MỤC LỤC
Trang
- TÀI LIỆU THAM KHẢO . 2
- LỜI NÓI ĐẦU . . 3
- A/ . ĐẶT VẤN ĐỀ .4
- B/ . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ .5
I. Sự hình thành và phát triển ngôn ngữ tạo hình .5
1. Những nét chung .5
2. Cách nhìn và cách cảm nhận: .5
II. Ngôn ngữ tạo hình ở học sinh THCS qua phân môn vẽ tranh .6
1. Khả năng cảm nhận của học sinh THCS .6
1.1. Đặc điểm tâm lý: . 6
1.2 Khả năng cảm nhận trong phân môn vẽ tranh của học sinh THCS: . 6
2. Hứng thú học tập trong phân môn vẽ tranh ở học sinh THCS: .7
- C/. THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC:.9
I. Thực trạng học tập .9
II. Biện pháp giúp học sinh học tốt và nâng cao chất lượng bài vẽ ở
phân môn vẽ tranh: .9
1. Chuẩn bị: .9
2. Phần lên lớp: .10
- D/ . BÀI HỌC KINHNGHIỆM .11
- E/. KẾT LUẬN .11
- F/. ĐỀ XUẤT .12
- Ý KIẾN BAN GIÁM HIỆU .12
12 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6433 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Tìm hiểu một số nét đặc trưng ngôn ngữ tạo hình ở học sinh THCS thông qua phân môn vẽ tranh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hay người làm nghệ thuật mà nhằm giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho học sinh. Chủ yếu tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc, làm quen và thưởng thức cái đẹp, tập tạo ra cái đẹp vận dụng cái đẹp vào trong cuộc sống hằng ngày. Để làm được điều đó cần hiểu về cách nhình, cách cảm nhận, lý giải hiện tượng sự vật...của học sinh. Hay nói cách khác là ngôn ngữ tạo hình của học sinh THCS trong bộ môn mĩ thuật, mà cụ thể ở đề tài nghiên cứu này được tìm hiểu thông qua phân môn vẽ tranh.
Việc tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ tạo hình ở học sinh THCS sẽ giúp cho giáo viên giảng dạy - đánh giá một cách tích cực đúng đắn, gây hứng thú cho cả người học và người dạy tìm ra được phương pháp, cách thức giảng dạy phù hợp đối tượng, lứa tuổi. Tuy nhiên dạy như thế nào? Dạy thật tốt hay bình thường còn phụ thuộc ý thức học tập của mỗi chúng ta.
A/ . ĐẶT VẤN ĐỀ
Với mong muốn trở thành người giáo viên dạy tốt, dạy giỏi, hoàn thành tốt công tác nhiệm vụ cần có rất nhiều yếu tố. Đó là chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức, kinh nghiệm và lòng say mê yêu nghề yêu trẻ.
Đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, an ninh, quốc phòng. Những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến sự phát triển của giáo dục, đặc biệt là chất lượng của nó. Cùng với nhu cầu phát triển ngày càng cao của con người về đức dục, trí dục và thể dục , thì mỹ dục cũng không ngừng được phát triển và dần có vai trò quan trọng trong đời sống của mỗi con người và nhất là thế hệ trẻ. Đối tượng nghiên cứu ở đây là học sinh THCS.
Với bộ môn mĩ thuật hiện nay nói riêng, giáo viên giảng dạy còn ít kinh nghiệm. Không có hội thảo luận và nghiên cứu sâu vấn đề. Bởi thời lượng tiết còn ít, mỗi trường chỉ có một giáo viên. Việc trao đổi và thảo luận gặp nhiều khó khăn. Đồng thời đây cũng là bộ môn mới dược đưa vào trường học gần đây nhằm đáp ứng nhu cầu thị hiếu của con người, luôn luôn hướng tới cái đẹp, tìm kiếm và sáng tạo cái đẹp. Nhu cầu thị hiếu thẩm mỹ của con người ngày càng cao cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội, cho nên việc nhìn nhận và thưởng thức cái đẹp của đại bộ phận nhân dân là vấn đề tất yếu khách quan, không chỉ là đối với người lớn mà tất cả các đối tượng, từng lớp, lứa tuổi trong xã hội.
