Các giao dịch bảo đảm tiền vay bằng tài sản đóng vai trò to lớn trong việc cấp tín dụng, vừa giảm nguy cơ thiệt hại cho chủ nợ có bảo đảm, vừa góp phần làm cho các quan hệ vay vốn ngày càng minh bạch, có hiệu quả. Để các giao dịch bảo đảm tiền vay bằng tài sản an toàn đối với các khoản vay, tài sản bảo đảm phải thoả mãn các điều kiện: tài sản phải thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng, quản lý của khách hàng vay bên bảo lãnh, tài sản được phép giao dịch, tức là tài sản mà pháp luật cho phép hoặc không cấm mua bán, tặng cho, chuyển đổi, chuyển nhượng, cầm cố, thế chấp, và các giao dịch khác, tài sản không có tranh chấp về quyền sử dụng hoặc quyền sở hữu tại thời điểm ký kết hợp đồng đảm bảo. Đối với những tài sản mà pháp lụât quy định phải mua bảo hiểm thì khách hàng vay hoặc bên bảo lãnh phải mua bảo hiểm tài sản trong thời hạn bảo đảm tiền vay.Giao dịch bảo đảm tiền vay giữa khách hàng và TCTD là sự cam kết nghĩa vụ trả nợ tiền vay của khách hàng cho TCTD, hình thức thể hiện là hợp đồng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh bằng tài sản của người vay hoặc tài sản của người bảo lãnh, đây vừa là một giao dịch dân sự, vừa là hợp đồng phụ đi kèm với hợp đồng chính là HĐTD.
64 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5571 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu pháp luật về hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng và các biện pháp bảo đảm an toàn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đã thoả thuận xong các điều khoản của hợp đồng và bên sau cùng đã ký tên, đóng dấu (nếu có) và văn bản hợp đồng tín dụng. Theo quy định này việc chuyển giao tiền vay (giải ngân) là một nghĩa vụ hợp đồng của bên cho vay và nếu họ không thực hiện đúng hợp đồng này mà lại gây thiệt hại tính được thành tiền cho bên vay thì họ sẽ phải chịu trách nhiệm nộp phạt vi phạm hợp đồng và chịu cả trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Sự vô hiệu của hợp đồng tín dụng và các hậu quả pháp lý của sự vô hiệu:HĐTD đựơc coi là vô hiệu tuyệt đối khi mục đích, nội dung và hình thức của hợp đồng vi phạm các điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội hoặc phương hại đến lợi ích chung. Khi đó, bất ky ai quan tâm (chứ không phải là các bên ký kết hợp đồng) đều có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng tín dụng vô hiệu và thời hạn thực hiện quyền yêu cầu này là không hạn chế. Trong trường hợp vô hiệu tuyệt đối của hợp đồng tín dụng, các hậu quả pháp lý xảy ra cho sự vô hiệu này là: Hợp đồng không phát sinh hiệu lực kể từ thời đỉêm ký kết, các bên phải phục hồi tình trạng ban đầu như trước khi ký kết hợp đồng.
HĐTD bị coi là vô hiệu tương đối khi chủ thể tham gia hợp đồng không có hành vi dân sự hoặc hợp đồng ký kết không có sự tự nguyện và đồng thuận giữa các bên ký kết. Đối với trường hợp này, do việc ký kết hợp đồng tín dụng chỉ phương hại đến lợi ích chung của các bên ký kết chứ không vi phạm các điều cấm của pháp luật hoặc không phương hại đến trật tự công, lợi ích công nên Nhà nước cần phải tôn trọng quyền tự định đoạt của các bên, bằng cách chỉ tuyên bố vô hiệu đối với hợp đồng khi nhận được yêu cầu của các bên hoặc của một bên có quyền lợi bị phương hại, hoặc tạo cơ hội cho các bên tự khắc phục các vi phạm dẫn đến nguy cơ hợp đồng bị vô hiệu. Với trường hợp này, chỉ khi nào hết thời hạn cho phép để khắc phục các vi phạm đó nhưng các bên không thể khắc phục được thì khi đó, yêu cầu của bên có quyền lợi bị phương hại. Toà án mới chính thức tuyên bố HĐTD bị vô hiệu.
