Đề tài Tiêu thụ sản phẩm và phương hướng, biện pháp thúc đẩy khả năng tiêu thụ, tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Giấy Bãi Bằng

Quảng cáo được coi là một công cụ có hiệu quả cao, có tầm quan trọng đối với quá trình tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Công ty cần phải thiết kế một thông điệp quảng cáo chung cho các phương tiện quảng cáo. Thông điệp truyền tin mà Công ty định sử dụng phải toát lên được lợi ích kinh tế của người mua, đề cập đến khía cạnh đạo đức, giáo dục, phải có màu sắc hấp dẫn và phải nói lên được chất lượng sản phẩm. Đặc biệt khi Công ty sử dụng catalog thì chất lượng giấy của Công ty phải được thể hiện ở ngay chính sản phẩm giấy catalog đó. Đồng thời cũng phải nêu lên được đầy đủ các thông tin về địa chỉ của Công ty, văn phòng đại diện, giao dịch, danh mục các sản phẩm, số điện thoại, số fax.

Trong hoạt động quảng cáo, Công ty cần cố gắng nâng cao được hình ảnh của Công ty. Công ty có thể sử dụng các phương tiện như: báo , tạp chí đặc biệt là tạp chí chuyên ngành, qua catalog, qua mạng Internet, qua vô tuyến, Thông qua hoạt động quảng cáo, Công ty có thể gây ấn tượng tốt về hình ảnh của Công ty. Các chương trình quảng cáo, các thông điệp quảng cáo cũng cần xây dựng thành những chương trình có nội dung riêng nhấn mạnh vào từng loại sản phẩm khác nhau, các mục đích khách hàng quan tâm hoặc chính Công ty quan tâm, đồng thời lựa chọn các phương tiện truyền tin thích hợp.

 

doc69 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1268 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tiêu thụ sản phẩm và phương hướng, biện pháp thúc đẩy khả năng tiêu thụ, tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở Công ty Giấy Bãi Bằng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đoạn 1: Từ 1982-1990 Đây là giai đoạn Công ty vận hành với thuận lợi là có sự trợ giúp đầy đủ của Thuỵ Điển cả về tài chính, kỹ thuật và quản lý, máy móc thiết bị còn mới. Nhưng lại có một bất lợi lớn là bị cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp kìm hãm. Vì vậy sản xuất của công ty gặp nhiều khó khăn. Nguyên, nhiên liệu và các vật tư đầu vào khác luôn luôn thiếu, không đáp ứng được nhu cầu sản xuất. Có thời điểm Công ty phải sản xuất cầm chừng hoặc dừng máy hàng tháng. Sản lượng thời kỳ này cao nhất cũng chỉ đạt 55% công suất thiết kế với chất lượng giấy không cao. Trong giai đoạn này, năm 1987 Công ty đổi tên thành “Xí nghiệp liên hợp Giấy Vĩnh Phú”. *Giai đoạn 2: Từ 1990 đến nay. Tháng 6/1990, Thuỵ Điển chấm dứt viện trợ toàn bộ cho công trình. Từ đây nhà máy hoàn toàn do người Việt Nam quản lý, điều hành bằng nội lực của mình. Mặc dù không còn tiền viện trợ, không còn chuyên gia nước ngoài, nhưng bù lại Công ty lại được vận hành trong cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Mặt khác, trình độ đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ thuật và vận hành của Công ty cũng ngày càng được nâng cao và hoàn thiện. Đến nay, Công ty đã trở thành tổ hợp công nghiệp lớn nhất Việt Nam, luôn đứng đầu về số lượng và chất lượng, có vị trí quan trọng trong sự nghiệp phát triển Văn hoá - Giáo dục - Kinh tế của đất nước. Sản phẩm chủ yếu của Công ty là giấy viết có chất lượng cao, với định lượng từ 50-120g/m2, độ trắng của giấy (ISO) từ 90-95o ISO, bao gồm các loại: giấy cuộn, giấy ram, giấy tập, vở học sinh, giấy vi tính và giấy telexsản phẩm của Công ty được người tiêu dùng ưa chuộng và được phân phối trên toàn lãnh thổ Việt