Giảng dạy mỹ thuật ở trường THCS cũng nhằm mục tiêu trên. Trong quá trình giảng dạy người giáo viên cần chú ý đặc điểm lúa tuổi học sinh, mỗi lứa tuổi sẽ có cách cảm nhận, suy nghĩ và lý giải về cái đẹp khác nhau. Người lớn có cách cảm nhận loogic khoa học tạo nên cái đẹp hoàn thiện, còn trẻ em thì có cách cảm nhận ngây thơ, nhìn sự vật qua lăng kính màu hồng, không vướng bận những nguyên tắc, trăn trở mà tập trung tình cảm sự yêu thích của mình vào bài vẽ. Cho nên bài vẽ của học sinh thường đem lại cho ta nhiều cảm xúc và tình cảm mới lạ. Nói là vậy, mỗi mức độ cách cảm nhận của con người mỗi đổi thay. Là người giáo viên dạy mĩ thật cần nắm bắt được đặc điểm này của học sinh để có phương pháp giảng dạy tốt nhất, phát huy được năng lực, sự đâm mê của học sinh. Đây cũng là lý do tôi chọn để viết sáng kiến này “ Tìm hiểu một số nét đặc trưng, ngôn ngữ tạo hình ở học sinh THCS thông qua phân môn vẽ tranh”.
Dạy mĩ thuật cũng nhưu dạy các môn khác, đối tượng chủ yếu là học sinh, dạy cho học sinh theo những nội dung yêu cầu chương trình đã quy định. Nhưng dù dạy bất cứ cái gì thì cần phải tìm hiểu rõ đối tượng cần truyền đạt là ai? Đối tượng nào? Truyền đạt ở mức độ nào?
Ở đây đối tượng tìm hiểu là học sinh THCS, cụ thể là học sinh trường THCS Bu Prăng – lớp 6, 7, 8, 9. Lứa tuổi từ 11 đến 15 với những đặc điểm tính cách nhận thức riêng của từng vùng – miền, nhất là ở vùng biên giới như trường Bu Prăng. Bộ môn mĩ thuật là môn học mà kiến thức của nó vừa cụ thể, rõ ràng vừa chung chung trừu tượng, khó thấy khó nhìn. Là loại kiến thức có ở xung quanh ta, lấy những sự vật hiện tượng quanh ta để biểu đạt. Điều đó đòi hỏi giáo viên ngoài việc phải nắm vững kiến thức chuyên môn thì cần phải nắm vững kiến thức ở các môn liên quan như “ Tâm lý học lứa tuổi, xã hội học tự nhiên,...” Trong đó cái cốt lõi cần phải nắm là đặc trưng ngôn ngữ tạo hình của học sinh THCS mà cụ thể ở đề tài nghiên cứu này nó nằm trong phân môn vẽ tranh.
Đặc trưng ngôn ngữ tạo hình của hội họa nói chung bao gồm nhiều yếu tố như tính không gian, tính tạo hình trực tiếp trong đó bao gồm đường nét, hình khối, mầu sắc...và ngôn ngữ tạo hình của học sinh THCS cũng không nằm ngoài những yếu tố đó.
Học sinh THCS có cách nhìn, cách cảm nhận lý giải như thế nào về những sự vật, hiện tượng xung quanh, về hình khối, màu sắc. Sự cảm nhận đó có khác gì so với sự cảm nhận của người lớn, của từng lứa tuổi khác nhau. Nó có những thuận lợi khó khăn gì và những điểm mạnh điểm yếu trong cách nhìn nhận, cảm thụ của học sinh THCS. Đó là những điều cần phải tìm hiểu nghiên cứu tìm hiểu để bổ sung vào lượng kiến thức chuyên môn của người giáo viên giảng dạy mĩ thuật.
