Đề tài Tìm hiểu một số vấn đề về thừa kế và thực tiễn áp dụng tại thành phố Huế năm 2009

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

1. Tính cấp thiết của đề tài 1

2. Phạm vi nghiên cứu 3

3. Mục đích nghiên cứu 3

4. Đối tượng nghiên cứu 4

5. Cơ cấu bài niên luận 4

NỘI DUNG 5

CHƯƠNG 1. MỘT SỐ QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM 5

1.1. Khái niệm về thừa kế, quyền thừa kế 5

1.1.1. Khái niệm thừa kế 5

1.1.2. Khái niệm về quyền thừa kế 6

1.2. Một số quy định chung về thừa kế 6

1.2.1. Người để lại di sản thừa kế 6

1.2.2. Người thừa kế 7

1.2.3. Địa điểm mở thừa kế 8

1.2.4. Thời điểm mở thừa kế 8

1.2.5. Di sản thừa kế 8

1.2.6. Người quản lý di sản thừa kế 10

1.2.7. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế 10

1.2.8. Những quy định chung về thừa kế trong pháp luật Việt Nam 10

1.2.8.1. Thừa kế theo pháp luật 10

1.2.8.2 Chỉ định người thừa kế theo pháp luật 13

1.2.8.2. Thừa kế theo di chúc 14

CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ 18

2.1. Thực trạng áp dụng những quy định của pháp luật về thừa kế 18

2.1.1. Thực tiễn áp dụng chế định thừa kế ở Tòa án nhân dân thành phố Huế trong năm 2009 18

2.1.2. Những vướng mắc và giải pháp nâng cao trong việc áp dụng những quy định của pháp luật về thừa kế 20

2.1.2.1. Nhiều quy định pháp luật còn mâu thuẫn 20

2.1.2.2. Pháp luật còn nhiều vướng mắc 21

2.1.3. Nguyên nhân của vướng mắc trong quá trình giải quyết vấn đề thừa kế 27

2.2. Một vài giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng thừa kế 29

2.2.1. Hoàn thiện các quy định của Bộ luật dân sự và các luật liên quan 29

2.2.2. Hướng dẫn thi hành pháp luật về thừa kế 29

KẾT LUẬN 31

 

 

