MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 1
Chương I: Gian lân và sai sót trong kiểm toán báo cáo tài chính 3
I. Chức năng của kiểm toán : 3
1. Chức năng xác minh: 3
2. Chức năng bày tỏ ý kiến: 4
II. Vai trò, tác dụng của kiểm toán: 4
III. Các khái niệm về gian lận và sai sót : 6
1. Gian lận : 6
1.1. Khái niệm: 6
1.2. Các trường hợp làm tăng số lượng các hành vi gian lận: 8
2. Sai sót : 13
2.1. Khái niệm: 13
2.2. Nguyên nhân của những sai sót: 13
2.3. Phương pháp phát hiện các sai sót: 14
3. Sự khác nhau giữa gian lận và sai sót: 15
IV. Trọng yếu và rủi ro : 15
1. Tính trọng yếu : 15
1.1. Quy mô của trọng yếu: 16
1.2. Tính chất của trọng yếu: 17
2. Rủi ro : 17
V. Những ảnh hưởng của các yếu tố trên trong cuộc kiểm toán BCTC: 18
1. Những ảnh hưởng: 18
2. Những tình huống, sự kiện làm tăng rủi ro do gian lận hoặc sai sót : 19
Chương II: Trách nhiệm của kiểm toán viên với gian lận và sai sót 21
I. Trách nhiệm của kiểm toán viên với các sai phạm ở đơn vị : 21
1. Trách nhiệm của nhà quản lý đơn vị với các sai phạm: 21
2. Trách nhiệm của kiểm toán viên với gian lận và sai sót của đơn vị: 21
2.1. Theo yêu cầu của đạo đức nghề nghiệp: 22
2.2. Theo các chuẩn mực kiểm toán : 23
2.3. Trách nhiệm của kiểm toán viên trong các thủ tục kiểm toán cụ thể: 24
3. Trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên trong kiểm toán BCTC: 25
3.1. Trách nhiệm dân sự: 25
3.2. Trách nhiệm hình sự : 27
4. Biện pháp nâng cao khả năng phát hiện các gian lận và sai sót: 29
4.1. Giai đoạn lập kế hoạch và thiết kế chương trình kiểm toán: 30
4.2. Thực hiện kiểm toán: 31
4.3. Kết thúc kiểm toán : 32
5. Thực trạng hoạt động của kiểm toán độc lập ở Việt Nam: 32
Kết luận 34
37 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2252 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu chung về gian lận và sai sót trong kiểm toán báo cáo tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc trong một phạm vi nhất định. Quá trình uỷ quyền được mở rộng xuống các cấp thấp hơn tạo nên một hệ thống phân chia trách nhiệm và quyền hạn mà vẫn không làm mất tính tập trung của doanh nghiệp. Tuy nhiên sự phê chuẩn chung được thực hiện thông qua việc xây dựng các chính sách chung về những mặt hoạt động cụ thể cho các cán bộ cấp dưới tuân thủ, tránh những hành vi gian lận xảy ra.
Kiểm toán nội bộ :Là một bộ phận độc lập được thiết lập trong đơn vị tiến hành công việc kiểm tra và đánh giá các hoạt động phục vụ yêu cầu quản trị nội bộ đơn vị.
Nếu hệ thống kiểm toán nội bộ lại có những thành viên trong ban điều hành thì như thế sẽ tạo ra rất nhiều gian lận và sai sót mà không thể nào tránh được .
b. Nhóm các yếu tố về kinh doanh :
Nếu trong kinh doanh gặp quá nhiều khó khăn cũng có thể dẫn đến những hành vi gian lận. Như :
Gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm. Khi gặp những khó khăn loại này, các thành viên trong doanh nghiệp sẽ tìm cách ghi tăng khối lượng hàng bán được để có lương cao trong khi thực tế là việc tiêu thụ cực kỳ khó khăn.
Ngành nghề kinh doanh đang bị lụi tàn.
Đầu tư quá nhanh vào sản phẩm mới làm mất cân đối trong tài chính trong đơn vị .
Ta có thể thấy khi gặp khó khăn trong kinh doanh, nhiều khi để vay được vốn, nhà quản lý phải tạo ra các con số khống để người sử dụng báo cáo tài chính nghĩ rằng công ty đang làm ăn rất phát đạt, từ đó họ có thể thu hút vốn đầu tư. Và đối với kiểm toán viên cần phải hết sức cảnh giác với những thủ đoạn này của các doanh nghiệp để tránh mắc phải sai lầm kiểm toán và rủi ro kiểm toán không mong muốn.
