35277.doc