doc33 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 13772 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu một số vấn đề về thừa kế và thực tiễn áp dụng tại thành phố Huế năm 2009, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ia thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc. - Tài sản chung của người chết trong khối tài sản chung với người khác: Như phần tài sản của người chết trong khối tài sản chung với người khác trong trường hợp hợp tác kinh doanh, lao động sản xuất, làm ăn, đầu tư chung, tài sản của vợ chồng được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân.                     Điều đáng chú ý ở trường hợp này là không phải tất cả các tài sản, quyền tài sản đều được xem là di sản thừa kế. Quyền tài sản và nghĩa vụ tài sản gắn liền với nhân thân người để lại di sản không được coi là di sản  thừa kế, như: quyền nhận trợ cấp, quyền được nhận lương, nghĩa vụ cấp dưỡng của người để lại di sản khi còn sống cho quan hệ hôn nhân và gia đình (cho con chưa thành niên, con thành niên nhưng không có khả năng lao động…). Vì những quyền và nghĩa vụ tài sản này chấm dứt khi người để lại di sản chết mà pháp luật quy định không được chuyển cho những người thừa kế 1.2.6. Người quản lý di sản thừa kế Người quản lý di sản thừa kế là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra. Trong trường hợp di chúc không chỉ định người quản lý di sản và những người thừa kế chưa cử được người quản lý di sản thì người đang chiếm hữu, sử dụng, quản lý di sản tiếp tục quản lý di sản đó cho đến khi những người thừa kế cử được người quản lý di sản. Trong trường hợp chưa xác định được người thừa kế và di sản chưa có người quản lý thì di sản do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý. (điều 638 Bộ luật dân sự). 1.2.7. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản để lại là ba năm kể từ thời điểm mở thừa kế. 1.2.8. Những quy định chung về thừa kế trong pháp luật Việt Nam 1.2.8.1. Thừa kế theo pháp luật  * Khái niệm thừa kế theo pháp luật Thừa kế theo pháp luật là việc di chuyển tài sản của người chết cho những người thừa kế theo qui định của pháp luật. Từ định nghĩa trên chúng ta có cơ sở để xác định thừa kế theo pháp luật trên cơ sở có quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng đối với người để lại thừa kế, họ được hưởng di sản một cách công bằng, phù hợp với ý chí của Nhà nước và đạo đức xã hội Việt Nam. Những người được hưởng thừa kế theo qui định của pháp luật không phụ thuộc vào năng lực hành vi. Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2005 thì các trường hợp thừa kế theo pháp luật được xác định như sau: Không có di chúc; di chúc không hợp pháp; những người thừa kế theo di chúc đều chết trước người lập di chúc hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế; những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản, hoặc từ chối quyền hưởng di sản; phần di sản không được định đoạt trong di chúc; phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực; phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản hoặc chết trước người lập di chúc, từ chối quyền hưởng di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được thừa kế theo di chúc, nhưng không còn vào thời điểm mở thừa kế. * Điều kiện đối với người thừa kế Một người chỉ có thể được nhận di sản theo pháp luật khi họ có đầy đủ tư cách, có nghĩa rằng các nguyên tắc của pháp luật về thừa kế theo pháp luật quy định phạm vi những người thuộc các hàng thừa kế khác nhau, họ phải hiện hữu vào thời điểm mở thừa kế, thời điểm mà người để lại di sản chết theo quy định tại khoản 1 Điều 636 Bộ luật Dân sự 2005. Chính những lý luận và quy định trên nên điều 635 Bộ luật Dân sự 2005 nêu rõ: “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết”. * Người ở trong tình trạng không có quyền hưởng di sản Các trường hợp không có quyền hưởng di sản được qui định tại điều 643 Khoản 1 Bộ luật Dân sự như sau: + Người thừa kế bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó. Điều kiện chính đặt ra là người thừa kế phải có