2. Sai sót :
2.1. Khái niệm:
Theo chuẩn mực kiểm toán Việt Nam VSA 240 : Sai sót là những lỗi không cố ý có ảnh hưởng đến báo cáo tài chính.
2.2. Nguyên nhân của những sai sót:
Lỗi về tính toán số học hoặc ghi chép sai. Kế toán không thể đảm bảo rằng trong mọi trường hợp đều có thể thực hiện tất cả các phép tính một cách chính xác đến từng đồng một, đó là điều không thể có. Do vậy trên báo cáo tài chính luôn luôn tồn tại sai sót. Có thể là do cộng dồn, chuyển sổ, cộng sang trang, tính toán trong các trương hợp phân bổ chi phí sai. Trong trường hợp này cần phải chú trọng hơn trong việc thận trọng với các phép tính số học, tính thận trọng đúng mức. Các sai sót này thường xảy ra với những công ty có nhiều nghiệp vụ kinh tế phát sinh, song lại tổ chức hệ thống kế toán không hợp lý, không có đủ đội ngũ nhân viên kế toán, dẫn đến áp lực công việc nhiều, làm giảm đi tính chính xác của thông tin kế toán cung cấp.
Bỏ sót hoặc hiểu sai, làm sai các khoản mục, các nghiệp vụ kinh tế. Sự sai sót này có ảnh hưởng rất lớn đến bảng khai tài chính, vì nó đã phản ánh không trung thực tất cả các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, hơn thế nữa nó còn làm cho doanh thu hoặc lợi nhuận của công ty bị thay đổi, tuy không nhiều nhưng khi tích tụ lại sẽ làm cho tổng cộng các sai sót là rất lớn.
Ngoài ra khi phản ánh các nghiệp vụ trên sổ, có nhiều kế toán viên do cẩu thả mà phản ánh không hết các nghiệp vụ vào sổ, hoặc khi đã phản ánh rồi song do không ngăn nắp trong sắp xếp tài liệu hồ sơ mà lại vào sổ lần nữa làm cho tổng cộng số tiền phát sinh tăng lên một cách đáng ngờ hoặc giảm đi.
Áp dụng sai các chuẩn mực, nguyên tắc, phương pháp và chế độ kế toán, chính sách tài chính nhưng không cố ý. Tuy không cố ý nhưng sai sót này cũng có ảnh hưởng đến báo cáo tài chính như sự sai sót có phản ánh ở trên. Chẳng hạn áp dụng sai phương pháp tính thuế thôi cũng sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ doanh thu của doanh nghiệp. Hoặc lấy một ví dụ khác là trong công ty có vay vốn ngân hàng dài hạn, đáng lẽ chi phí lãi vay phải tính vào chi phí tài chính nhưng kế toán lại hạch toán vào chi phí sản xuất , từ đó làm tăng giá vốn hàng bán, ngoài ra còn làm tăng tổng chi phí sản xuất, làm giảm doanh thu của doanh nghiệp. Hoặc theo chuẩn mực kế toán mới ban hành thì chi phí đi vay phát sinh trong thời kỳ xây dựng cơ bản dở dang thì được vốn hoá, nhưng nếu kế toán không biết chuẩn mực này có thể phản ánh vào trong chi phí phải trả, làm giảm doanh thu của doanh nghiệp mà đãng lẽ ra chi phí đó đã trở thành tài sản của doanh nghiệp.
Hoặc một ví dụ khác về việc áp dụng sai các chuẩn mực là kế toán thực hiện bù trừ giữa các khoản mà khách hàng ứng trước tiền hàng với các khoản phải thu khách hàng của cùng một khách hàng. Kết quả là phản ánh quyền và nghĩa vụ của công ty không còn trung thực nữa.
Ngoài ra kế toán viên còn có thể mắc sai sót trong việc tình giá. Như khi hàng hoá, sản phẩm của công ty đã bị hỏng hóc hoặc mất hết giá trị nhưng kế toán vẫn phản ánh trên sổ sách của công ty, như thế là kế toán đã phạm một sai sót, phạm vào nguyên tắc tính đúng giá của hàng hoá.