Nam. Sau đây là những kết quả cụ thể về sản xuất kinh doanh của công ty trong những năm gần đây: Kết quả sản xuất kinh doanh từ 1995-2001 Năm SL giấy sản xuất SL giấy tiêu thụ Doanh thu Lợi nhuận Nộp NSNN Thu nhập bình quân Tấn Tấn Triệu đồng Triệu đồng Triệu đồng đ/người/tháng 1995 50.620 48.030 512.978,0 38.894,0 46.725,3 867.100 1996 57.027 53.050 533.238,5 37.506,0 46.997,1 1.145.289 1997 53.630 56.238 585.013,6 50.649,3 53.179,7 1.032.582 1998 60.029 61.540 672.275,0 60.644,2 58.831,2 1.361.000 1999 63.101 61.530 638.674,9 52.944,0 60.975,4 1.369.000 2000 65.524 68.240 721.625,8 50.427,0 75.374,0 1.801.830 2001 73.233 71.082 793.175,6 60.168,7 72.798,0 2.043.366 2.1.2. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh ở Công ty: 2.1.2.1. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý: Cơ cấu bộ máy quản lý của Công ty là tổng hợp các bộ phận lao động quản lý khác nhau, được chuyên môn hoá và có quyền hạn trách nhiệm nhất định, được bố trí thành những cấp , những khâu khác nhau, nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng quản lý và phục vụ mục đích chung đã xác định của Công ty. Tổ chức bộ máy quản lý của Công ty Giấy Bãi Bằng được xây dựng theo kiểu trực tuyến chức năng, thực hiện quản lý theo chế độ một Tổng giám đốc. Tổ chức bộ máy quản lý bao gồm những bộ phận được thể hiện qua sơ đồ sau: (sơ đồ 1) *Chức năng và nhiệm vụ của các bộ phận: - Tổng giám đốc: là người đại diện hợp pháp duy nhất của Công ty, chỉ đạo chung mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn Công ty. Trực tiếp điều hành kinh doanh và các phòng ban tham mưu. Chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty với Tổng Công ty Giấy Việt Nam và tập thể lao động. Mọi quy định của Công ty phải được Tổng giám đốc thông qua và xét duyệt. Tổng giám đốc trực tiếp chỉ đạo, giám sát hai phòng ban là: phòng tổ chức hành chính và phòng thị trường, nhà máy gỗ Cầu Đuống và ba chi nhánh ở Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh. Dưới Tổng giám đốc có 6 phó tổng giám đốc giúp việc tham mưu, điều hành các phòng ban còn lại. - Phó tổng giám đốc phụ trách sản xuất: là người chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về sản xuất kinh doanh của Công ty, như: tiến độ sản xuất giấy, nhu cầu hoá chất, tiêu hao điện năng cho sản xuất và chất lượng sản phẩm do các bộ phận làm ra. - Phó tổng giám đốc phụ trách bảo dưỡng: phụ trách toàn bộ trang thiết bị mà Công ty hiện có, đảm bảo khả năng vận hành của máy móc, thiết bị, đảm bảo cho nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của Công ty. Ngoài ra còn có trách nhiệm đề ra các nội quy an toàn lao động trên cơ sở các văn bản hướng dẫn của Nhà nước. - Phó tổng giám đốc phụ trách kinh tế: chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc về cung cấp nguyên liệu phục vụ cho sản xuất theo kế hoạch của Nhà nước giao. Mua sắm thiết bị vật tư, phụ tùng phục vụ cho nhu cầu sản xuất của Công ty. - Phó tổng giám đốc phụ trách đầu tư nội bộ: phụ trách đầu tư cho sản xuất. - Phó tổng giám đốc phụ trách đời sống-văn hoá: phụ trách nhu cầu nâng cao đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần cho cán bộ công nhân viên trong toàn Công ty. - Phó tổng giám đốc phụ trách nhà máy gỗ Cầu Đuống: chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh của nhà máy gỗ Cầu Đuống. + Phòng tổ chức hành chính: có chức năng giúp đỡ Tổng giám đốc quản lý nhân sự trong toàn Công ty, tham mưu cho Tổng giám đốc về đề bạt, miễn nhiệm