Đề tài Tìm hiểu kỳ phiếu trong hoạt động thanh toán ở Việt Nam

I. Những vấn đề chung về kỳ phiếu

1.1 Nguồn luật điều chỉnh

1.2 Định nghĩa

1.3 Đặc điểm của kỳ phiếu và yêu cầu pháp lý về nội dung của kỳ phiếu

1.4 So sánh hối phiếu và kỳ phiếu

II. Vấn đề sử dụng kỳ phiếu trong thanh toán quốc tế ở Việt Nam

2.1 Thực trạng sử dụng và thanh toán kỳ phiếu tại Việt Nam

2.2.1 Kỳ phiếu đang được các NHTM sử dụng như một công cụ huy động vốn

2.2.2 Kỳ phiếu chưa được sử dụng rộng rãi trong hoạt động thanh toán ở Việt Nam

2.2 Đánh giá chung

2.2.1 Thành tựu

2.2.2 Hạn chế

III. Một số giải pháp tăng cường sử dụng kỳ phiếu trong thanh toán quốc tế tại Việt Nam

3.1 Giải pháp

3.1.1 Tổ chức tuyên truyền và thảo luận về kỳ phiếu

3.1.2 Nâng cao hiệu lực hoạt động của trung tâm tín dụng CIC

3.1.3 Hoàn chỉnh hơn nữa hành lang pháp lý đối với việc sử dụng kỳ phiếu

3.2 Kiến nghị

3.2.1 Chính phủ - Hành lang pháp lý

3.2.2 Ngân hàng nhà nước

3.2.3 Tổ chức tín dụng

3.2.4 Doanh nghiệp

 