B/ . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Sự hình thành và phát triển ngôn ngữ tạo hình
1. Những nét chung.
Qua lịch sử chúng ta thấy rằng con người bắt đầu vẽ từ rất sớm, trước khi có chữ viết và tiếng nói. Trong các hang động ta bắt gặp những hình vẽ hết sức sống động, nhưng những tác phẩm lúc bấy giờ chỉ nhằm đáp ứng nhu cầu cuộc sống như trao đổi thông tin với nhau thay cho tiếng nói. Ví dụ : “ hình vẽ một quả và mũi tên chỉ vào miệng là quả ăn được” và những hình ảnh chỉ cái không ăn được, cái để làm công cụ...Nói như vậy tức là vẽ xuất hiện từ rất sớm nhưng con người chưa ý thức được vẻ đẹp ý nghĩa hình khối, màu sắc và tác dụng của nó đối với đời sống tinh thần, chỉ đơn thuần vẽ để đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin.
Cũng tương tự như thế, với trẻ em những nét vẽ ngoằn ngèo và những màu sắc trắng đỏ xanh được trẻ đặt cạnh nhau làm cho trẻ có vẻ thích thú, nhung chúng ta cũng không thể coi đó là vẽ mà đúng hơn là trẻ đang hoạt động để tự hoàn thiện và phát triển cơ bắp, hoạt động này chỉ được xem là hoạt động bản năng. Nó chỉ có thể coi là hoạt động vẽ khi bắt đầu ý thức được vẻ đẹp màu sắc, hình khối, đường nét...và hình vẽ của trẻ ngày càng được hoàn thiện hơn, nhiều chi tiết hơn, là phương tiện để diễn tả thế giới xung quanh đầy màu sắc theo suy nghĩ sự cảm nhận và lý giải của bản thân.
2. Cách nhìn và cách cảm nhận:
Ở từng lứa tuổi thì sẽ có những cách nhìn và cách cảm nhận khác nhau, tạo nên những nét đặc trưng ngôn ngữ tạo hình riêng của từng lứa tuổi, nó khác với những nhà họa sĩ người nghiên cứu, khác với người lớn, thầy cô giáo. Cùng với thời gian và sựu phát triển trí tuệ, nét vẽ bài vẽ của trẻ ngày một khác hơn, gần giống với thật hơn. Vẽ như thế nào cho đẹp cho đúng đã được trẻ quan tâm và tìm hiểu.
Và ở mỗi người thì sự cảm nhận cách lý giải sự vật hiện tượng cũng khác nhau. Ở mỗi thời điểm khác nhau trẻ 1- 2 tuổi sẽ nhìn nhận sự vật khác với trẻ 5-6 tuổi cũng như 10-11 tuổi. Sự thay đổi đi cùng với sự phát triển trí tuệ và đối tượng. Có trẻ thích vẽ và tiếp tục phát triển với khả năng của mình nhưng có trẻ lại không. Đến một giai đoạn nào đó lại chuyển hoạt động, không còn thích thú với hoạt động vẽ nữa. Điều đó cho thấy rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cách nhìn, cách cảm nhận của trẻ trong đó sự phát triển là yếu tố để hình thành ngôn ngữ tạo hình của trẻ trong từng giai đoạn nói chung.