cán bộ trong phạm vi Công ty quản lý và quản trị trong toàn Công ty. + Phòng thị trường: tiếp cận thị trường tiêu thụ, tìm khách hàng tiêu thụ các sản phẩm do Công ty làm ra. Từ đó trình lên Tổng giám đốc về kế hoạch sản xuất và tiêu thụ hàng năm của Công ty. 2.1.2.2. Đặc điểm về quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm: Quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm của Công ty được tổ chức sản xuất theo mô hình sản xuất phức tạp kiểu liên tục, sản phẩm giấy sản xuất ra cuối cùng là sự kết hợp sản xuất khép kín từ: điện-hơi-nước-xút-Clo-Hypo-cơ khí-vận tải-xút thu hồi-bột-giấy. Quá trình sản xuất liên tục trên có chia ra các công đoạn phân xưởng, các nhà máy sản xuất theo quy trình công nghệ để tiện lợi trong công tác quản lý sản xuất và vận hành thiết bị. Giải thích quy trình sản xuất giấy: Nguyên liệu thô, tre, nứa được đưa vào chặt thành mảnh qua hệ thốngmáy chặt nguyên liệu và thủ công. Sau khi qua các công đoạn chặt, rửa, các mảnh này được đưa qua hệ thống sàng để loại ra những mảnh không hợp cách. Những mảnh hợp cách được vận chuyển về kho chứa mảnh qua hệ thống băng tải và từ đây đưa vào nồi nấu theo tỷ lệ phối trộn 50% sợi dài (mảnh tre, nứa) và 50% sợi ngắn (mảnh gỗ các loại). Từ sân mảnh, mảnh được đưa vào các nồi nấu qua hệ thống ống thổi mảnh (theo nguyên lý khí động học). Quá trình đưa mảnh vào nồi nấu được vận hành bằng hệ thống thiết bị nghi khí điều khiển và khi nấu bột hoá chất sử dụng là xút và Na2SO4. Sau khi nấu bột đến công đoạn rửa, dịch đen loãng thu hồi được trong quá trình rửa bột được đưa vào chưng bốc thành dịch đen đặc cung cấp cho nồi hơi thu hồi. Bột sau khi rửa được đưa sang sàng chọn để loại mấu mắt và tạp chất. Sau khi rửa xong, bột được cô đặc tới nồng độ 12% và đưa sang công đoạn tẩy trắng bằng hoá các hóa chất, như: xút, Clo, NaClO, H2O, các hoá chất này được cung cấp từ nhà máy hoá chất và một số mua ngoài. Sau đó, bột được đưa sang phân xưởng xeo để sản xuất giấy. Trước tiên, bột giấy được bơm tới công đoạn chuẩn bị bột và phụ gia. Tại đây bột giấy được nghiền nhờ hệ thống máy nghiền, để đưa độ nghiền của bột từ 15oSR lên 35 - 40oSR. Do yêu cầu về sản lượng và chất lượng sản phẩm, Công ty đã phải nhập bột ngoại với tỷ lệ dùng từ 15-20%, bột ngoại cũng được xử lý tại công đoạn này. Bột sau khi nghiền được phối trộn với một số hoá chất phụ gia như keo ADK, CaCO3, bentonite, tinh bột, cataretin,nhằm cải thiện một số tính chất của tờ giấy sau này. Để tờ giấy đạt các tiêu chuẩn mong muốn về bền đẹp, trước khi hình thành tờ giấy, dung dịch bột được xử lý qua một hệ thống phụ trợ để loại bỏ tạp chất tạo cho bột không bị vón cục, có nồng độ, áp lực ổn định. Đến đây, dung dịch bột giấy được đưa lên máy xeo và tờ giấy ướt được hình thành, tờ giấy ướt tiếp tục qua bộ phận sấy khô. Kết thúc công đoạn này tờ giấy đạt độ khô từ 93- 95% và được cuộn lại thành từng cuộn giấy to. Các cuộn này được chuyển đến máy cắt cuộn để cuộn lại và cắt thành các cuộn giấy nhỏ có đường kính từ 90-100 cm; chiều rộng giấy tuỳ theo yêu cầu của khách hàng. Nhờ có băng tải và thang máy, các cuộn giấy này được chuyển tới bộ phận hoàn thành để gia công chế biến, bao gói thành các thành phẩm. Tất cả các sản phẩm này được nhân viên KCS kiểm tra nghiêm ngặt, sau đó bao gói và nhập kho thành phẩm để bán cho khách hàng. Trong quá trình sản xuất bột và giấy, từng công đoạn đều phải tuân thủ những quy định nghiêm ngặt nhằm tạo ra sản phẩm giấy có sản lượng và chất lượng cao, giảm tiêu hao và hạ giá thành sản phẩm, đáp ứng tốt thị hiếu của người tiêu dùng. Với quy trình công nghệ sản xuất giấy như trên thì tổ chức bộ máy sản xuất của Công ty được bố trí, bao gồm: Nhà máy hoá chất. Nhà máy điện. Nhà máy giấy. Xí nghiệp vận tải. Xí nghiệp bảo dưỡng. 