doc28 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 7388 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu kỳ phiếu trong hoạt động thanh toán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hường có ba người quan hệ với nhau: Người phát hành hối phiếu (người kí phát), người trả tiền theo hối phiếu (người bị kí phát) và người hưởng thụ Thường có 2 người liên hệ: người ký phát và người thụ hưởng II. Vấn đề sử dụng kỳ phiếu trong thanh toán quốc tế ở Việt Nam 2.1 Thực trạng sử dụng và thanh toán kỳ phiếu tại Việt Nam Trong nền kinh tế thị trường hiện tượng thừa thiếu vốn ở các doanh nghiệp thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương mại một mặt đáp ứng được nhu cầu vốn của các doanh nghiệp tạm thời thiếu đồng thời giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá của mình. Mặt khác sự tồn tại của hình thức tín dụng này giúp cho các doanh nghiệp khai thác được vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Một trong những hình thức tín dụng thương mại là kỳ phiếu. Ở những thị trường của các nền kinh tế phát triển kỳ phiếu đang được sử dụng rộng rãi và phổ biến như các công cụ thanh toán khác. Tuy nhiên ở Việt Nam, việc sử dụng kỳ phiếu mới chỉ bắt đầu. Các doanh nghiệp chưa sử dụng kỳ phiếu vào hoạt động thanh toán của mình mà mới chỉ có các ngân hàng sử dụng kỳ phiếu như một kênh huy động vốn. Do vậy thực trạng sử dụng kỳ phiếu ở Việt Nam mang những đặc điểm sau: Thứ nhất, kỳ phiếu chỉ được các ngân hàng thương mại sử dụng như một công cụ để huy động vốn. Thứ hai, kỳ phiếu chưa được sử dụng rộng rãi trong thanh toán cũng như trong các giao dich tại Việt Nam. 2.1.1. Kỳ phiếu đang được các Ngân hàng thương mại sử dụng như một công cụ để huy động vốn. Trong thời gian gần đây các Ngân hàng thương mại liên tục phát hành các đợt kỳ phiếu với lãi suất cao để thu hút các đối tượng khách hàng là cá nhân hay các tổ chức, bao gồm cả cá nhân nước ngoài và trong nước. Thực tế là có rất nhiều ngân hàng thương mại đã phát hành các đợt kỳ phiếu với lãi suất cao, nhằm thu hút các khách hàng, thậm chí có ngân hàng còn phát hành kỳ phiếu với mức siêu lãi suất lên tới 19.5%/ năm như ngân hàng cổ phần thương mại Thái Bình Dương( Pacific Bank) từ ngày 25/8 đến ngày 23/10 Ngân hàng Thái Bình Dương bắt đầu phát hành một đợt kỳ phiếu với lãi suất 19,5% / năm, mệnh giá tối thiểu là 1.000.000 đồng , không hạn chế mức tối đa, với các kỳ hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng và 360 ngày. Lãi suất của kỳ phiếu tuỳ thuộc vào số tiền mua và kỳ hạn của kỳ phiếu. Một ví dụ cụ thể nữa là Ngân hàng cổ phần thương mại Quân Đội, bắt đầu từ ngày 6.5.2008 đến 6.7.2008, Ngân hàng TMCP Quân đội (MB) phát hành kỳ phiếu ghi danh huy động USD kỳ hạn 3 tháng, 7 tháng và 11 tháng. Kỳ phiếu USD là sản phẩm tiết kiệm dưới dạng giấy tờ có giá ngắn hạn do ngân hàng MB phát hành. Kỳ phiếu này có tính thanh khoản cao với nhiều ưu đãi về chiết khấu và chuyển nhượng. Kỳ phiếu phát hành dành cho các cá nhân trong và ngoài nước đang sinh sống tại Việt Nam. Mệnh giá kỳ phiếu 100 USD và bội số của 100 USD. Lãi suất của kỳ phiếu là 5,8%/năm, trả lãi sau.  Theo ngân hàng MB, các khách hàng có sổ tiết kiệm USD đến ngày đáo hạn trong khoảng thời gian từ ngày 1.5 đến 30.6 mà dùng số tiền này để mua kỳ phiếu USD thì MB sẽ cộng thêm lãi suất thưởng từ 0,01 – 0,1%/năm. Trường hợp khách hàng đang gửi tiết kiệm USD tại ngân hàng MB nhưng sổ tiết kiệm này chưa đến kỳ đáo hạn, khách hàng dùng khoản tiền USD khác để mua kỳ phiếu cũng sẽ được cộng thêm lãi suất thưởng từ 0,01 – 0,08%/năm. Theo quy định kỳ phiếu không được thanh toán trước hạn nhưng để tạo tính thanh khoản cho kỳ phiếu, ngân hàng MB cho phép khách