một bản án có hiệu lực pháp luật. + Người thừa kế vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản. + Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hay toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng. + Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, giả mạo, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hay toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản. Còn một số hành vi không được kể ra như sử dụng di chúc giả, giấu giếm di chúc,.. có thể được xử lý nhờ nguyên tắc áp dụng tương tự. Người không có quyền hưởng di sản được qui định trong 4 trường hợp nêu trên đều không có quyền hưởng di sản theo di chúc hay theo pháp luật. Tuy nhiên, nếu người để lại di sản biết hành vi của người đó nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc thì họ vẫn được hưởng di sản, (khoản 2 điều 643 Bộ luật Dân sự 2005). * Truất quyền hưởng di sản thừa kế theo pháp luật Truất quyền hưởng di sản chỉ là sự bày tỏ ý chí của người có di sản về việc không cho một người thừa kế nào đó hưởng phần di sản mà họ có thể được hưởng theo quy định của pháp luật. Người có di sản có thể truất quyền hưởng di sản của tất cả những người thừa kế theo pháp luật trừ những người hưởng di sản không phụ thuộc vào nội dung di chúc. * Truất quyền hưởng di sản được nói rõ Người lập di chúc có thể tuyên bố rõ là một hoặc nhiều người thừa kế theo pháp luật không có quyền hưởng di sản và sau đó có thể chỉ định rõ hoặc không chỉ định ai là người thừa kế theo di chúc hay là người được di tặng. * Truất quyền hưởng di sản không được nói rõ Người lập di chúc có thể chỉ định người hưởng di sản nhưng không đả động gì đến số phận của người thừa kế theo pháp luật không được chỉ định. Như vậy, người thừa kế không được chỉ định trở thành người bị truất quyền không được nói rõ. 1.2.8.2 Chỉ định người thừa kế theo pháp luật * Cơ sở để xác định diện và hàng thừa kế theo pháp luật Những người thân thuộc của người có di sản bao gồm con và cháu, chắt; cha, mẹ, ông, bà và những người thân thuộc bàng hệ. * Hàng thừa kế Hàng thừa kế thứ nhất: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Hàng thừa kế thứ hai: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết. Hàng thừa kế thứ ba: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, dì ruột, cô ruột, cậu ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết gọi là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, dì ruột, cô ruột. Tuy nhiên, chúng ta cần phải chú ý một số điểm sau: + Vợ hay chồng nói ở trên phải là vợ, chồng của hôn nhân hợp pháp hoặc hôn nhân thực tế. Nếu một người có nhiều vợ (chồng) trước ngày 13-1-1960 (ở miền Bắc) - ngày công bố Luật HN & GĐ - và trước ngày 25-3-1977-ngày công bố danh mục các văn bản luật được áp dụng thống nhất trong cả nước (ở miền Nam) thì tất cả các người vợ đều được thừa kế ở hàng thứ nhất và người chồng được thừa kế của tất cả các người vợ. + Vợ (chồng) đã chia tài sản chung; đã ly hôn nhưng bản án chưa có hiệu lực pháp luật; người đã kết hôn với người khác sau thời điểm mở thừa kế vẫn được thừa kế di sản. + Một người có bao nhiêu người con đều là con đẻ của người đó và hưởng ở hàng thừa kế thứ nhất. + Con nuôi được thừa kế của cả cha mẹ đẻ lẫn cha mẹ nuôi và cha mẹ được thừa kế của cả con đẻ lẫn con nuôi. + Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc nuôi dưỡng như cha con, mẹ con được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế theo quy định về thừa kế theo pháp luật và thừa kế thế vị Bộ luật dân sự. + Con riêng của vợ và của chồng không phải là anh chị em ruột của nhau. + Con nuôi của một người không đương nhiên trở thành anh chị em ruột của con đẻ người đó. Thừa kế thế vị Là trường hợp chỉ áp dụng cho thừa kế theo pháp luật, không áp dụng cho thừa kế theo di chúc; quy định này chỉ áp dụng trong trường hợp người được hưởng di sản chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản. Cụ thể, nếu con của người được để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng nếu còn sống, nếu cháu cũng chết cùng hoặc trước