Mặt khác nhiều nơi, kế toán còn không phân loại và trình bầy đúng đắn bảng khai tài chính .
Còn rất nhiều những lỗi khác mà ta có thể liệt kê ra đây, song tập trung lại là do trình độ thấp kém của kế toán viên, không thực hiện đúng quy trình kế toán, không nắm vững những chuẩn mực kế toán hiện hành ….
2.3. Phương pháp phát hiện các sai sót:
Để có thể phát hiện những sai sót, ta có thể sử dụng các thể thức phân tích. Theo SAS (AU 318) các thể thức phân tích như là quá trình đánh giá các thông tin tài chính được thực hiện qua một cuộc nghiên cứu các mối quan hệ đáng tin cậy giữa các dữ kiện có tính tài chính và không có tính tài chính, gồm cả những quá trình so sánh các số tiền ghi sổ với những số ước tính của kiểm toán viên.
Thông qua thể thức phân tích, có thể nhận thấy dấu hiệu của sự hiện diện các sai số khả dĩ trên các báo cáo tài chính. Đó chính là những chênh lệch đáng kể ngoài dự kiến giữa số liệu tài chính chưa được kiểm toán ở năm hiện hành với số liệu khác dược dùng so sánh thường được xem như những dao động bất thường. Những dao động bất thường xảy ra khi những chênh lệch đáng kể không đuợc dự kiến nhưng lại tồn tại, hoặc khi những chênh lệch đáng kể có được dự kiến nhưng lại không xảy ra. Trong cả hai trường hợp, một trong những lý do khả dĩ đối với một dao động bất thường là sự hiện diện của một sai số về kế toán hoặc sai quy tắc. Như vậy, nếu dao động bất thường lớn, kiểm toán viên phải xác định lý do của nó và phải tự thoả mãn là : nguyên nhân là một sự kiện kinh tế hợp lý và đó không phải là một sai số hoặc sai quy tắc.Để có thể hiểu thêm về phương thức phát hiện ra các sai sót này, ta có thể tìm hiểu trong một phần sau của đề án này.
3. Sự khác nhau giữa gian lận và sai sót:
Qua sự phân tích ở trên ta thấy gian lận và sai sót là hai yếu tố ảnh hưởng đến sự chính xác, trung thực của báo cáo tài chính, nhưng mỗi một sai phạm lại ảnh hưởng ở một mức độ khác nhau.
Sai sót là hành vi không cố ý và kiểm toán viên có thể phát hiện được bằng các thủ tục, phương pháp kiểm toán thích hợp. Còn gian lận là những lỗi cố ý làm sai lệch báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Những hành vi gian lận này khó phát hiện vì nó đã được chuẩn bị trước, có tính toán từ trước nhằm ngăn chặn sự phát hiện của các cấp có thẩm quyền và của kiểm toán viên, gây nhiều khó khăn trong quá trình thực hiện cuộc kiểm toán.
Thứ hai về mức độ nghiêm trọng : Gian lận luôn luôn là hành vi nghiêm trọng, còn sai sót không là một hành vi nghiêm trọng nhưng nếu xảy ra thường xuyên thì sẽ là một hành vi nghiêm trọng. Vì ta có thể thấy ở trên rằng nếu như kiểm toán viên phát hiện ra các sai phạm , chỉ là các sai số thôi song lại có rất nhiều các sai phạm xảy ra liên tục, và cộng dồn các sai phạm này lại thì thấy báo cáo tài chính bị sai sót lớn và đó được coi là hành vi nghiêm trọng. Thứ ba là về mức độ tinh vi thì gian lận do là hành vi có chủ ý, có kế hoạch cụ thể nên rất rất khó phát hiện ra, còn sai sót do không có chủ tâm nên thường dễ phát hiện hơn.
IV. Trọng yếu và rủi ro :
Do gian lận và sai sót là hai yếu tố mà kiểm toán viên phải hướng vào trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên luôn luôn phải nghi ngờ. Và điều hiển nhiên như đã nói ở trên là không thể chắc chắn một điều rằng không còn những sai sót, gian lận mà chưa được phát hiện hết. Do vậy, phải xác định tầm quan trọng, sự ảnh hưởng của những gian lận và sai sót này đến báo cáo tài chính. Từ đó có thể xác định mức độ rủi ro mà kiểm toán viên có thể mắc phải trong thực hiện kiểm toán tài chính. Do vậy, kiểm toán viên cần phải hiểu thế nào là tính trọng yếu của các sai phạm.