hàng chiết khấu với mức chiết khấu tương đương số ngày nắm giữ kỳ phiếu. Chẳng hạn, người mua kỳ phiếu kỳ hạn 11 tháng giữ từ 30 ngày đến dưới 110 ngày  được chiết khấu bằng mệnh giá cộng với 60% lãi tính theo lãi suất ghi trên kỳ phiếu; từ 70 ngày đến 220 ngày bằng mệnh giá cộng với 70% lãi tính theo lãi suất ghi trên kỳ phiếu; từ 220 ngày bằng mệnh giá cộng 80% lãi tính theo lãi suất ghi trên kỳ phiếu... So với các loại kỳ phiếu của các đơn vị phát hành khác không được phép chuyển nhượng hoặc phải thương lượng với lãi không kỳ hạn, kỳ phiếu ngân hàng MB có tính thanh khoản cao hơn. Ngoài ra, khách hàng có thể cầm cố, chuyển nhượng kỳ phiếu khi cần vốn tại ngân hàng MB hoặc các ngân hàng thương mại khác. So với hình thức gửi tiết kiệm, kỳ phiếu MB có những điểm vượt trội như được chiết khấu và cộng thêm lãi suất. Phát hành kỳ phiếu đợt này, ngân hàng MB dự kiến sẽ huy động được 20 triệu USD.  Cũng như các loại giấy tờ có giá khác, kỳ phiếu xuất hiện trên thị trường tài chính Việt Nam đã lâu, tuy nhiên một vài năm trở lại đây các ngân hàng tập trung phát hành kỳ phiếu nhiều với những tính năng ưu việt  hơn trước. Không chỉ riêng đối với Ngân hàng TMCP quân đội(MB) mà cả Ngân hàng Công thương Việt Nam (Vietinbank) đã triển khai phát hành kỳ phiếu ngắn đợt 2 năm 2008. Đây là loại kỳ phiếu ghi danh trả lãi sau Với mệnh giá tối thiểu 1.000.000đồng với các thời hạn 4 tháng, 5 tháng, 6 tháng và 7 tháng. Khách hàng là cá nhân, tổ chức Việt Nam hoặc tổ chức, cá nhân nước ngoài đang hoạt động hợp pháp tại Việt Nam đều có thể tham gia chương trình này để hưởng mức lãi suất hấp dẫn cao hơn mức lãi suất của Vietinbank từ 0,5-0,7%/năm tuỳ từng kỳ hạn. Sản phẩm này được chuyển quyền sở hữu, thừa kế vay vốn tại các tổ chức tín dụng. Đến hạn, nếu không rút tiền, ngân hàng sẽ chuyển sang tiết kiệm có kỳ hạn thông thường trả lãi sau. Không hề chậm chân so với các ngân hàng khác, ngân hàng Thương mại cổ phần xăng dầu Petrolimex (PG bank) đã chính thức công bố phát hành 1000 tỷ đồng kỳ phiếu ghi danh thời hạn 3 tháng, 6 tháng với các mệnh giá5 triệu, 10 triệu và 50 triệu đồng với lãi suất hấp dẫn lên tới 18,6%/ năm. Để thu hút khách hàng, PG bank con tung ra nhiều chwong trình khuyến mãi kèm theo và đặc biệt là kế hoạch chi tiêu. PG bank cho biết là nguồn vốn thu hút được sẽ được sử dụng vào việc tài trợ cho các doanh nghiệp hàng đầu kinh doanh xuất nhập khẩu xăng dầu, xuất khẩu gạo, nông thuỷ sản, nhựa đường…đây là những lĩnh vực kinh doanh có hiệu quả cao và chắc chắn mang tính khả thi cao sẽ giúp cho ngân hàng thu hồi vốn nhanh. Từ các ví dụ trên đấy, chúng ta có thể nhận thấy thị trường kỳ phiếu ở Việt Nam đa số là kỳ phiếu ngân hàng. Trong thời gian vừa qua do các ngân hàng thương mại đua nhau huy động vốn trong dân vì thế đã xuất hiện hàng loạt các loại kỳ phiếu khác nhau với mức lãi suất, kỳ hạn khác nhau. Điều này làm cho thị trường kỳ phiếu ở Việt Nam sôi động hơn bao giờ hết trong thời gian gần đây. 2.1.2 Kỳ phiếu chưa được sử dụng rộng rãi trong các hoạt động thanh toán ở Việt Nam. Cùng với hối phiếu, kỳ phiếu cũng là một công cụ lưu thông tín dụng thay cho tiền mặt chấp hành chức năng phương tiện lưu thông của tiền tệ và nhờ vào vai trò này kỳ phiếu được sử dụng trong thanh toán quốc nội cũng như là thanh toán quốc tế như là một công cụ cam kết trả tiền. Song, tại thị trường tín dụng Việt Nam thì phần lớn chỉ sử dụng Kỳ phiếu Ngân hàng là công cụ để các ngân hàng huy động vốn trong dân. Tại sao kỳ phiếu thương mại lại chưa được các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng Việt Nam sử dụng như là một công cụ lưu thông tín dụng? Nguyên nhân đầu tiên đó là tính chất rủi ro cao của việc sử dụng kỳ phiếu. Một doanh nghiệp muốn sử dụng kỳ phiếu để có thế cam kết trả tiền với các doanh nghiệp khác thì cần phải có bên thứ 3 đứng ra bảo lãnh cho kỳ phiếu đó. Điều này đôi khi lại gây nên phiền hà và chi phí cao hơn so với việc sử dụng tiền mặt. Và cũng là nguyên nhân tại sao kỳ phiếu không nhận được sự tin tưởng từ các doanh nghiệp. Đây là một trở ngại lớn khiến các doanh nghiệp chưa hoàn toàn ưa sử dụng kỳ phiếu trong hoạt động thanh toán của mình. Hơn nữa, Ngân hàng Nhà nước chưa ban hành các biểu mẫu để thực hiện, chưa có trung tâm thanh toán bù trừ hối phiếu làm cho việc sử dụng kỳ phiếu. Vì thế, tính thanh khoản của kỳ phiếu là chưa cao, làm kéo dài thời gian quay vòng vốn của doanh nghiệp Cuối cùng, luật công cụ chuyển nhượng Việt Nam nhiều điểm còn chưa quy định rõ nên khó thực hiện trong thực tiễn. 2.2. Đánh giá chung về thị trường kỳ phiếu ở Việt Nam 2.2.1. Thành tựu 2.2.1.1. Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh kỳ phiếu ngày càng cụ thể và rõ ràng hơn. Kỳ phiếu từ việc chỉ được đề cập trong Pháp lệnh thương phiếu năm 1999 với rất nhiều bất cập, ngày 29 tháng 11 năm 2005, Luật các công cụ chuyển nhượng đã được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1 tháng 7 năm 2006 . Sự ra đời của Luật các công cụ chuyển nhượng đánh dấu mốc quan trọng góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường thương phiếu nước ta nói chung và thị trường kỳ phiếu nói riêng, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng và hiệu quả của hoạt động thương mại. 2.2.1.2. Các nghiệp vụ kinh doanh kỳ phiếu ngày càng phát triển Các nghiệp vụ kinh doanh kỳ phiếu của các ngân hàng thương mại như chiết khấu, cầm cố, bảo lãnh, nhận ủy thác… đã hình thành và ngày càng phát triển. Các nghiệp vụ này phát triển đã mang lại lợi ích cho tất cả các bên, doanh nghiệp và các trung gian tài chính. Đối với doanh nghiệp: - Sử dụng kỳ phiếu như một công cụ lưu thông tín dụng thay thế tiền mặt, doanh nghiệp tiết kiệm được tiền mặt và góp phần ổn định tiền tệ. - Nhờ vào các nghiệp vụ chiết khấu và cầm cố kỳ phiếu đã giúp cho các doanh nghiệp đầy nhanh tốc độ quay vòng vốn, từ đó nâng cao được chất lượng và hiệu quả kinh doanh - So với hình thức thanh toán bằng chuyển tiền, hình thức thanh toán thông qua kỳ phiếu an toàn hơn. Nhờ có sự tham gia của bên thứ 3, thường là ngân hàng, thanh toán bằng kỳ phiếu còn là một cơ sở pháp lý trong quan hệ mua bán chịu, bảo vệ quyền lợi của các chủ thể trong tín dụng thương mại, loại bỏ được tình trạng nợ nần dây dưa giữa các doanh nghiệp. Đối với các ngân hàng thương mại: + Kỳ phiếu là loại tài sản đảm bảo và loại tài sản đảm bảo này có tính thanh khoản cao. Trong trường hợp người đi vay vốn ngân hàng nhận nợ bằng kỳ phiếu, khi cần thiết ngân hàng có thể mang đi tái chiết khấu hoặc tái cầm cố tại NHNN, hoặc các NHTM khác để khôi phục nguồn vốn của mình. Đây là một giải pháp chứng khoán hoá các khoản cho vay của ngân hàng.  + Thông qua nghiệp vụ phát hành kỳ phiếu cho các doanh nghiệp, ngân hàng có thể sử dụng kỳ phiếu như một trái phiếu ngắn hạn để huy động vốn. + Thông qua nghiệp vụ bảo lãnh và thu hộ kỳ phiếu, sẽ giúp ngân hàng tăng thu nhập trong hoạt động kinh doanh của mình.  + Kỳ phiếu bổ sung hàng hoá cho thị trường mở, tạo điều kiện cho ngân hàng trung ương thực hiện tốt công tác điều hoà khối tiền trong lưu thông. 