người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà đáng ra cha hoặc mẹ của chắt được hưởng  nhưng do đã bị chết. Có thể diễn giải nội dung này thông qua một ví dụ như: A có con là B, cháu là C, Chắt là D. Nhưng do B chết cùng hoặc trước A thì C (cháu được hưởng) phần di sản thừa kế của B. Nếu C cũng chết cùng hoặc trước B thì D được hưởng phần di sản thừa kế đó. Trước đây Bộ luật dân sự 1995 quy định về thừa kế thế vị chưa rõ ràng và chưa đúng với thực tiễn đó là: nếu con chết cùng thời điểm với người để lại di sản thì cháu không được hưởng thừa kế thế vị của người để lại di sản. Tại Bộ luật dân sự 2005 Điều 677 đã quy định rõ trường hợp được hưởng thừa kế thế vị này. 1.2.8.2. Thừa kế theo di chúc Những nội dung phân tích, bình luận và lí giải trên tập trung nêu rõ những quy định của phần thừa kế theo pháp luật quy định trong luật pháp Việt Nam. Như chúng ta đã biết, thừa kế ngoài những vấn đề được nêu rõ trong di chúc theo pháp luật thì cũng quy định mang tính Nhà nước về thừa kế theo di chúc. Những quy định này giúp cho các nhà làm luật, các nhà thực hiện pháp luật và mọi công dân có thể tìm hiểu, áp dụng và đối chiếu trong thực tiễn cuộc sống khi gặp vấn đề liên quan đến thừa kế. Vậy trong Bộ luật dân sự Việt Nam thừa kế theo di chúc được quy định như thế nào? Trong quy định về thừa kế theo di chúc, chúng ta cần làm rõ được giá trị pháp lý của nguyên tắc tự do định đoạt, tự do ý chí trong phần này; điều kiện để di chúc có giá trị pháp lý (chưa hẳn đã có hiệu lực pháp lý vì có những quy định có thể sẽ vô hiệu hóa hiệu lực của di chúc cho dù di chúc đáp ứng các điều kiện về hình thức và nội dung theo quy định. Trước hết ta xét điều kiện để di chúc có hiệu lực: + Người lập di chúc phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Người từ 15 đến chưa đủ 18 tuổi là người có hành vi dân sự chưa đầy đủ nhưng vẫn được lập di chúc và di chúc chỉ được coi là hợp pháp khi việc lập di chúc đó được sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ và di chúc đó phải được lập thành văn bản. Về nội dung di chúc do người chưa thành niên đó quyết định nhưng nếu phát hiện thấy có hành vi lừa dối, cưỡng ép người chưa thành niên trong việc lập di chúc thì cha mẹ hoặc người giám hộ có thể giám sát nội dung di chúc, có quyền khởi kiện để yêu cầu tòa án giải quyết. + Nội dung di chúc không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. + Người lập di chúc phải hoàn toàn tự nguyện, minh mẫn, sáng suốt, không bị đe dọa, nhầm lẫn, lừa dối. + Hình thức di chúc phải phù hợp với quy định của pháp luật (bằng văn bản hoặc lời nói). Hình thức của di chúc gồm di chúc bằng văn bản và di chúc bằng lời nói Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho một người khác sau khi chết. Điều 649 Bộ luật dân sự. Về lập di chúc: Từ khái niệm nêu trên, chúng ta nhận thấy rằng di chúc là một phương tiện để một người thể hiện ý chí khi muốn chuyển giao tài sản của mình cho một người khác và việc quyết định thừa kế theo di chúc nhằm đảm bảo cho chủ sở hữu được quyền định đoạt tài sản của mình ngay cả khi họ đã chết. Xuất phát từ các đặc điểm đã nêu, di chúc có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và mỗi một hình thức phải tuân thủ một số điều kiện mà pháp luật quy định thì di chúc đó mới có giá trị pháp lý. + Di chúc bằng lời nói Điều 651 Bộ luật dân sự quy định di chúc có thể được thể hiện dưới hình thức miệng (lời nói) nếu không được thể hiện được dưới hình thức văn bản. Theo quy định của pháp luật thì trong trường hợp tính mạng của con người bị cái chết đe dọa do bệnh tất hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc bằng miệng (khoản 1 điều 651). Điều kiện để di chúc miệng có hiệu lực: + Người lập di chúc đang trong tình trạng tính mạng bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản được (sau ba tháng, tính từ thời điểm lập di chúc mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị hủy bỏ). + Di chúc miệng phải có ít nhất hai người trở lên làm chứng và phải là người ngoài những người được để lại thừa kế và ngay sau đó