II. Ngôn ngữ tạo hình ở học sinh THCS qua phân môn vẽ tranh.
1. Khả năng cảm nhận của học sinh THCS.
1.1. Đặc điểm tâm lý:
Lứa tuổi học sinh THCS, tuổi từ 11-15 đang theo học từ lớp 6- 9. Là lứa tuổi bướng bỉnh, khó bảo với sự mạnh mẽ về tâm sinh lý, biểu hiện tình cảm rõ ràng, sự yêu, sự ghét. Đồng thời có biểu hiện cửa sự e thẹn, ngại ngùng, ảnh hưởng đến kết quả bài vẽ của các em. Tronng quá trình làm bài các em thường che bài vẽ của mình không để thầy cô giáo thấy, đồng thời cảm giác mình đã lớn nên các em muốn độc lập trong bài vẽ của mình muốn thể hiện bản lĩnh của bản thân rằng mình sẽ làm được, sẽ vẽ được; nhưng khi bắt tay vào bài vẽ thì đa số các em không thể hiện được ý tưởng của mình. Vì sao?
Sự phát triển thể chất tâm lý, trí tuệ mạnh mẽ nhưng không đồng đều. Đa phần các em còn bỡ ngỡ vụng về trong khi vẽ, điều chỉnh hình vẽ nét bút không theo suy nghĩ của bản thân. Lứa tuổi này còn ở tổi ăn tuổi ngủ, ham thích vui chơi hoạt động, do đó trong bài vẽ đặc biệt là các bức tranh đề tài thể hiện dấu ấn của sự trẻ trung hồn nhiên ngây thơ, ngộ nghĩnh và hết sức chân thành.
Ở học sinh THCS đa số các em thích vẽ theo suy nghĩ, ý thích của mình hơn là vẽ theo sự hướng dẫn của giáo viên. Nghĩ gì và vẽ nấy, đặt bút vào là vẽ không theo trình tự khuôn khổ các bước vẽ. Chính vì vậy người giáo viên cần hiểu và hướng dẫn các em dần dần, để các em nắm bắt và thấy được tác dụng của việc vẽ tranh đúng đem lại cho bài vẽ của mình có một kết quả tốt.
1.2 Khả năng cảm nhận trong phân môn vẽ tranh của học sinh THCS:
Học sinh THCS có ngôn ngữ tạo hình có gì đó rất đơn giãn nhưng cũng rất sáng tạo phong phú. Các em thường vẽ tranh theo nhiều nội dung đề tài khác nhau, một số em cũng tìm cho mình nội dung và cách thể hiện rất dí dỏm, có nhiều bố cục lạ, đẹp mắt. Nhưng cũng không ít bố cục thể hiện sự lõng lẽo vụng về, lúng túng của các em trong khi xây dựng bố cục. Về hình tượng thì phần đa các em chưa có suy nghĩ tìm tòi về dáng, hình, động tác và nhất là những đặc điểm điển hình trong từng loại đề tài hay nội dung mà các em chọn. Bởi hình tượng các em chọn để vẽ còn chung chung, thiếu cái động, tĩnh; thiếu chiều sâu bức tranh. Các em vẽ trnh đơn giãn chỉ là kể, tả lại những hoạt động, động tác của nhân vật, người hay vật hay một quang cảnh nào đó. Đa số học sinh thể hiện màu sắc trong tranh thường rực rỡ, đôi khi trở nên đối lập về màu sắc khiến trong tranh trở nên khô cứng ngay cả tranh về đề tài thơ mộng. Những đề tài được các em ưa thích nhất thường là tranh phong cảnh. Bởi vì đó là thứ gần gũi được các em quan sát thu nhận một cách thường xuyên thể hiện trí tưởng tượng ghi nhớ của các em hết sức phong phú đa dạng. Nghệ thuật ngôn ngữ tạo hình cũng từ đó mà được hình thành. Bộc lộ với những đặc trưng riêng của từng lứa tuổi.
Chất liệu mà các em thể hiện chủ yếu là bút dạ, màu nước ngoài ra còn có bút sáp và màu bột. Chính vì thế mà tranh của các em thường là những gam màu rất sống động, tươi vui. Vì vậy đa phần những bài vẽ của các em có sự chênh lệch về gam màu đậm nhạt rất lớn. Nhưng nhìn chung các em đã thể hiện được đâu là hình ảnh chính - phụ để vẽ màu.