2.2.2. Hạn chế 2.2.2.1.Nghiệp vụ kinh doanh kỳ phiếu tuy có phát triển nhưng thị trường kỳ phiếu Việt Nam chưa thực sự hình thành. Thị trường kỳ phiếu là thị trường kinh doanh kỳ phiếu giữa một bên là người thụ hưởng kỳ phiếu và một bên là các trung gian tài chính. Trong quan hệ kỳ phiếu các doanh nghiệp Việt Nam tham gia với tư cách là người thụ hưởng khi là người xuất khẩu, là người phát hành khi là người nhập khẩu. Do khả năng thanh toán của kỳ phiếu lại hoàn toàn phụ thuộc vào người phát hành ra nó, bởi vậy người bán chỉ tiếp nhận kỳ phiếu nếu kỳ phiếu được NHTM đứng ra bảo lãnh thanh toán hoặc là người phát hành kỳ phiếu là người có khả năng thanh toán thực sự, có uy tín trên thương trường và có hệ số tín nhiệm cao. Trên thực tế, kỳ phiếu chưa được sử dụng trong quan hệ mua bán trong nước mà chỉ được sử dụng trong quan hệ thanh toán quốc tế của Việt Nam với nước ngoài nhưng số lượng cũng rất hạn chế. Thêm vào đó, kỳ phiếu mới chỉ được người mua sử dụng để thực hiện cam kết trả tiền, còn chưa sử dụng để đòi tiền hàng xuất khẩu. Nguyên nhân của tình trạng trên một phần là do kỳ phiếu với những nhược điểm sẵn có của tín dụng thương mại, khó có thể mở rộng qui mô (khối lượng) và thời gian mua bán chịu hàng hoá trong trường hợp nhu cầu mua chịu quá lớn và thời gian quá lâu.  Mặt khác, do tính thanh khoản của kỳ phiếu còn hạn chế hơn so với các các công cụ chuyển nhượng khác trong khi đó rủi ro thanh toán lại cao nên quan hệ mua bán chịu này chỉ có thể phát sinh giữa những doanh nghiệp tín nhiệm và giao dịch thường xuyên với nhau.  Bên cạnh đó, tính trừu tượng của kỳ phiếu, sẽ dẫn đến tình trạng hai doanh nghiệp thông đồng nhau lập ra thương phiếu khống (kỳ phiếu không phát sinh từ quan hệ mua bán chịu) để mang đến ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố. Chính điều này đã làm cho cơ sở đảm bảo của thương phiếu là tín dụng hàng hoá không thể tồn tại, số tiền cho vay được ngân hàng phát ra không có cơ sở đảm bảo.  Để có một thị trường kỳ phiếu theo đúng nghĩa của nó thì phải hội tụ đủ những thành tố cơ sở tối thiểu như: một lượng hàng hóa nhất định để đưa vào thị trường, nhu cầu đối với hàng hóa đó, người bán và người mua, và cuối cùng là phải có một hệ thống pháp lý điều tiết và bảo đảm quyền lợi cũng như nghĩa vụ của các thành viên tham gia thị trường. Tất cả các yếu tố cơ bản trên vẫn chưa được hình thành đầy đủ ở thị trường thương phiếu Việt Nam nói chung và thị trường kỳ phiếu nói riêng. Thực tế từ trước đến nay, khi sử dụng các phương thức thanh toán, các doanh nghiệp Việt Nam mới chỉ sử dụng hối phiếu như là công cụ đòi tiền chứ kỳ phiếu thì còn rất hạn chế. 2.2.2.2. Hạn chế về mặt chủ thể tham gia thị trường kỳ phiếu ở Việt Nam. Trong thương mại nội địa, các doanh nghiệp thường sử dụng các công cụ thanh toán như chuyển khoản qua các tài khoản ngân hàng, séc, còn sử dụng kỳ phiếu thì chưa. Chính vì vậy, chủ thể tham gia thị trường kỳ phiếu chủ yếu là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu và các ngân hàng thương mại. Nếu như kỳ phiếu được sử dụng trong nội địa thì các thành phần chủ thể tham gia thị trường kỳ phiếu Việt Nam sẽ phong phú hơn nhiều. 2.2.3. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế. 2.2.3.1. Nền kinh tế nước ta có xuất phát điểm thấp, lại đang trong quá trình chuyển đổi. Mặc dù tăng trưởng kinh tế của Việt Nam những năm gần đây đều thuộc vào những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới, song kinh tế nước ta chưa có tính ổn định, lạm phát còn ở mức cao, thu nhập bình quân đầu người còn thấp, người dân lại chưa được đào tạo kiến thức cơ bản về thị trường tài chính nói chung và thị trường kỳ phiếu nói riêng. Hơn nữa, chúng ta lại chưa có chính sách phù hợp để khai thác mọi nguồn lực trong dân chúng. Vì vậy, người dân chỉ có thói quen tiết kiệm, mua vàng, ngoại tệ hoặc bất động sản, họ chưa thực sự quan tâm đến kỳ phiếu và thị trường kỳ phiếu. 