1. Tính trọng yếu :
Theo VSA 240, trọng yếu là thuật ngữ dùng để thể hiện tầm quan trọng của một thông tin hoặc một số liệu trong báo cáo tài chính. Thông tin được coi là trọng yếu có nghĩa là nếu thiếu thông tin đó hay thông tin đó thiếu chính xác thì sẽ ảnh hưởng đến các quyết định của người sử dụng báo cáo tài chính. Mức độ trọng yếu tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của thông tin hay của sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Tính trọng yếu của thông tin phải được xem xét cả trên tiêu chuẩn định lượng và định tính.
1.1. Quy mô của trọng yếu:
Về quy mô của mức độ trọng yếu, ta thấy một quy mô cụ thể vãn chưa được đưa ra, và vẫn chưa có một chỉ dẫn ban hành để định hướng rõ cụ thể về mặt lượng đối với tính trọng yếu. Tuy nhiên trong kiểm toán khó ấn định được con số cụ thể về tầm cỡ cho những điểm cốt yếu của nội dung kiểm toán, đặc biệt khi có yếu tố tiềm ẩn. Vì vậy, ranh giới của quy mô khác nhau của đối tượng kiểm toán được xét trong quan hệ với mức độ ảnh hưởng của các khoản mục, các nghiệp vụ đến kết luận kiểm toán, từ đó ảnh hưởng tới việc ra quyết định của người sử dụng thông tin đã được kiểm toán. Cũng có khi kiểm toán viên sử dụng con số tuyệt đối để đánh giá tính trọng yếu. Một con số tuyệt đối là số thể hiện mức độ quan trọng mà không cần cân nhắc thêm bất cứ một yếu tố nào khác. Chẳng hạn, một vài kiểm toán viên cho rằng “một triệu USD hoặc một con số lớn thì luôn là con số quan trọng yếu, không cần quan tâm tới các vấn đề nào khác ”. Song rất ít kiểm toán viên chỉ sử dụng con số tuyệt đối như một tiêu chuẩn để đánh gia tính trọng yếu vì với một con số cụ thể, giả sử 60.000 USD, có thể là trọng yếu đối với công ty này nhưng lại là quá nhỏ với một công ty khác.
Thông thường, kiểm toán viên khi xem xét vấn đề về quy mô của đối tượng kiểm toán thì họ quan tâm tới quy mô tương đối. Quy mô tương đối là mối quan hệ tương quan giữa đối tượng cần đánh giá với một số gốc. Số gốc thường khác nhau với trong mỗi tình huống. Chẳng hạn, với báo cáo kết quả kinh doanh, số gốc có thể là thu nhập ròng hoặc bình quân thu nhập của mấy năm gần đây. (Phần đông kiểm toán viên đồng ý rằng nếu tổng hợp các sai phạm lại mà có tỷ lệ nhỏ hơn 5% so với giá trị thu nhập ròng thì được xem là không trọng yếu nhưng nếu lớn hơn 10% thì chắc chắn trọng yếu ); với bảng cân đối kế toán, số gốc có thể là tài sản lưu động hoặc tổng tài sản ; còn với bảng lưu chuyển tiền tệ, số gốc có thể là doanh thu thuần,…
Ngoài ra khi xem xét về quy mô của tính trọng yếu, kiểm toán viên cần phải chú ý không chỉ quy mô tương đối hay quy mô tuyệt đối mà còn phải cân nhắc sử dụng cả ảnh hưởng luỹ kế của đối tượng xem xét. Chẳng hạn, có nhiều sai phạm khi xem xét chúng một cách cô lập thì chúng không đủ trọng yếu do quy mô nhỏ. Song nếu kiểm toán viên cộng dồn tất cả những sai phạm sẽ phát hiện thấy sự liên quan và tính hệ thống của sai phạmvà khi đó phát hiện ra tính trọng yếu của chúng.
1.2. Tính chất của trọng yếu:
Về tính chất: khái niệm trọng yếu gắn với tính hệ trọng của vấn đề xem xét. Một yếu tố định tính quan trọng cần xem xét đó là bản chất của khoản mục hoặc vấn đề đang được đánh giá.