2.1.2.3. Tổ chức công tác kế toán của công ty: Toàn bộ công tác kế toán đều được thực hiện tại phòng tài chính- kế toán của Công ty. Phòng tài chính-kế toán gồm 30 người, được bố trí theo sơ đồ sau: ( Sơ đồ 2) Bộ máy kế toán của Công ty được tổ chức theo hình thức kế toán tập trung và vận dụng hình thức sổ kế toán Nhật ký-chứng từ kết hợp với việc xử lý số liệu trên máy vi tính. Hàng tồn kho được hạch toán theo phương pháp kê khai thường xuyên. Đối với tài sản cố định, Công ty áp dụng phuơng pháp khấu hao theo thời gian. Đơn vị tiền tệ kế toán sử dụng trong ghi chép là Việt Nam đồng. Niên độ kế toán bắt đầu từ 01/01 đến 31/12 hàng năm. Kỳ kế toán của Công ty là hàng tháng với công việc ghi sổ và quyết toán. Toàn bộ công việc kế toán được tập trung tại phòng kế toán - tài chính. ở phân xưởng và các tổ sản xuất chỉ tổ chức khâu ghi chép ban đầu, như việc tính ngày công, theo dõi nguyên vật liệu đưa vào sản xuất. Với hình thức tổ chức và cơ cấu bộ máy kế toán như trên, phòng kế toán đã thực hiện đầy đủ các công việc quản lý vật tư, tiền vốn, xác định kết quả kinh doanh, chấp hành đầy đủ các chế độ chính sách kinh tế tài chính của Nhà nước, lập đầy đủ các báo cáo theo yêu cầu của cơ quan chủ quản, phục vụ kịp thời công tác quản lý của Công ty và công tác quản lý của cấp trên. Đứng đầu bộ máy kế toán là kế toán trưởng, kế toán trưởng tổ chức kiểm tra việc thực hiện chế độ ghi chép ban đầu, chế độ báo cáo thống kê dịnh kỳ, tổ chức bảo quản hồ sơ, tài liệu kế toán, đồng thời theo dõi phần hành kế toán tổng hợp, đúc rút kinh nghiệm, vận dụng sáng tạo, cải tiến hình thức và phương pháp kế toán ngày càng hợp lý, chặt chẽ phù hợp với điều kiện của Công ty. 2.1.2.4. Đặc điểm về sản phẩm của Công ty: Sản phẩm chủ yếu của Công ty là giấy viết có chất lượng cao bao gồm các loại giấy cuộn, giấy ram, giấy photo, giấy vi tính, giấy telex, giấy tập, vở học sinh,Đặc điểm của sản phẩm tiêu dùng là có thể để lâu, không bị hao hụt nên cũng dễ dàng quản lý. Về số lượng: Số lượng sản phẩm sản xuất nhiều hay ít căn cứ vào các đơn đặt hàng, các hợp đồng kinh tế đã ký kết và tình hình tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, từ đó Công ty có kế hoạch sản xuất giấy với số lượng phù hợp. Về chất lượng: do Công ty có dây truyền sản xuất tiên tiến, hiện đại nên sản phẩm sản xuất ra đạt chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, đứng vững trong cạnh tranh. Sản phẩm của công ty đã được cấp chứng nhận tiêu chuẩn chất lượng ISO 9002 và tiêu và tiêu chuẩn “Hàng Việt Nam chất lượng cao”, đây một lợi thế để Công ty có thể mở rộng hơn nữa thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước. 2.1.2.5.Đặc điểm về tiêu thụ sản phẩm của Công ty: Việc sản xuất sản phẩm chủ yếu dựa vào các hợp đồng với khách hàng, tình hình tiêu thụ của Công ty năm báo cáo và kết quả của công tác nghiên cứu năm kế hoạch. Việc tiêu thụ sản phẩm của công ty do phòng thị trường đảm nhận. Công ty có chi nhánh ở cả 3 miền: Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và rất nhiều đại lý bán hàng, cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở các tỉnh, thành phố trong cả nước. Việc thanh toán, biên bản thanh toán, hoá đơn bán hàng,giữa