2.2.3.2. Môi trường pháp lý thiếu tính khả thi Môi trường pháp lý cho thị trường kỳ phiếu của nước ta trong thời gian gần đây còn thiếu tính khả thi nên không có doanh nghiệp nào dám sử dụng kỳ phiếu trong lưu thông cũng như trong thanh toán quốc nội. Năm 1997, Luật thương mại có đề cập đến kỳ phiếu nhưng lại thiếu văn bản pháp lý hướng dẫn thi hành. Năm 1999, Pháp lệnh Thương phiếu ra đời nhưng lại có quá nhiều những bất cập. Năm 2005, Luật các công cụ chuyển nhượng được Quốc hội thông qua đã phần nào giải quyết được một số bất cập nhưng cũng chưa mấy hiệu quả, Luật thương mại 2005 chính thức có hiệu lực lại không điều chỉnh kỳ phiếu. 2.2.3.3. Nền kinh tế mang nặng thói quen sử dụng tiền mặt. Mặc dù, theo báo cáo của ngân hàng Nhà nước Việt Nam, trong cơ cấu tổng phương tiện thanh toán, tỷ trọng thanh toán bằng tiền mặt có xu hướng giảm theo từng năm nhưng vẫn chiếm tỷ trọng rất cao. Chính thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán nội địa khiến cho thị trường kỳ phiếu nội địa gần như là không có đất phát triển. 2.2.3.4. Năng lực tài chính của các trung gian tài chính còn bị hạn chế nhiều. Như đã đề cập ở trên, người thực hiện chủ yếu các nghiệp vụ kinh doanh kỳ phiếu là các ngân hàng thương mại với vai trò người bảo lãnh cũng như người phát hành kỳ phiếu để huy động vốn ngắn hạn cho ngân hàng. Tuy nhiên, năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay còn rất nhiều mặt hạn chế. Mặc dù, những nỗ lực tăng cường vốn điều lệ, xử lý nợ tồn đọng và hạn chế nợ khó đòi đã góp phần cải thiện một bước tình hình tài chính của các ngân hàng Việt Nam. Nhưng quy mô vốn nhỏ, các chính sách và quy trình kiểm soát rủi ro tín dụng còn thiếu và hạn chế nợ khó đòi vẫn là những thách thức lớn nhất các ngân hàng Việt Nam phải đối mặt trong việc phát triển thị trường kỳ phiếu. Trong khi đó, vai trò của các định chế tài chính trung gian khác như: các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư… còn mờ nhạt trên thị trường thương phiếu nói chung và thị trường kỳ phiếu ở Việt Nam nói riêng, đã làm hạn chế sự phát triển của thị trường. 2.2.3.5. Rủi ro do việc sử dụng kỳ phiếu trong hợp đồng thương mại còn chưa có được các biện pháp phòng ngừa kịp thời, hữu hiệu. Doanh nghiệp và các tổ chức tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ phát hành, chấp nhận, bảo lãnh, chuyển nhượng, cầm cố, thanh toán, truy đòi…của kỳ phiếu hầu như không phụ thuộc vào hợp đồng mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ. Theo Pháp lệnh thương phiếu 1999 và Luật các công cụ chuyển nhượng 2005 cũng chỉ đề cập tới nội dung, hình thức của kỳ phiếu mà không yêu cầu phải kèm theo bất cứ bằng chứng nào chứng minh về nguồn gốc của giao dịch làm căn cứ phát sinh việc phát hành kỳ phiếu. Sự tách biệt giữa chứng từ và hàng hóa đã tạo khe hở để một số tổ chức thực hiện hành vi lừa đảo, phát hành kỳ phiếu khống. Ngoài ra, những bất cập của hành lang pháp lý cho sự vận hành của thị trường kỳ phiếu cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong sử dụng kỳ phiếu như thiếu căn cứ pháp lý khi có xảy ra tranh chấp, khởi kiện. 3.1 Giải pháp 3.1.1 Tổ chức tuyên truyền và thảo luận về kỳ phiếu. Để xuất hiện kỳ phiếu thì chủ thể phát hành ra nó phải ý thức được vai trò, tác dụng to lớn của kỳ phiếu đối với mình cũng như tính bức thiết, sự ra đời tất yếu không sớm thì muộn của kỳ phiếu trong một nền kinh tế cạnh tranh và không ngừng phát triển. Từ đó họ mới có năng lực để sử dụng nó. Thực tế là ở Việt Nam các doanh nghiệp, các tổ chức sản xuất kinh doanh cũng như các cá nhân hiểu biết còn rất ít, rất mơ hồ về kỳ phiếu. Vì vậy nhà nước cần tăng cường phổ biến kiến thức về thương phiếu nói chung và kỳ phiếu nói riêng đến với mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp thông qua các buổi hội thảo- thảo luận, phổ biến, tuyên truyền về