những người làm chứng phải ghi chép lại cùng ký tên, điểm chỉ xác nhận nội dung di chúc. + Trong thời hạn 05 ngày, kể từ lúc người để lại di chúc thể hiện ý chí cuối cùng di chúc do những người làm chứng đó phải được công chứng, chứng thực. + Di chúc bằng văn bản Nhằm ghi nhận một cách chính xác về việc thể hiện ý chí của người để lại di sản, di chúc bằng văn bản được xem là sự ghi nhận đầy đủ và chính xác ý chí của người để lại di sản, Điều 652 Bộ luật dân sự. Di chúc bằng văn bản bao gồm : - Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng: - Di chúc bằng văn bản có người làm chứng: - Di chúc bằng văn bản có chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn; di chúc bằng văn bản có chứng nhận của Công chứng nhà nước: Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được, thì phải: - Nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận vào bản di chúc trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. - Sau đó, những người có thẩm quyền chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng. Nội dung của di chúc thể hiện bằng văn bản phải đáp ứng đầy đủ các yêu cầu sau: di chúc phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc; họ, tên, và nơi cư trú của người lập di chúc; họ, tên của cá nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; khối lượng, giá trị di sản và địa điểm nơi có di sản; việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung nghĩa vụ; di chúc không được viết tắt hoặc bằng ký hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang đều phải được đánh số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của người lập di chúc, Điều 661 Bộ luật dân sự. Di chúc bằng văn bản có giá trị như công chứng, chứng thực: Di chúc của quân nhân tại ngũ, Di chúc của người đang đi trên máy bay, tàu biển, của người đang diều trị tại bệnh viện, của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng núi, hải đảo, di chúc của người Việt Nam đang ở nước ngoài, của người đang chấp hành phạt tù, đang bị tạm giam... Những trường hợp này, những người đứng đầu của các đơn vị tổ chức đó có thể xác nhận vào di chúc và di chúc có giá trị pháp lý như công chứng, chứng thực. CHƯƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHẾ ĐỊNH THỪA KẾ 2.1. Thực trạng áp dụng những quy định của pháp luật về thừa kế 2.1.1. Thực tiễn áp dụng chế định thừa kế ở Tòa án nhân dân thành phố Huế trong năm 2009 Huế là một trung tâm văn hóa lớn của tỉnh Thừa Thiên Huế với sự phát triển mọi mặt về kinh tế, chính trị, xã hội, y tế… và theo đó, vấn đề giải quyết thừa kế với số vụ án cũng tăng cao so với các năm trước. Điều này thể hiện ý thức của người dân trong vấn đề này cũng nâng cao. Theo thống kê của Tòa án nhân dân thành phố Huế, năm 2009 có 17 vụ án liên quan đến vấn đề thừa kế, trong đó có 10 vụ giải quyết được, 7 vụ chưa thể giải quyết được vì một số lý do khách quan nên gây ra tình trạng đọng án. Theo đánh giá của cơ quan Tòa án nhân dân thành phố Huế thì tỷ lệ án liên quan đến thừa kế ngày càng tăng cao nhưng vẫn chiếm tỷ lệ ít so với những tranh chấp khác mà tòa án thụ lý và giải quyết. Trên cơ sở những số liệu và nhận định về lượng án liên quan đến thừa kế, hàng năm sau khi đánh giá kết quả đạt được, Tòa án nhân dân thành phố Huế đã có một số nhận xét khách quan về những thuận lợi và khó khăn trong quá trình nhận đơn, thụ lý và giải quyết án thừa kế. Về thuận lợi: + Tòa án đã phân định được rõ ràng từng phần của từng người trong quá trình giải quyết tranh chấp liên quan, điều này phần nào đã thỏa mãn quyền lợi chính đáng của đương sự. + Trong quá trình chưa xét xử một số vụ án đã tiến hành hòa giải được, các đương sự đã nhận biết được quyền và nghĩa vụ của mình trong vấn đề liên quan đến tranh chấp trong thừa kế, đồng thời với sự tư vấn pháp luật của thẩm phán tòa án nên các đương sự đã hiểu các quy định hiện hành. Về khó khăn: + Về văn hóa: Như chúng ta đã biết, Huế là một trung tâm văn hóa phong kiến nổi tiếng, mặc dầu bước sang chế độ xã hội mới – Xã hội chủ nghĩa nhưng nếp sống phong kiến “trọng nam” vẫn ăn