Công ty với khách hàng do phòng thị trường đảm nhiệm theo từng tháng. Cuối cùng, tất cả các chứng từ, biên bản sẽ được chuyển sang phòng tài chính - kế toán. Kế toán tiêu thụ và kế toán thanh toán sẽ tập hợp các chứng từ, biên bản đó và theo dõi việc thanh toán giữa khách hàng với Công ty. Công ty áp dụng hai hình thức tiêu thụ chủ yếu là: bán đại lý và bán trực tiếp cho khách hàng (trả ngay hoặc trả chậm), nhưng hình thức đại lý chiếm phần lớn.Việc tiêu thụ sản phẩm của Công ty trước đây là ở cả thị trường trong nước và ngoài nước. Tuy nhiên, mấy năm gần đây, Công ty đã ngừng xuất khẩu, mặc dù trong kế hoạch sản xuất vẫn dành một phần sản lượng cho xuất khẩu. Vì vậy, Công ty cần có một chiến lược đúng đắn để vừa mở rộng được thị trường trong nước, vừa vươn ra nước ngoài nhằm thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm và tăng doanh thu tiêu thụ sản phẩm. 2.2.Công tác lập kế hoạch tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ ở Công ty Giấy Bãi Bằng: 2.2.1.Công tác lập kế hoạch tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ: Để chuẩn bị cho sản xuất kinh doanh hàng năm, mỗi doanh nghiệp phải lập cho mình rất nhiều kế hoạch, như: kế hoạch vật tư, kế hoạch lao động tiền lương, kế hoạch đầu tư và xây dựng cơ bản, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm,Tất cả tập hợp thành kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài chính của doanh nghiệp. Trong bài viết về công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty thì vấn đề được đưa ra xem xét và nghiên cứu là công tác lập kế hoạch tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ của sản phẩm. Kế hoạch tiêu thụ sản phẩm là việc dự đoán trước số lượng sản phẩm sẽ được tiêu thụ trong kỳ kế hoạch, đơn giá bán sản phẩm kỳ kế hoạch, doanh thu tiêu thụ sản phẩm sẽ đạt được trong kỳ kế hoạch, để từ đó công ty có thể chủ động tổ chức sản xuất và tiêu thụ sản phẩm sao cho đạt hiệu quả cao. Thông qua kế hoạch đã lập, công ty có thể tổ chức sản xuất kinh doanh nói chung và tổ chức tiêu thụ sản phẩm nói riêng đi đúng hướng đã định. Nếu công tác lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm không khoa học, không chính xác thì quá trình tiêu thụ sẽ bị động. Tiêu thụ không phù hợp với sản xuất sẽ làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh, đồng thời cũng ảnh hưởng tới một loạt kế hoạch khác. Như vậy, công tác lập kế hoạch tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm là cần thiết cho công ty trước khi bước vào một kỳ sản xuất kinh doanh, nó tạo ra tính chủ động trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Kế hoạch tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm thể hiện khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường về sản phẩm của công ty. * Phương pháp lập kế hoạch: Dựa vào đặc điểm tiêu thụ sản phẩm của mình, công ty đã lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cho cả năm. Ngoài ra, hàng quý, hàng tháng, công ty cũng lập kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo từng quý, từng tháng. * Căn cứ lập kế hoạch: Việc lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm được căn cứ vào các đơn đặt hàng, các hợp đồng kinh tế đã được ký kết giữa công ty với khách hàng trước thời điểm lập kế hoạch, căn cứ vào khả năng sản xuất sản phẩm trong năm, tình hình tiêu thụ sản phẩm thực tế của năm trước và kết quả dự đoán nhu cầu thị trường trong năm kế hoạch. * Thời điểm lập kế hoạch: Công ty lập kế hoạch tiêu thụ sản phẩm cho năm sau thường vào giữa quý IV của năm báo cáo. Đây cũng là thời điểm công ty lập các kế hoạch sản xuất, kỹ thuật, tài chính. Trên thực tế công ty sản xuất nhiều chủng loại giấy khác nhau, nhưng trong bài viết này chỉ tập trung vào nghiên cứu và phân tích kế hoạch và tình hình tiêu thụ sản phẩm giấy có tỷ trọng lớn ở công ty trong năm vừa qua. 2.2.2. Kế hoạch sản xuất, tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm của công ty năm 2001. Trong năm 2001, kế hoạch sản xuất giấy của công ty được lập như sau: Biểu số 1: Kế hoạch sản xuất giấy năm 2001. Tên sản phẩm Thực hiện năm 2000 Năm 2001 Kế hoạch giao Phấn đấu 1. Giấy cuộn 55.520 55.800 59.800 2. Giấy ram 7.275 6.080 6.080 3. Giấy tập + vở 2.701 4.094 4.094 4. Bìa xanh 28 26 26 Cộng 65.524 66.000 70.000 Kế hoạch sản xuất giấy của Công ty được lập dựa trên cơ sở tình hình sản xuất năm trước, năng lực sản xuất trong năm, năng lực máy móc thiết bị, lao động, khả năng cung cấp vật tư và khả năng tiêu thụ sản phẩm. Từ kế hoạch sản xuất sản phẩm của năm, Công ty đã thành lập kế hoạch tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ chi tiết cho từng mặt hàng nhằm đạt tới sự trùng khớp giữa sản xuất và tiêu thụ. Số liệu được thể hiện như sau: Biểu số 2: Kế hoạch tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ năm 2001 STT Tên sản phẩm Sản lượng tiêu thụ (kg) Giá bán (đồng/kg) Doanh thu (đồng) 1 Giấy cuộn 55.800.000 10.435 582.273.000.000 2 Giấy ram 6.080.000 11.365 69.099.200.000 3 Giấy tập + vở 4.094.000 11.634 47.627.596.000 4 Bìa xanh 26.000 4.530 117.780.000 Cộng 66.000.000 699.119.576.000 2.3. Thực tế tình hình tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm của Công ty Giấy Bãi Bằng: 2.3.1. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty: 2.3.1.1. Thuận lợi: - Thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty không ngừng được mở rộng, chất lượng sản phẩm không ngừng nâng cao, hệ thống quản lý chất lượng của Công ty được cấp chứng chỉ ISO 9002, từ đó tạo lòng tin cho khách hàng, đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống cho cán bộ công nhân viên. - Công ty có hệ thống máy móc thiết bị tiên tiến, hiện đại, sản xuất ra nhiều sản phẩm có chất lượng cao phù hợp nhu cầu thị trường. - Công ty có đội ngũ cán bộ quản lý lãnh đạo và tập thể công nhân viên đầy nhiệt tình, giàu kinh nghiệm đã được tôi luyện, thử thách qua nhiều năm khó khăn trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế, sẵn sàng đồng cam cộng khổ cùng Công ty, tìm ra hướng giải quyết, khắc phục mọi khó khăn để thực hiện các mục tiêu đã đề ra. - Ngay từ khi mới thành lập, mạng lưới giao thông và hệ thống cơ sở hạ tầng của Công ty đã được các nhà thiết kế quan tâm. Do đó, việc vận chuyển nguyên vật liệu, hàng hoá diễn ra dễ dàng, thuận lợi, tạo điều kiện cho việc đẩy mạnh sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. - Công ty có một mạng lưới các chi nhánh, các đại lý bán buôn, bán lẻ ở khắp các tỉnh, thành trong cả nước tạo điều kiện cho khách hàng có thể tìm hiểu sản phẩm từ đó kích thích nhu cầu tiêu thụ sản phẩm của Công ty. 2.3.1.2. Khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi đã nêu ở trên, công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty còn gặp một số khó khăn sau: - Chất lượng sản phẩm của Công ty đứng đầu so với sản phẩm trong nước nhưng nếu đem so với sản phẩm của nước ngoài thì vẫn còn kém về độ trắng và độ bóng của bề mặt tờ giấy. - Về giá bán, giá bán sản phẩm