2. Hứng thú học tập trong phân môn vẽ tranh ở học sinh THCS:
Nhìn chung phân môn này được đông đảo học sinh ưa thích bởi tính tự do, ít gò bó. Nói như vậy nhưng dù ít dù nhiều thì vẽ tranh cũng phải tiến hành theo các bước và cũng có cách thức riêng mà tùy vào đặc điểm ngôn ngữ tạo hình của từng lứa tuổi, giai đoạn mà có cách thể hiện và sử dụng khác nhau. Tuy nhiên ở đây chúng ta tìm hiểu lứa tuổi học sinh THCS trong phạm vi phân môn vẽ tranh với nội dung cụ thể sau:
Về bố cục:
Bài vẽ tranh đề tài của các em học sinh trường THCS Bu Prăng chủ yếu khối 6,7 8,9. Điểm chung nổi bật của các em khi tiến hành bài vẽ là không tuân theo trình tự các bước vẽ , nhiều em vẽ thẳng hình vào giấy, nghĩ gì là thể hiện ra mà không chú ý bố cục sắp xếp chính - phụ, dẫn đến bố cục bị to bị lệch. Có em thì bố cục lõng lẽo, có em thì chật chội...dẫn đến kết quả bài vẽ chưa cao. Các em phải thực hiện theo các bước vẽ như sau:
Bước vẽ 1 ( Chọn nội dung đề tài và Bước vẽ 2 ( Phác hình bằng các nét thẳng )
phác mảng chính – phụ )
Bước vẽ 3 ( Vẽ hình chi tiết ) Bước vẽ 4 ( Vẽ màu – vẽ đậm nhạt )
Ý thức về bố cục của các em chưa được rõ ràng. Bố cục như thế nào là đẹp? Và như thế nào là bố cục? Có nhiều em hiểu rằng bố cục là sự sắp xếp các mảng chính – phụ sao cho hợp lý, các mảng không đều nhau, mảng chính trước mảng phụ sau; nhưng khi làm bài lại bỏ qua một bên không cần biết chính – phụ là gì. Điều đó cho thấy giữa thực hành và lý thuyết còn cả một khoảng cách lớn, đối với các em có lẽ thực hành là một chuyện còn lý thuyết lại là chuyện khác, cái cốt yếu là mình thích mình vẽ. Nói thế nhưng cũng có một số em ý thức được bố cục đẹp hợp lý đem lại kết quả cao cho bài vẽ.
Về đường nét:
Đa số các em đã biết kết hợp giữa nét cong mềm mại để vẽ người và nét thẳng để vẽ nhà cửa, một số cảnh vật; có sự kết hợp những nét cong mềm mại với nét thẳng chắc khỏe. Tuy nhiên để bắt đầu bài vẽ các em thường đi ngay vào những nét vẽ chính không có sự phác nét trước, nét vẽ thiếu dứt khoát linh hoạt và còn lưỡng lự, khô khan, nét vẽ cứng. Đặc biệt khi vẽ khuôn mặt hay chân tay của người thì đa phần các em chỉ vẽ mô phỏng tượng trưng là chủ yếu. Nhưng đó cũng là cái riêng ở lứa tuổi các em, làm cho bức tranh của các em có vẻ gì đó ngộ nghĩnh, dí dỏm hồn nhiên.
Vì vậy mà người giáo viên phải biết được đặc trưng đường nét ở lứa tuổi của các em để có cách nhận xét đánh giá cho phù hợp. Tuy nhiên cũng cần có phương pháp nắm bắt và uốn nắn dần tỉ mĩ cho các em để các em vẽ bài linh hoạt hơn, nâng cao kỹ năng vẽ hình cho các em.