sâu trong đời sống của người dân thành phố Huế. Theo đó, những quyền lợi liên quan đến thừa kế cũng được ưu tiên cho con trai trong gia đình, họ tộc. Với những phong tục ấy nên nhiều vấn đề tranh chấp liên quan đến thừa kế người dân khó chấp nhận chia theo quy định của pháp luật. + Về đội ngũ thẩm phán còn mỏng so với nhu cầu thực tế trên địa phương, điều này cũng gây ra một số khó khăn cho đội ngũ cán bộ tòa án khó đảm nhiệm hết các công việc liên quan đến án thừa kế. Điều này được thể hiện qua quy trình chuẩn bị giải quyết một vụ án thừa kế, cán bộ tòa án làm rất nhiều công việc đòi hỏi thời gian và công sức như đi thu thập tài liệu, tiến hành xác minh tài liệu, triệu tập đương sự, lấy lời khai nhân chứng và phối hợp với chính quyền địa phương trong việc tìm hướng giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Không những thế, đội ngũ cán bộ tòa án, nghiệp vụ thẩm phán cũng có một số hạn chế trong giải quyết án. Việc cập nhật thông tin, tài liệu đổi mới cũng vấp phải những hạn chế… khiến cho quá trình giải quyết án thừa kế còn những vấn đề cần khắc phục hoàn thiện hơn. + Về vướng mắc nghiệp vụ: Theo nhận định của một số thẩm phán thuộc tòa án nhân dân thành phố Huế thì hiện nay một số văn bản quy định về giải quyết án liên quan đến thừa kế còn chồng chéo, thẩm quyền giải quyết vụ việc còn nhập nhằng nên làm cho các cơ quan đùn đẩy trách nhiệm và nhiều khi không biết thuộc cơ quan nào giải quyết cho người dân. Như trường hợp sau đây, theo quy định tại điều 136 Luật Đất đai, Nghị định 02/2009 xác định quyền sử dụng đất là một tài sản thừa kế nhưng trên thực tế có một số di sản không có tại các quy định tại Khoản 1, khoản 2, khoản 5 điều 50 Luật đất đai. Theo hướng dẫn 1568 thì sổ mục kê, sổ dã ngoại không quy định tại khoản 1, khoản 2 điều 50 Luật đất đai. Vì vậy, những quy định này gây vướng mắc thẩm quyền giữa ủy ban nhân dân và tòa án nhân dân. Nếu tính theo thực tế thì xem như không giấy tờ thì ủy ban nhân dân xã vẫn chưa tiến hành giải quyết vụ việc cho cho công dân. 2.1.2. Những vướng mắc và giải pháp nâng cao trong việc áp dụng những quy định của pháp luật về thừa kế 2.1.2.1. Nhiều quy định pháp luật còn mâu thuẫn Hiện nay, trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật xảy ra tình trạng các luật quy định một nội dung giống nhau nhưng lại không thống nhất với nhau. Việc không thống nhất giữa quy định của pháp luật dẫn đến khó khăn khi vận dụng vào thực tiễn. Theo đó, tại khoản 1 Điều 651 Bộ luật Dân sự quy định về hình thức di chúc miệng như sau: “trong trường hợp tính mạng của một người bị cái chết đe dọa di bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng. Và di chúc miệng được coi là hợp pháp, nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau đó, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng” Như vậy, theo quy định của pháp luật dân sự thì di chúc miệng chỉ được lập trong hoàn cảnh hết sức đặc biệt, đó là tính mạng của người để lại di chúc bị đe dọa, được hiểu là người di chúc không còn khả năng hoặc không thể lập di chúc bằng văn bản. Và nếu sau một thời gian, do pháp luật quy định mà người lập di chúc còn sống, minh mẫn sáng suốt thì di chúc miệng đó mặc nhiên vô hiệu. Pháp luật dân sự Việt Nam thừa nhận tính hợp pháp di chúc miệng với những điều kiện hết sức chặt chẽ. Tuy nhiên, với những quy định hiện hành thì di chúc miệng có còn là một loại hình di chúc hợp pháp nữa hay không và việc để lại di chúc miệng có thể thực hiện được không? . Nhưng pháp luật dân sự đã quy định, trường hợp để lại di chúc miệng là phải trước mặt hai người làm chứng và những lời di chúc đó sẽ được ghi chép lại và công chứng trong thời hạn năm ngày, sau thời hạn này di chúc mới được coi là hợp pháp. Luật Công chứng được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2006, có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2007 quy định rất cụ thể về thủ tục công chứng. Điều 48 Luật công chứng có quy định về công chứng di chúc người lập di chúc phải tự mình yêu cầu công chứng di chúc, không ủy quyền cho người