Còn theo FASB 2, thì trọng yếu được định nghĩa : “Mức độ lớn của điều bị bỏ sót hay sai phạm của thông tin kế toán do các tình huống xung quanh, có khả năng làm cho sự phán xét của một người hiểu biết dựa trên thông tin đó có thể bị thay đổi hoặc bị ảnh hưởng bởi điều bị bỏ sót sai phạm đó ”.
Theo quan niệm này ta thấy rõ khó khăn mà các kiểm toán viên gặp phải khi vận dụng tính trọng yếu trong thực tế. Khái niệm nhấn mạnh những người sử dụng hiểu biết dựa trên các báo cáo để ra quyết định. Do đó, kiểm toán viên phải có hiểu biết về khả năng của những người sử dụng báo cáo tài chính của khách hàng và các quyết định họ sẽ lập được. Ví dụ nếu một kiểm toán viên biết là một hợp đồng mua bán của toàn doanh nghiệp sẽ dựa vào các báo cáo tài chính, số lượng mà kiểm toán viên cho là trọng yếu có thể nhỏ hơn đối với một cuộc kiểm toán tương tự ở nơi khác. Trên thực tế, các kiểm toán viên thường không biết ai là người sử dụng và những quyết định nào sẽ được thực hiện.
2. Rủi ro :
Có bốn khái niệm về rủi ro, đó là rủi ro kiểm toán, rủi ro tiềm tàng, rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm soát .
Rủi ro kiểm toán : Là rủi ro do kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra ý kiến nhận xét không thích hợp khi báo cáo tài chính đã được kiểm toán còn có những sai sót trọng yếu. Rủi ro kiểm toán bao gồm ba bộ phận : Rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và rủi ro phát hiện.
Rủi ro tiềm tàng: là rủi ro tiềm ẩn, vốn có do khả năng từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính chứa đựng sai sót trọng yếu khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp, mặc dù có hay không có hệ thống kiểm soát nội bộ.
Rủi ro phát hiện: là rủi ro xảy ra sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên và công ty kiểm toán không phát hiện được.
Rủi ro kiểm soát: là rủi ro xảy ra do sai sót trọng yếu trong từng nghiệp vụ, từng khoản mục trong báo cáo tài chính khi tính riêng rẽ hoặc tính gộp mà hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ không ngăn ngừa hết hoặc không phát hiện và sửa chữa kịp thời.
V. Những ảnh hưởng của các yếu tố trên trong cuộc kiểm toán BCTC:
1. Những ảnh hưởng:
Khi nhận được thư mời kiểm toán của công ty khách hàng, việc làm đầu tiên là ký kết hợp đồng kiểm toán. Song trước khi ký kết hợp đồng, kiểm toán viên cần hiểu rõ về khách hàng của mình. Đây chính là giai đoạn đầu tiên trong cuộc kiểm toán.
Trước hết, kiểm toán viên cần thu thập những thông tin ban đầu về khách hàng. Đối với khách hàng cũ cần phân tích những lý do nào để không tiếp tục kiểm toán nữa không, những mâu thuẫn trước đây về những điều như phạm vi thích hợp của cuộc kiểm toán, loại bằng chứng kiểm toán phải công bố hoặc tiền thù lao có thể khiến phải đình chỉ cuộc kiểm toán. Kiểm toán viên cũng có thể xác định khách hàng có thiếu tính liêm chính cơ bản hay không …để từ đó không chấp nhận họ là khách hàng nữa.
Còn với khách hàng mới chưa được kiểm toán lần nào, kiểm toán viên cần phải khai thác, phân tích những thông tin từ luật sư địa phương, các công ty kiểm toán khác, ngân hàng và doanh nghiệp khác, hoặc có thể thuê mướn một nhà điều tra chuyên nghiệp để thu thập thông tin về danh tiếng, trình độ cơ bản của những thành viên trong Ban quản trị …Tất cả những điều trên chỉ nhằm thu thập những thông tin ban đầu về khách hàng, để có thể lập một kế hoạch kiểm toán thích hợp nhất với mỗi một khách hàng. Khi lập kế hoạch kiểm toán, kiểm toán viên đã phải xác định trước những rủi ro có thể gặp phải để có thể thực hiện những thủ tục nhất định trong giai đoạn thực hiện kiểm toán .
Khi kiểm toán viên cho rằng có khả năng rủi ro kiểm toán cao, và tuỳ thuộc loại rủi ro nào mà kiểm toán viên sẽ phải thu thập bằng chứng kiểm toán để xác minh điều mình nghi vấn.