thương phiếu và vai trò của nó. Và để chắc chắn hơn sau mỗi buổi hội thảo, thảo luận như vậy cần kiểm tra lại xem các doanh nghiệp, các cá nhân hiểu biết như thế nào về kỳ phiếu đồng thời thu thập ý kiến phản hồi, những thắc mắc, những kiến nghị của các doanh nghiệp, các cá nhân về các vấn đề liên quan. Từ đó tổng hợp được các thông tin hữu ích giúp cho quá trình soạn thảo văn bản luật được tổng quát hơn. Với những buổi hội thảo như vậy các doanh nghiệp sẽ phần nào nhận thấy được vai trò to lớn của kỳ phiếu trong thanh toán. Và từ đó thúc đẩy việc sử dụng kỳ phiếu trong nền kinh tế ở Việt Nam. 3.1.2 Nâng cao hiệu lực hoạt động của Trung tâm Thông tin tín dụng CIC. Trung tâm Thông tin tín dụng (Credit information center – viết tắt là CIC) là đơn vị sự nghiệp được thành lập theo Quyết định số 68/1999/QĐ-NHNN9 ngày 27/02/1999 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước. CIC có chức năng thu thập và cung cấp dịch vụ Thông tin tín dụng cho Ngân hàng nhà nước, các tổ chức tín dụng, tổ chức và cá nhân khác nhằm góp phần bảo đảm an toàn cho hoạt động ngân hàng, phục vụ công tác quản lý của Ngân hàng nhà nước, phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng và phát triển kinh tế xã hội. Kỳ phiếu là một công cụ chuyển nhượng được các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng sử dụng trong thanh toán, giúp giảm rủi ro khi thanh toán bằng tiền mặt. Tuy nhiên, điều các doanh nghiệp lo lắng khi sử dụng công cụ chuyển nhượng này là liệu người lập phiếu có đủ năng lực tài chính để thanh toán hay không. Vì vậy để giúp tăng cường sử dụng kỳ phiếu cũng như các công cụ chuyển nhượng khác trong thanh toán tại Việt Nam, Ngân hàng nhà nước và các tổ chức tín dụng khác cần phải nỗ lực để nâng cao hiệu lực hoạt động chi Trung tâm Thông tin tín dụng CIC, để CIC có thể cung cấp chính xác và kịp thời năng lực chi trả, uy tín của các doanh nghiệp có nghĩa vụ thanh toán kỳ phiếu, đảm bảo quyền lợi cho người thụ hưởng. 3.1.3 Hoàn chỉnh hơn nữa hành lang pháp lý đối với việc sử dụng kỳ phiếu. Tại Việt Nam ngày nay, kỳ phiếu vẫn còn được sử dụng rất hạn chế. Có rất nhiều lí do dẫn đến tình trạng này, và một trong những nguyên nhân đó là việc Nhà nước vẫn chưa hoàn chỉnh được hành lang pháp lý đối với việc sử dụng kỳ phiếu. Luật các Công cụ chuyển nhượng Việt Nam 2005 đã được ban hành và đưa vào sử dụng từ hơn hai năm nay, thay thế cho Pháp lệnh thương phiếu 1999, đã đưa ra nhiều khái niệm mới, quan điểm mới phù hợp với thông lệ quốc tế và khắc phục những điểm bất cập của Pháp lệnh thương phiếu 1999 và các quy định pháp luật khác về công cụ chuyển nhượng. Nếu trong Pháp lệnh thương phiếu 1999 và các quy định pháp luật khác bộc lộ một số bất cập như quy định về mẫu thương phiếu chủ thể được quyền phát hành, chấp thuận phát hành, chuyển nhượng thương phiếu cho người nước ngoài, thẩm quyền, trình tự, giải quyết tranh chấp về công cụ chuyển nhượng…, đặc biệt là quy định về cơ sở phát hành thương phiếu buộc ngân hàng phải tham gia vào quan hệ thương phiếu ngay từ khi phát hành, không những hạn chế quyền sử dụng thương phiếu của các chủ thể kinh doanh, mà còn tạo ra rủi ro tiềm tàng rất lớn cho hệ thống ngân hàng, thì Luật các Công cụ chuyển nhượng đã phần nào khắc phục được những thiếu sót đó. Luật các Công cụ chuyển nhượng ra đời là một tất yếu, phù hợp với xu thế phát triển nhanh và mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta, góp phần đưa thương phiếu nói chung và kỳ phiếu nói riêng vào thanh toán quốc tế. Tuy nhiên, cũng giống như rất nhiều các đạo luật khác của Việt Nam, luật các Công cụ chuyển nhựng cũng có những thiếu sót và cũng gây khó hiểu cho những người dùng luật. Ngoài ra, từ khi Luật