giấy của Công ty còn ở mức cao, do Công ty phải chịu sự quản lý chung về giá qua khung giá mà Tổng công ty đưa ra, hơn nữa, việc thu mua nguyên liệu đầu vào phải thông qua công ty nguyên liệu giấy cung ứng, việc mua bột nhập ngoại cũng phải thông qua công ty xuất nhập khẩu trực thuộc Tổng công ty. - Hiện nay sản phẩm của Công ty còn đang được bao giá bởi chính sách bảo hộ của Nhà nước. Nhà nước bảo hộ cho các doanh nghiệp sản xuất giấy trong nước bằng cách hạn chế hàng ngoại nhập, đánh thuế cao đối với sản phẩm giấy của các doanh nghiệp nước ngoài. Do vậy, sản phẩm giấy của nước ngoài có chất lượng tốt nhưng có giá cao, nên việc tiêu thụ bị hạn chế. Hơn nữa, so với mức chuẩn của thế giới thì giá sản phẩm giấy của Công ty hiện nay còn ở mức cao. Vì vậy, trong tương lai, khi nước ta xoá bỏ hàng rào thuế quan với các nước trong khu vực, Công ty cần phải có biện pháp để sản xuất ra những sản phẩm có chất lượng cao, phấn đấu hạ giá thành, hạ giá bán thì mới có thể cạnh tranh được với các sản phẩm của nước bạn, từ đó đẩy mạnh tiêu thụ, đứng vững trên thị trường. 2.3.2. Tình hình tiêu thụ và doanh thu tiêu thụ sản phẩm của Công ty Giấy Bãi Bằng năm 2001: +Phương thức bán hàng của Công ty: Để hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm của Công ty cũng như đáp ứng được tối đa nhu cầu tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, Công ty đã tiến hành không ngừng mở rộng, đa dạng hoá và hoàn thiện các phương thức bán hàng. Công ty áp dụng hai phương thức bán hàng chủ yếu: bán đại lý và bán trực tiếp cho khách hàng. Trong đó phương thức bán hàng đại lý chiếm phần lớn. Hiện nay, Công ty có mạng lưới đại lý rộng khắp trên cả nước (khoảng 100 đại lý), sản lượng tiêu thụ theo phương thức này chiếm 85-90% tổng sản lượng tiêu thụ. Các đại lý thực hiện bán hàng cho Công ty theo giá do Công ty quy định. Khi bán được hàng thì trả tiền cho Công ty và Công ty sẽ trích tiền hoa hồng trả cho đại lý theo tỷ lệ 0,8% trên giá bán sản phẩm tại kho của Công ty không kể thuế GTGT. Với một mạng lưới các chi nhánh, đại lý và cửa hàng giới thiệu sản phẩm Công ty có thể quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của mình nhằm đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Hơn nữa, qua đó, Công ty còn có thể nắm bắt được nhu cầu thị trường một cách nhanh chóng, chính xác, từ đó định hướng kinh doanh có hiệu quả hơn. Đối với phương thức bán hàng trực tiếp, việc tiêu thụ được thực hiện thông qua các hợp đồng kinh tế đã được thoả thuận giữa hai bên. Khách hàng có thể nhận hàng tại kho của Công ty hoặc Công ty giao hàng tới tận nơi cho khách hàng. Khách hàng có thể thanh toán tiền hàng bằng séc chuyển khoản, tiền mặt hoặc ngân phiếu thanh toán. Nếu khách hàng áp dụng hình thức chậm trả theo số ngày quy định mà quá thời hạn đó thì phải chịu phạt chậm thanh toán theo lãi suất quá hạn của Ngân hàng Nhà nước quy định. Như vậy, với các phương thức bán hàng linh hoạt đã giúp Công ty phát huy được thế mạnh trong vấn đề giữ được khách hàng hàng truyền thống và không ngừng tìm kiếm bạn hàng mới. Đồng thời, cũng nhờ các phương thức bán hàng đó đã tạo điều kiện cho khách hàng tham quan và tiêu thụ sản phẩm của Công ty. *Các biện pháp tài chính - kinh tế đã được Công ty áp dụng nhằm đẩy mạnh khả năng tiêu thụ sản phẩm trong năm 2001: Cùng với việc luôn nâng cao chất lượng sản phẩm, để có thể đẩy mạnh được quá trình tiêu thụ sản phẩm, Công ty đã áp dụng các biện pháp chủ yếu sau: + Giá cả hàng hoá: Theo