Về hình khối:
Đa số các em học sinh THCS Bu P Răng khi vẽ tranh đề tài đều không chú ý đến hình khối, vẽ chỉ là một mảng bẹt, thiếu chiều sâu cho không gian. Thực tế các em vẽ người hay cảnh vật chỉ chú ý diễn tả chiều rộng và cao của nhân vật, chiều sâu do định luật xa gần tạo nên, các em không nắm bắt được... có chăng chỉ diễn tả được rất ít rằng người ở gần thì to, người ở xa thì nhỏ. Còn lại đều ngang nhau cùng nằm trên một mặt phẳng, nó mang tính chất trang trí là chủ yếu kết hợp với những đường viền đậm. Một điều đáng lưu ý nữa là khi các em vẽ tranh đề tài thì từ bước 1 ( phác bố cục ) nhưng khi sang bước 2 vẽ hình thì đa số các em nếu thực hiện thì hình vẽ thường vượt ra khỏi bố cục đã phác hoặc nhỏ hơn, dẫn đến hình vẽ không cân đối.
Về màu sắc:
Màu sắc là yếu tố đặc biệt tạo được hứng thú nhất cho học sinh. Phần lớn do màu sắc là yếu tố tác động mạnh đến khía cạnh thị giác của con người, nhất là lứa tuổi học sinh THCS. Đại đa số các em thích vẽ màu, đặc biệt là ở phân môn vẽ tranh, phần vẽ hình vẽ đường nét được các em vẽ nhanh và các em dành phần lớn thời gian để vẽ màu. Vẽ màu kĩ, những màu sắc sặc sỡ, bắt mắt thường là những màu được các em sử dụng nhiều nhất . một số học sinh có cách nhìn màu rất tốt, sự cảm thụ màu hết sức nhạy cảm. Các em đã bắt đầu có sự suy nghĩ tìm tòi, đầu tư về màu sắc trong bài vẽ của mình. Một số em đã biết cách pha màu, chồng màu; kéo màu từ mảng chính ra xung quanh một cách hợp lý, làm nổi bật trọng tâm của bài vẽ nhưng vẫn tạo được sự hài hòa về màu sắc.
Tuy nhiên nhiều em còn chưa thể hiện được độ đậm nhạt ở trong bức tranh làm cho bức tranh đều đều màu sắc dàn trải, không tạo được chiều sâu của bức tranh như là ( gần thì to, xa thì nhỏ; gần thì rõ, xa thì mờ ). Nên tranh của các em mang đậm tính chất trang trí.
Màu sắc nổi bật ở đây là gam màu tươi vui sống động, mầu sắc trẻ trung, nhung cũng có những bài gam màu hài hòa, nhẹ nhàng trong sáng...
C /. THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC:
Qua việc tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ tạo hình trên ta thấy rằng, việc nắm bắt vấn đề và tìm phương hướng giải quyết vấn đề đó là điều hết sức quan trọng, đảm bảo cho tiết dạy bài dạy hiệu quả hơn, đem lại sự thành công trong công tác giảng dạy.
Thực trạng học tập:
Học sinh chưa nắm bắt được cách xây dựng hình tượng điển hình. Bài vẽ còn chung chung, mang nặng tính chất hình thức.
Học sinh THCS có cách nhìn, cách cảm nhận màu hết sức trong sáng, lung linh đầy màu sắc. Là một sự kết hợp những màu sắc tươi sáng tạo sự trẻ trung cho bài vẽ.
Trong khi tiến hành bài vẽ các em không theo trình tự tiến hành các bước làm bài mà làm theo ngẫu hứng, thích vẽ cái gì thì vẽ cái ấy, ít chú trọng trước sau hay chính – phụ trong bài vẽ.
Học sinh THCS chưa có thói quen sưu tầm tài liệu phục vụ cho bài vẽ hiệu quả hơn, chưa có thói quen quan sát nhận xét sự vật hiện tượng cho bài vẽ có chiều sâu và hiệu quả hơn.
Kỹ năng sử dụng màu nước, màu bột của học sinhTHCS còn kém.