Chẳng hạn, kiểm toán viên cho rằng, rủi ro kiểm soát cao tức hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động không có hiệu quả, hiệu năng thì kiểm toán sẽ phải thực hiện nhiều thủ tục kiểm soát để xác minh mức độ tin cậy của hệ thống kiểm soát nội bộ, nếu các thủ tục kiểm toán cho thấy là hệ thống kiểm soát nội bộ hoạt động có hiệu quả, thì có thể giảm các trắc nghiệm cơ bản hoặc các trắc nghiệm trực tiếp số dư, sẽ giảm được chi phí không cần thiết, còn nếu rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát được đánh giá là cao thì kiểm toán viên sẽ phải thực hiện nhiều trắc nghiệm hơn mới thu được bằng chứng kiểm toán thích hợp, tin cậy làm cơ sở cho việc đưa ra những ý kiến của mình.
2. Những tình huống, sự kiện làm tăng rủi ro do gian lận hoặc sai sót :
Thứ nhất : Những vấn đề liên quan đến tính chính trực hoặc năng lực của Ban Giám đốc :
+ Công tác quản lý bị một người (hay một nhóm người )độc quyền nắm giữ, thiếu sự giám sát có hiệu lực của Ban giám đốc hoặc hội đồng quản trị.
+ Cơ cấu tổ chức của đơn vị được kiểm toán phức tạp một cách cố ý.
Sự bất lực trong việc sửa chữa những yếu kém của hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ trong khi những yêu kếm này hoàn toàn có thể khắc phục được ;
Thay đổi thường xuyên kế toán trưởng hoặc người có trách nhiệm của bộ phận kế toán và tài chính.
Thiếu nhiều nhân viên kế toán trong một thời gian dài ;
Bố trí người làm kế toán không đúng chuyên môn hoặc người bị pháp luật nghiêm cấm ;
Thay đổi thường xuyên chuyên gia tư vấn pháp luật hoặc kiểm toán viên thay đổi .
Thứ hai là các sức ép bất thường trong đơn vị hoặc từ bên ngoài vào đơn vị :
Ngành nghề kinh doanh gặp khó khăn và số đơn vị phá sản ngày càng tăng ;
Thiếu vốn kinh doanh do lỗ, hoặc do mở rộng quy mô doanh nghiệp quá nhanh ;
Mức thu nhập giảm sút ;
Doanh nghiệp cố ý hạch toán tăng lợi nhuận nhằm khuếch trương trong hoạt động;
Đầu tư quá nhanh vào ngành nghề mới hoặc loại sản phẩm mới làm mất cân đối tài chính ;
Doanh nghiệp bị lệ thuộc quá nhiều vào một số sản phẩm hoặc một số khách hàng ;
Sức ép về tài chính từ những nhà đầu tư hoặc các cấp quản lý đơn vị ;
Sức ép đối với nhân viên kế toán phải hoàn tất báo cáo tài chính trong thời gian quá ngắn ;
Thứ ba là các nghiệp vụ và sự kiện không bình thường :
Các nghiệp vụ đột xuất xảy ra vào cuối niên độ kế toán có tác động đến doanh thu, chi phí và kết quả;
Các nghiệp vụ hoặc phương pháp xử lý kế toán phức tạp ;
Các nghiệp vụ với các bên hữu quan ;
Các khoản chi phí quá cao so với những dịch vụ được cung cấp (Ví dụ : phí luật sư, tư vấn hoặc đại lý… )
Thứ tư là những khó khăn liên quan đến thu thập đầy đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp :
+ Tài liệu kế toán không đầy đủ hoặc không được cung cấp kịp thời (ví dụ: Không thu thập đủ chứng từ ; phát sinh chênh lệch lớn giữa sổ và báo cáo, những nghiệp vụ ghi chép sai hoặc để ngoài sổ kế toán …);
Lưu trữ tài liệu không đầy đủ về các sự kiện và nghiệp vụ kinh tế (ví dụ: chứng từ chưa dược phê duyệt, thiếu tài liệu hỗ trợ cho những nghiệp vụ lớn hoặc bất thường );
Có chênh lệch lớn giữa sổ kế toán của đơn vị với xác nhận của bên thứ ba ; mâu thuẫn giữa các bằng chứng kiểm toán không giải thích được sự thay đổi của các chỉ số hoạt động ;
Ban Giám đốc từ chối cung cấp giải trình hoặc giải trình không thoả mãn yêu cầu của kiểm toán viên .