quy định của Nhà nước Việt Nam, giấy vở là sản phẩm chịu sự điều tiết giá của Nhà nước. Các doanh nghiệp sản phẩm giấy khi xác định giá bán đều phải dựa vào khung giá giấy chuẩn do Tổng công ty Giấy Việt Nam đưa ra. Do đó hiện nay Công ty áp dụng chính sách một giá theo quy định và chính sách này ổn định trong nhiều năm. Tuy nhiên, Công ty cũng có chính sách ưu đãi về giá bán: - Đối với Nhà xuất bản Giáo dục, mua giấy để in sách giáo khoa, Công ty đã bán giảm 200.000 đồng/tấn. - Đối với các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty giấy Việt Nam gia công sản phẩm giấy, Công ty có chính sách giảm giá để khuyến khích sản xuất. - Đối với khách hàng truyền thống, khách hàng mua với số lượng lớn, Công ty có ưu tiên giảm giá hoặc cho phép thanh toán chậm trả dưới 45 ngày. +Trả hoa hồng cho đại lý: Công ty đã áp dụng đòn bẩy kinh tế này để kích thích các đại lý đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm. Vì được hưởng hoa hồng theo tỷ lệ % của doanh thu nên các đại lý bán được càng nhiều sản phẩm thì số hoa hồng được hưởng càng cao. Do vậy đã thúc đẩy các đại lý áp dụng phương pháp bàn hàng riêng của mình sao cho sản phẩm bán được nhiều nhất. Trong năm vừa qua, Công ty đã nhân rộng mạng lưới các đại lý của mình, nhờ đó thị trường tiêu thụ giấy được mở rộng. Mặt khác còn giúp cho Công ty tiết kiệm được khoản chi phí tiêu thụ rất đáng kể. Biện pháp này có tính khả thi cao và có lợi cho cả hai bên. + Đa dạng hoá các hình thức thanh toán. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng và phù hợp xu hướng kinh doanh hiện nay, Công ty đã vận dụng rất nhiều hình thức khác nhau như: thanh toán bằng tiền mặt, séc, chuyển khoản, ngân phiếu Thời hạn thanh toán tuỳ thuộc vào từng đối tượng cụ thể mà Công ty yêu cầu khách hàng trả tiền ngay hoặc trả chậm. + Quảng cáo, giới thiệu sản phẩm: Việc giới thiệu sản phẩm không chỉ được giới thiệu tại các đại lý, cửa hàng giới thiệu sản phẩm của Công ty mà còn được tiến hành thông qua việc quảng cáo trên các báo, tạp chí phổ thông và chuyên ngành. Công ty còn tham dự các hội chợ triển lãm hàng công nghiệp, hàng Việt Nam chất lượng cao Từ các hình thức quảng cáo đó, Công ty không những đưa được thông tin về sản phẩm, về hình ảnh của mình đến với khách hàng mà còn tiếp nhận thông tin từ phía khách hàng giúp cho Công ty thực hiện tốt công tác sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, góp phần nâng cao doanh thu và lợi nhuận của Công ty. Tóm lại: các biện pháp tài chính - kinh tế mà Công ty áp dụng trong thời gian qua đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế như: - Về chính sách giá cả: Do Công ty phải định giá bàn sản phẩm giấy theo khung giá quy định của Tổng công ty Giấy Việt Nam nên không thể áp dụng được chính sách giá cả linh hoạt. Do đó, Công ty không thể sử dụng chính sách giá làm công cụ cạnh tranh được, trong khi đó ở Việt Nam ta do mức thu nhập của người dân còn thấp nên một chính sách giá hấp dẫn vẫn có một vị trí quan trọng trong việc thu hút các khách hàng. - Biện pháp chiết khấu bán hàng cũng là một công cụ tài chính để đẩy mạnh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, nhanh thu được tiền bán hàng, hạn chế nợ nần dây dưa Tuy nhiên, hiện nay, Công ty còn chưa áp dụng. Do vậy, cần xem xét và áp dụng nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác tiêu thụ sản phẩm góp phần tăng doanh thu tiêu thụ và lợi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3380.doc
Tài liệu liên quan