Từ những vấn đề cơ bản đó thì đối với phân môn vẽ tranh, phương pháp giảng dạy phù hợp là phương pháp quan sát và phương pháp liên hệ với thự tiễn cuộc sống. Ngoài ra còn là sự kết hợp các phương pháp dạy học như gợi mở, vấn đáp, luyện tập – thực hành...
Vẽ tranh đề tài thì việc liên hệ với thực tiễn cuộc sống là điều hết sức quan trọng, đảm bảo cho việc tìm và lựa chọn hình tượng được sâu sắc hơn, nêu rõ trọng tâm đề tài hơn.
II. Biện pháp giúp học sinh học tốt và nâng cao chất lượng bài vẽ ở phân môn vẽ tranh:
Chuẩn bị:
Trước khi dạy một bài vẽ tranh đề tài thì khâu chuẩn bị là rất quan trọng, nhất là đồ dùng dạy học.
Về phía giáo viên ngoài việc chuẩn bị giáo án, phương pháp dạy học thì một điều không thể thiếu đó là đồ dùng trực quan ( tranh, ảnh minh họa ) vì ở lứa tuổi trẻ em thì tranh ảnh nó có tác dụng rất mạnh đến khía cạnh thị giác và trí nhớ của các em. Do vậy cần phải có đồ dung trực quan phong phú và phải biết sử dụng đúng lúc.
Về phía học sinh cũng phải có sự chuẩn bị đầy đủ sách vở, giấy vẽ, màu, chì, tẩy những đồ dùng cần thiết cho học sinh. Ngoài ra phải tìm hiểu và quan sát tham khảo những đề tài mà mình sẽ thể hiện trước khi làm bài.
Khi soạn giáo án cần soạn kỹ, biết chắt lọc những lời thoại, câu hỏi chính và câu hỏi gợi mở phải rõ ràng, dễ hiểu nhằm tạo hứng thú và sôi nổi trong từng đối tượng học sinh. Nên tránh những câu hỏi dài khó hiểu và những câu hỏi lững.
+ Đối với học sinh kém cần gợi mở cụ thể hơn giúp các em nhận ra chỗ chưa đúng, chưa đẹp để bài vẽ đẹp hơn. Ví dụ: bố cục còn lõng lẽo quá không, hay mau sắc có lộn xộn quá không?...
+ Đối với học sinh khá, trung bình thì có thể gợi mở để các em tự tìm ra, tự điều chỉnh hay sửa chữa. Ví dụ: Chỗ này, màu này như thế nào? Làm sao cho bài vẽ đẹp hơn?
+ Với học sinh giỏi thì yêu cầu cao hơn. Ví dụ: Thử tìm xem bài vẽ có chỗ nào chưa hợp lý? Có thể vẽ khác được không?
Để phục vụ cho quá trình lên lớp tốt, giáo viên cần phải có thời gian và quá trình thâm nhập giáo án kĩ càng, phải nắm vững tiến trình bài dạy. Để vừa đảm bảo tiến trình bài dạy vừa giúp học sinh tiếp thu bài một cách có hiệu quả nhất điều cốt yếu nhất là phát huy tính tích cực sáng tạo của từng em, đồng thời phải tạo được bầu không khí vui vẻ thoải mái trong khi các em làm bài.
Giáo viên phải phân tích kỹ các bước tiến hành một bài vẽ tranh đề tài được thực hiện theo những bước nào? Những bước đó là gì? Kết hợp đồ dùng để học sinh dễ nắm bắt và bài vẽ của học sinh năm trước để các em có thể thấy được mức độ thể hiện bài, tham khảo tranh của các họa sĩ về nội dung. Tùy vào số lượng bài mà những bài sau có thể giảm thời lượng lý thuyết, tăng dần thời gian thực hành, hướng các em đi vào trình tự các bước vẽ tranh.