Thứ năm là những nhân tố môi trường tin học liên quan đến các tình huống và sự kiện nêu trên :
Không lấy được thông tin từ máy vi tính ;
Có thay đổi trong chương trình vi tính nhưng không lưu lại tài liệu, không được phê duyệt và không được kiểm tra ;
Thông tin tài liệu in từ máy vi tính không phù hợp với báo cáo tài chính ;
Các thông tin in ra từ máy vi tính mỗi lần lại khác nhau .
(Theo phụ lục số 01 của chuẩn mực kiểm toán Việt Nam 240)
Như vậy, có rất nhiều lý do làm tăng những gian lận và sai sót trong báo cáo tài chính mà kiểm toán viên có thể dựa vào đó có thể phán đoán phần nào khả năng sai phạm mà báo cáo kiểm toán có thể có, từ đó kiểm toán viên có thể làm giảm rủi ro kiểm toán mà có thể dẫn đến những trách nhiệm pháp lý của kiểm toán viên nếu phạm phải sai lầm trong kiểm toán .
Chương II:
Trách nhiệm của kiểm toán viên
với gian lận và sai sót
Trong thực tế kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán viên phải thực hiện với tính độc lập, tinh thần khách quan cao, để có thể trình bầy ý kiến của mình về bản khai tài chính đó có trung thực chính xác hay không, tạo niềm tin cho những người quan tâm tới tình hình tài chính của công ty được kiểm toán .
Trên thực tế, nghề kiểm toán đã phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là ở những nước có nền công nghiệp phát triển. Tại những nước này yêu cầu với tính trung thực hợp lý của các bản khai tài chính là rất cao, nên đòi hỏi kiểm toán viên phải có trách nhiệm cao trong khi hành nghề kiểm toán .
I. Trách nhiệm của kiểm toán viên với các sai phạm ở đơn vị :
Trước hết cân phải quy định rõ ràng trách nhiệm của các bên trong một cuộc kiểm toán cụ thể, từ đó tránh những sự tranh chấp có thể xảy ra khi có những tình huống bất ngờ, như khách hàng có thể bị kiện ngay sau ngày cuộc kiểm toán diễn ra, khi đó cần biết lỗi đó do ai gây nên.
1. Trách nhiệm của nhà quản lý đơn vị với các sai phạm:
Đoạn 5 VSA 240 quy định: “trách nhiệm ngăn chặn và phát hiện các gian lận và sai sót là thuộc về người quản lý, thông qua việc duy trì và áp dụng hoạt động của một hệ thống kế toán và kiểm toán nội bộ thích hợp ”. Như vậy việc ngăn ngừa những hành vi gian lận và sai sót không phải là trách nhiệm của kiểm toán viên mà nó thuộc về trách nhiệm của các nhà quản trị doanh nhiệp. Phần trên ta đã phân tích về những nguyên nhân để có thể dẫn đến một hành vi gian lận có thể xảy ra, trong đó hầu hết các nguyên nhân là do sự lỏng lẻo của hệ thống kiểm soát.
2. Trách nhiệm của kiểm toán viên với gian lận và sai sót của đơn vị:
Chuẩn mực kiểm toán quốc tế đã quy định về phẩm chất cần thiết để một người có thể thực hiện một cuộc kiểm toán mà kết luận của người này khi đưa ra ý kiến đánh giá về các bảng khai tài chính có thể tạo niềm tin cho những người sử dụng nó. Để có thể như vậy, trước hết kiểm toán viên phải thoả mãn những yêu cầu về đạo đức nghề nghiệp.
2.1. Theo yêu cầu của đạo đức nghề nghiệp:
Đạo đức nghề nghiệp là những quy tắc để hướng dẫn cho các thành viên ứng xử và hoạt động một cách trung thực, phục vụ cho lợi ích chung của nghề nghiệp và xã hội. Trong nghề kiểm toán nói chung và kiểm toán nói riêng, vấn đề đạo đức nghề nghiệp chỉ mới được đặt ra trong vài thập niên gần đây, nhưng chúng mau chóng được chấp nhận rộng rãi. Đạo đức nghề nghiệp yêu cầu mỗi kiểm toán viên phải là người có có đạo đức, và mỗi tổ chức kiểm toán phải là cộng đồng của những người có đạo đức. Vì thế, điều lệ đạo đức nghề nghiệp phải được xác định rõ ràng, công bố và trở thành yêu cầu bắt buộc trong nghề kiểm toán, để một mặt sẽ giúp quản lý và giám sát chặt chẽ mọi kiểm toán viên ; mặt khác sẽ giúp cho công chúng hiểu biết về chúng, để qua đó họ có quyền đòi hỏi và đánh giá về các hành vi đạo đức của kiểm toán viên.