khác công chứng di chúc… Quy định này của Luật công chứng chỉ đúng với trường hợp thực hiện công chứng đối với di chúc được lập thành văn bản. Còn đối với di chúc miệng thì người di chúc đã trong hoàn cảnh đặc biệt bị cái chết đe dọa thì không thể tự mình yêu cầu công chứng được. Nếu buộc người lập di chúc phải tự mình yêu cầu công chứng di chúc thì không còn tồn tại loại hình di chúc miệng nữa. Vì, nếu người để lại di chúc miệng có thể tự mình yêu cầu công chứng thì trong mọi trường hợp ý chí đó sẽ được công chứng viên ghi chép lại, có nghĩa là đều được thể hiện bằng văn bản, và thực hiện công chứng đối với văn bản được thành lập theo cách như vậy Như vậy, có thể thấy rằng với quy định trên, Luật Công chứng đã phủ nhận hoàn toàn tính hợp pháp của loại hình di chúc miệng và với quy định đó thì chỉ tồn tại duy nhất một loại hình di chúc, đó là di chúc bằng văn bản. Từ những phân tích trên cho thấy, giữa các luật quy định về cùng một nội dung đã xảy ra những sự mâu thuẫn với nhau. Chính sự mâu thuẫn này đã dẫn đến tình trạng vô hiệu hóa các quy định pháp luật trong các luật khác nhau, gây ra tình trạng khó áp dụng trong thực tiễn những quy định của pháp luật. Đây là vấn đề cần được xem xét kỹ lưỡng trong quá trình xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật để bảo đảm tính thống nhất và đồng bộ của hệ thống pháp luật hiện nay. 2.1.2.2. Pháp luật còn nhiều vướng mắc Chế định thừa kế trong Bộ luật Dân sự năm 2005 (có một số sửa đổi, bổ sung so với Bộ luật Dân sự năm 1995), thì có lẽ do đây là một chế định tương đối cụ thể, rõ ràng nên hiện nay vẫn chưa có kế hoạch xây dựng các văn bản dưới luật quy định chi tiết hay hướng dẫn thi hành. Trong khi đó, việc áp dụng chế định này trong thực tiễn vẫn còn nhiều vấn đề gây tranh cãi như sau: + Người thừa kế Pháp luật dân sự ghi nhận quyền thừa kế của cá nhân, tổ chức. Điều 638 BLDS quy định: - Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. - Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức, thì phải là cơ quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế ”. Tất nhiên, người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân, còn người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Vấn đề đặt ra cần làm rõ là: Thứ nhất, hiểu như thế nào về “người còn sống vào thời điểm mở thừa kế”, đặc biệt trong trường hợp những người thừa kế chết mà không xác định được ai chết trước, ai chết sau. Thực tế chỉ ra rằng, có nhiều trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau chết cách nhau một khoảng thời gian rất ngắn, vụ việc tranh chấp thừa kế một thời gian dài sau đó mới phát sinh, do vậy việc xác minh thời điểm chết của từng người rất khó khăn, tạo phức tạp trong quá trình giải quyết vụ án (có lẽ, trong những trường hợp này, căn cứ pháp lý duy nhất có thể tin cậy được là giấy chứng tử, nhưng trong nhiều trường hợp giấy chứng tử lại không ghi cụ thể giờ, phút chết của cá nhân). Điều 644 Bộ luật dân sự quy định: trong trường hợp những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết trong cùng một thời điểm hoặc được coi là chết trong cùng một thời điểm do không thể xác định được người nào chết trước, thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng. Quy định này xuất phát từ nguyên tắc: nghĩa vụ cung cấp chứng cứ thuộc về các đương sự. Trong cùng nội dung này, luật dân sự Pháp lại áp dụng nguyên tắc suy đoán pháp lý: “Đối với những người dưới 15 tuổi thì người nhiều tuổi hơn được suy đoán là chết sau; trên 60 tuổi thì người ít tuổi hơn được suy đoán là chết sau; nếu đàn ông và đàn bà không chênh nhau quá 3 tuổi thì đàn ông được suy đoán là chết sau đàn bà”. Chúng tôi cho rằng, đây cũng là một nguyên tắc cần xem xét, nghiên cứu khi sửa đổi Bộ luật dân sự. Thứ hai, điều luật cho phép người đã thành thai trước thời điểm mở thừa kế nhưng sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế vẫn có quy

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTìm hiểu một số vấn đề về thừa kế và thực tiễn áp dụng tại thành phố Huế năm 2009.doc
Tài liệu liên quan