Vận dụng triệt để lợi thế khoa học công nghệ thông tin để đem lại hiệu quả caotrong công tác giảng dạy. Cho nên là người giáo viên nói chung, giáo viên mĩ thuật nói riêng cần phải nhanh chóng tiếp cận nắm bắt những lợi thế mà khoa học đem lại, tạo hứng thú và sự đổi mới trong cách giảng dạy.
Phần lên lớp:
Giáo viên phải linh hoạt trong thời gian lên lớp. Phải đảm bảo quy trình thời gian, phân chia lớp hợp lý, giúp các em nhận thức và hiểu được bài học ngay tại lớp, giúp các em vẽ được một bài vẽ tranh theo ý thích đúng quy trình thực hiện các bước vẽ.
+ Hướng dẫn học sinh khai thác nội dung:
Qua hình minh họa, giáo viên gợi ý giúp các em hiểu sâu hơn về đề tài, tìm ra được cách thể hiện ( cách vẽ ) khác nhau, tìm ra những ý tưởng hay dí dỏm cho tranh của mình.
Hướng dẫn học sinh cách vẽ:
Nên giới thiệu qua đồ dùng minh học và kết hợp trực tiếp minh họa bảng để học sinh nhận thức rõ ràng hơn trình tự các bước cũng như ưu điểm khi tiến hành theo trình tự các bước đem lại vầ nó cụ thể hơn khi chỉ là những lý thuyết sáo rổng. Nếu như giới thiệu nội dung rồi mới chỉ vào tranh e rằng học sinh không chú ý, không nhận ra được cách tiến hành ( đâu là mảng, đâu là hình trong mảng )
Tìm bố cục, phác mảng chính – phụ sao cho hợp lý, cân đối với tờ giấy rõ trọng tâm, rõ nội dung thể hiện được chủ đề.
Vẽ hình, vẽ màu phải rõ đặc điểm của đối tượng không vẽ chung chung. Vẽ màu thì không vẽ quá chi tiết cụ thể sẽ rất khó để thể hiện, màu có thể vẽ như thực hoặc theo cảm hứng. Song cần chú ý giữa tương quan giữa các màu, không vẽ độc lập từng màu, chú ý đến độ đậm nhạt của các gam màu để thể hiện được tính chất bài vẽ.
+ Hướng dẫn học sinh làm bài:
Giáo viên cố gắng làm việc với nhiều học sinh và bao quát tổng thể lớp giúp các em tìm cách thể hiện ý tưởng của bản thân, bố cục mảng, vẽ hình, tìm màu. Dùng phương
pháp gợi mở trong khi hướng dẫn học sinh vẽ tranh sẽ đạt hiệu quả cao cả.
Bên cạnh đó phương pháp giảng dạy phù hợp ở phần thực hành cũng rất quan trọng. Cần xác định được nội dung kiến thức trọng tâm và yêu cầu hợp lý với đối tượng học sinh.
Luôn tạo được bầu không khí thoải mái nhẹ nhàng vui vẻ trong tùng tiết dạy theo đặc điểm riêng trong từng phân môn.
Phải dự kiến được các tình huống sư phạm có thể xảy ra và xử lý linh hoạt đem lại hiệu quả giáo dục cao. Ngoài ra cần phải cho học sinh thấy được tầm quan trọng của việc nắm vững kiến thức lý thuyết, vận dụng kiến thức vào bài vẽ một cách linh hoạt không máy móc để làm cho bài vẽ sống động hơn, có hồn hơn. Tiến tới việc nắm bắt cách thức sáng tạo một bức tranh riêng đi sâu vào chuyên ngành mình lựa chọn.
D/ . BÀI HỌC KINH NGHIỆM.
Qua quá trình công tác, trực tiếp đứng lớp tham gia giảng dạy, bản thân cũng đã rút ra được một số kinh nghiệm bổ sung vào vốn kiến thức hiện có để ngày càng hoàn thiện bản thân hơn trong
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tìm hiểu một số nét đặc trưng ngôn ngữ tạo hình ở học sinh THCS thông qua phân môn vẽ tranh.doc