Nói cách khác, bên cạnh luật pháp và cùng với luật pháp, chính việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp sẽ giúp cho các thành viên luôn duy trì được một thái độ nghề nghiệp đúng đắn, giúp bảo vệ và nâng cao uy tín cho nghề kiểm toán trong xã hội, bởi vì nó tạo nên sự đảm bảo về chất lượng cao của dịch vụ cung ứng cho khách hàng và xã hội. Điều cần chú ý là các vấn đề thuộc đaọ đức nghề nghiệp có trường hợp không bị chi phối bởi luật pháp, ví dụ như kiểm toán viên phải luôn đi tìm sự hoàn hảo trong công việc; nhưng cũng có trường hợp bị chi phối bởi luật pháp, ví dụ như vấn đề bảo mật.
Như vậy, điều lệ đạo đức nghề nghiệp là những chỉ dẫn để các thành viên luôn duy trì được một thái độ nghề nghiệp đúng đắn nhằm bảo vệ và nâng cao uy tín của nghề nghiệp. Các nội dung mà kiểm toán viên phải tuân thủ trong đạo đức nghề nghiệp là:
Tính chính trực:Kiểm toán viên phải thực hiện công việc với một tinh thần trung thực, thẳng thắn bất vụ lợi.
Khách quan : Kiểm toán viên phải công minh, nghĩa là không được phép phán quyết một cách vội vàng, hoặc áp đặt, hay gây áp lực đối với người khác.
Độc lập : kiểm toán viên phải thực sự độc lập và tỏ ra độc lập.
Bảo mật: kiểm toán viên phải giữ bí mật của những thông tin đã thu thập được trong thời gian thực hiện các dịch vụ chuyên môn, và không được tiết lộ bất cứ một thông tin nào nếu không có thẩm quyền rõ ràng và hợp lý, trừ khi có nghĩa vụ pháp lý, hoặc trách nhiệm nghề nghiệp yêu cầu phải công bố.
Chấp hành nghiêm chỉnh các chuẩn mực nghiệp vụ trong khi tiến hành công việc.
Trình độ nghiệp vụ: kiểm toán viên có nghĩa vụ phải duy trì trình độ nghiệp vụ của mình trong suốt quá trình hành nghề; kiểm toán viên chỉ được phép nhận làm những công việc khi có đủ trình độ nghiệp vụ để hoàn thành nhiệm vụ.
Tư cách nghề nghiệp: kiểm toán viên phải tự điều chỉnh những hành vi của mình cho phù hợp với uy tín của nghành nghề, và phải tự kiềm chế những hành động có thể phá phá hoại uy tín nghề nghiệp .
Ta có thể thấy, với hiệp hội kiểm toán viên công chứng AICPA, nếu kiểm toán viên không tuân thủ các nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp có thể dẫn đến bị khai trừ khỏi tổ chức này.
2.2. Theo các chuẩn mực kiểm toán :
Trách nhiệm của kiểm toán viên còn xuất phát từ mục tiêu của cuộc kiểm toán báo cáo tài chính. Theo đoạn 11 VSA 200, mục tiêu của kiểm toán báo cáo tài chính được xác định là “…giúp cho kiểm toán viên và công ty kiểm toán đưa ra các ý kiến xác nhận rằng báo cáo tài chính có được lập trên cơ sở chuẩn mực và chế độ hiện hành (hoặc được chấp nhận ), có tuân thủ pháp luật liên quan và có phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu hay không ?”.
Trên cơ sở đó, trách nhiệm của kiểm toán viên được xác định là “…Kiểm tra, chuẩn bị và trình bày ý kiến của mình về báo cáo tài chính ”. Như vậy trách nhiệm của kiểm toán viên đối với các sai phạm ở đơn vị chỉ giới hạn trong p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35536.doc