2.2.Những quy định của pháp luật về một số vấn đề khác đối với hoạt động cho vay của TCTD.
2.2.1.Quy định về nguyên tắc vay vốn và điều kiện vay vốn
Những quy định về nguyên tắc vay vốn tại điều 6 Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN” Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo: Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
….Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng”.
Những quy định về điều kiện vay vốn được quy định tại các văn bản:Luật các TCTD sửa đổi bổ sung năm 2004,điều 7 Quyết đinh 1627/2001/QĐ-NHNN.
Đây là một trong những điều kiện quan trọng đảm bảo việc kinh doanh có hiệu quả của các TCTD.Việc tuân thủ các nguyên tắc về vay vốn và điều kiện vay vốn sẽ giúp các TCTD tránh được các rủi ro trong quá trình kinh doanh ,bởi các TCTD có thể cho vay theo hình thức,phương thức,thời hạn khác nhau ,điều đó tùy thuộc vào nhu cầu và mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng với những đảm bảo cần thiết cho việc vay vốn.Do vậy,nó cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro cho các TCTD.Rủi ro có thể từ phía người vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi khi đến hạn thanh toán hay rủi ro xuất phát từ phía TCTD do cách tổ chức, quản lý hoạt động kinh doanh kém, không hiệu quả, kinh doanh không có lãi.Việc thực hiện đúng các nguyên tắc và điều kiện vay vốn sẽ đảm bảo hoạt động kinh doanh của TCTD ,cũng như vị trí và uy tín của TCTD đó trên thương trường.
2.2.2.Quy định về lãi suất
Pháp luật không có quy định cụ thể về mức lãi suất cho vay,mà mức lãi suất cho vay là do TCTD và khách hàng thỏa thuận phù hợp với các quy định của NHNN Việt Nam.Theo các quy định của các văn bản trước đấy thì mức lãi suất cũng theo sự thỏa thuận của TCTD với khách hàng,và mức lãi suất cũng sẽ phải“thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng Đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Tổ chức tín dụng xác định lãi suất cho vay bằng Đồng Việt Nam trên cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng vay là các pháp nhân và cá nhân Việt Nam, pháp nhân và cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục công bố lãi suất cơ bản trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các tổ chức tín dụng được lựa chọn theo Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong từng thời kỳ để làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường, phù hợp với quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; đồng thời chủ động áp dụng các biện pháp để kiểm soát biến động của lãi suất thị trường, đảm bảo được yêu cầu và mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ.(Quyết định 546/2002/QĐ-NHNN).
Theo quy định trên thì NHNN chỉ đề ra mức lãi suất cơ bản chứ không đề ra một mức lãi suất cụ thể.Một mặt ,tạo điều kiện thuận lợi cho các TCTD trong việc xác định mức lãi suất phù hợp cho từng đối tượng khách hàng vay khác nhau.Tuy nhiên,nó cũng bộc lộ một vấn đề đó là liệu có dấn đến việc áp dụng mức lãi suất không công bằng giữa các đối tượng khách hàng có đủ những điều kiện như nhau ?Liệu có xảy ra trường hợp có sự” ưu ái “ của TCTD đối với đối tượng khách hàng đặc biệt “?Đây là một vấn đề cần phải xem xét.Có cần thiết đặt ra một giải pháp nào đó cho vấn đề này?
2.2.3.Quy định về giới hạn cho vay
Trong hoạt động cho vay ,các TCTDphải tuân thủ các quy định về giới hạn cho vay .Theo quy định tại điều 79 của Luật các Tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung năm 2004 và khoản 1,2 điều 18 Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN:tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân. Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì các tổ chức tín dụng cho vay hợp vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. “Trong trường hợp đặc biệt, tổ chức tín dụng chỉ được cho vay vượt quá mức giới hạn cho vay quy định tại Khoản 1 Điều này khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép đối với từng trường hợp cụ thể”.