các Công cụ chuyển nhượng chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2006, chưa có một văn bản pháp lý nào như nghị định hay thông tư hướng dẫn thực hiện luật này được ban hành. Có lẽ đây cũng chính là một trong những lí do quan trọng khiến cho Luật các Công cụ chuyển nhượng chưa thực sự đi vào đời sống, khiến cho các công cụ chuyển nhượng nói chung và kỳ phiếu nói riêng chưa được sử dụng nhiều trong thanh toán thay cho cách dùng tiền mặt thông thường. Vì vậy Ngân hàng nhà nước cũng như các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần xem xét điều chỉnh để hoàn thiện hơn nữa hành lang pháp lý, tạo thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp khi áp dụng luật này; đồng thời có những chính sách mới để khuyến khích các tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp tăng cường hơn nữa việc sử dụng kỳ phiếu trong thanh toán. Có như vậy việc tăng cường lưu thông kỳ phiếu trên thị trường mới có hiệu quả. 3.2. Kiến nghị Thực tế cho thấy mặc dù “Luật các công cụ chuyển nhượng” đã có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2006 nhưng đến nay các công cụ chuyển nhượng, đặc biệt là kỳ phiếu vẫn chưa thực sự đi vào cuộc sống. Trong phạm vi hiểu biết của mình, chúng tôi xin nêu ra một vài kiến nghị nhằm góp phần tạo điều kiện thuận lợi đưa thương phiếu nói chung, kỳ phiếu nói riêng được sử dụng một cách rộng rãi trong đời sống xã hội. 3.2.1. Chính phủ - Hành lang pháp lý Nhà nước, Chính phủ trước hết cần tạo dựng một môi trường kinh doanh năng động, cạnh tranh cao, tạo điều kiện thuận lợi cho thị trường tài chính phát triển một cách lành mạnh thông qua một số hành động sau: Hoàn thiện hệ thống Pháp luật điều chỉnh thương phiếu và thị trường thương phiếu. Nâng cao hiệu lực pháp lý của hệ thống khung pháp luật về thương phiếu và thị trường thương phiếu. Cụ thể: Bên cạnh những nội dung đã thống nhất trong Luật các công cụ chuyển nhượng, cần nhanh chóng ban hành văn bản hướng dẫn thi hành các nội dung điều khoản chưa cụ thể, chưa chi tiết nhằm thống nhất trong thực hiện. Tăng cường cơ chế giám sát thực thi pháp luật. Ban hành luật tín dụng tạo khung pháp lý thúc đẩy các hoạt động kinh doanh tín dụng. Rà soát, hoàn thiện hệ thống Pháp luật, tránh hiện tượng không thống nhất, mâu thuẫn của các luật có liên quan. Chính phủ có thể thực hiện điều này nhanh chóng, hiệu quả bằng cách điện tử hóa các khâu dự thảo, hội thảo, thăm dò ý kiến, ban hành pháp luật…tức là đẩy nhanh thực thi quá trình “Chính phủ điện tử”. Thể chế hóa chế độ thanh toán không dùng tiền mặt, ban hành Luật, pháp lệnh thanh toán không dùng tiền mặt. Chính phủ nên có những dự án đầu tư nhằm xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật hiện đại tại Ngân hàng Nhà nước và các Ngân hàng thương mại, từ đó các Ngân hàng thương mại có chiến lược cụ thể mang tính định hướng dài hạn mở rộng các dịch vụ ngân hàng trong dân cư. Đồng thời xây dựng hành lang pháp lý về lưu trữ và sử dụng các chứng từ điện tử. Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp quốc doanh trong thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Tuy nhiên, sự tồn tại, hoạt động của một số doanh nghiệp nhà nước vẫn tiếp tục là gánh nặng cho nền kinh tế đất nước. Khi mà các khoản vay, bù lỗ cho các doanh nghiệp này còn tiếp tục là gánh nặng cung ứng tín dụng lên hệ thống Ngân hàng, các khoản nợ khó đòi vẫn cứ tăng thì không thể có một thị trường thương phiếu hiệu quả. Vì vậy, Chính phủ cần có những biện pháp mạnh mẽ hơn nữa nhằm sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, tạo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTTQT.doc
  • pptTim hieu ky phieu trong hoat dong thanh toan o VN.ppt
Tài liệu liên quan