Hiện nay,trong xu thế hội nhập kinh tế - quốc tế, các doanh nghiệp trong nước cần phải đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh theo chiều rộng và chiều sâu, để giải quyết nhu cầu vốn đầu tư lớn này cho các doanh nghiệp đồng thời vẫn đảm bảo được giới hạn cho vay tối đa của ngân hàng đối với khách hàng, các ngân hàng đã tiến hành cho vay hợp vốn. Đối với các đối tượng hạn chế cho vay quy định tại Điều 20 Quyết định1627/2001/QĐ-NHNN, tổng dư nợ cho vay không được vượt quá 5% vốn tự có của ngân hàng. Ngoài ra, để đảm bảo an toàn tiền vay, nâng cao khả năng giám sát đối với các hoạt động tín dụng, pháp luật buộc các TCTD phải thực hiện báo cáo Ngân hàng nhà nước (thông qua trung tâm tín dụng của ngân hàng nhà nước) các khách hàng có tổng dư nợ tiền vay từ 5% trở lên so với vốn tự có của ngân hàng. “Tổng dư nợ cho vay đối với các đối tượng quy định tại Điều 20 Quy chế này không được vượt quá 5% vốn tự có của tổ chức tín dụng”.
2.2.4.Quy định về hạn chế cho vay
Theo quy định tại điều 77,78 của Luật các TCTD sửa đổi bổ sung năm 2004 và Điều 19 Quy chế cho vay 1627 xác định rõ những trường hợp mà TCTD không được cho vay đó là: thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc) của TCTD, cán bộ nhân viên của chính TCTD đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định, quyết định cho vay, bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc).Và các trường hợp hạn chế cho vay tại điều 20 của quy chế này “ Tổ chức tín dụng không được cho vay không có bảo đảm, cho vay với những điều kiện ưu đãi về lãi suất, về mức cho vay đối với những đối tượng sau đây:Tổ chức kiểm toán, Kiểm toán viên có trách nhiệm kiểm toán tại tổ chức tín dụng cho vay; Thanh tra viên thực hiện nhiệm vụ thanh tra tại tổ chức tín dụng cho vay; Kế toán trưởng của tổ chức tín dụng cho vay; Các cổ đông lớn của tổ chức tín dụng;Doanh nghiệp có một trong những đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 77 của Luật Các tổ chức tín dụng sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó”.
Các quy định này một mặt nhằm ngăn ngừa những hiện tượng lợi dụng chức vụ quyền hạn, ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra; mặt khác các hạn chế góp phần bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của các TCTD,giúp các TCTD hoạt động hiệu quả.Những điều kiện đối với khách hàng là một đảm bảo an toàn đối với hoạt động cho vay.Tuy nhiên,điều đó chỉ có ý nghĩa với khách hàng vay,còn việc cho vay hay không,quyền quyết định thuộc về các TCTD.Tuy nhiên,nó cũng sẽ gây ra khó khăn cho những người có nhu cầu vay vốn thực sự.Chẳng hạn:Ông Nguyễn Văn A có nhu cầu vay vốn để mở rộng cơ sở sản xuất kinh doanh .Ông muốn thế chấp ngôi nhà của mình ,có đầy đủ các giấy tờ hợp lệ theo quy định của pháp luật, tại TCTD B để vay vốn nhưng ông A sẽ không được vay vốn nếu ông A là nhân viên của TCTD đó.Vấn đề đặt ra hiện nay là liệu những quy định cứng nhắc của Luật sẽ dẫn đến những tiêu cực trong việc vay vốn tại các TCTD ,và giải pháp đặt ra cho ông A nếu muốn vay vốn tại TCTD B là nhờ một người khác đứng tên vay vốn hoặc ông A sẽ phải vay vốn tại một TCTD khác ,liệu những quy định trên có làm giảm bớt cơ hội kinh doanh của chính TCTD ?
2.2.5.Quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn và dự phòng rủi ro
Quy định này là rất cần thiết vì như chúng ta đã biết thì hoạt động cho vay là một hoạt động luôn ẩn chứa những rủi ro cho các TCTD ,nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh ,cũng như sự tồn tại của các TCTD.
Theo quy định tại điều 81,82,Luật các Tổ chức tín dụng sửa đổi bổ sung năm 2004,về tỷ lệ bảo đảm an toàn và dự phòng rủi ro.Theo quy định tại khoản 1 điều 81 thì khả năng chi trả của các TCTD được xác định bằng tỷ lệ giữa tài sản “Có “ có thể thanh toán ngay so với các loại tài sản “NỢ “ phải thanh toán tại một thời điểm nhất định của TCTD. Để hoàn thiện môi trường pháp lý về quy chế hoạt động tín dụng và rủi ro tín dụng, ngày 19 tháng 4 năm 2005, Thống đốc Ngân hàng nhà nước đã ban hành Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN (gọi tắt là Quyết định 457) về các tỷ lệ bảo đảm an toàn mà các TCTD phải duy trì. Theo đó, các TCTD phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 25% giữa giá trị các tài sản “Có “có thể thanh toán ngay và các tài sản” Nợ “sẽ đến hạn thanh toán trong thời gian 1 tháng tiếp theo, tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản” Có “có thể thanh toán ngay trong khoảng thời gian 7 ngày làm việc tiếp theo và tổng tài sản Nợ phải thanh toán trong khoảng thời gian 7 ngày làm việc tiếp theo.
Theo quy định tại điều 82,TCTD phải dự phòng rủi ro trong hoạt động ngân hàng .Khoản dự phòng rủi ro này phải được tính vào chi phí hoạt động . Tại khoản 2 Điều 2 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22 tháng 4 năm 2005 quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong họat động ngân hàng của các TCTD (gọi tắt là Quyết định số 493) định nghĩa: "Dự phòng rủi ro là là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của TCTD không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của TCTD". Việc quy định dự phòng rủi ro ở mỗi quốc gia là khác nhau tuỳ thuộc vào khả năng đánh giá và kiểm soát rủi ro, đồng thời việc xác định căn cứ để tính tỷ lệ trích lập dự phòng giữa các quốc gia là khác nhau. Ngoài các biện pháp dự phòng trên, các TCTD còn phải tuân thủ và duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.
Quy định mới của NHNN về tỷ lệ dự trũ bắt buộc đối với các TCTD
Ngày 16/1, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ký quyết định về việc tăng thêm 1% tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các loại tiền gửi so với tỷ lệ quy định hiện nay, kể từ tháng 2 tới.
Theo đó, đối với tiền VND không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được tăng từ 4% lên 5%.
Tiền gửi bằng ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng từ 4% lên 5%.
Kết luận chương I
Pháp luật về hoạt động cho vay của các Tổ chức tín dụng là một trong những nội dung quan trọng ,nó có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động của các Tổ chức tín dụng.Những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ chủ thể,điều kiện về hợp đồng tín dụng… đảm bảo việc thực hiện đúng các chức năng ,cũng như các quyền và nghĩa vụ của các Tổ chức tín dụng nói riêng .Từ đó,giúp cho những cá nhân ,tổ chức có nhu cầu vay vốn có thể dễ dàng hơn ,thuân tiện hơn trong việc vay vốn tại các Tổ chức tín dụng để đáp ứng các nhu cầu cần thiết của mình.Qua đó,góp phần thúc đẩy sự phát triển của hệ thống các Tổ chức tín dụng nói riêng và sự phát triển của nền kinh tế.
Chương II:Pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của các Tổ chức tín dụng .
2.1.Khái niệm pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của TCTD
Cho vay là hình thức cấp tín dụng cơ bản và thiết yếu nhất của các Tổ chức tín dụng, là biểu hiện đặc trưng nhất của hoạt động tín dụng, đem lại khả năng sinh lời tốt cho các Tổ chức tín dụng đi kèm với nguy cơ rủi ro cao. Hoạt động cho vay quyết định trực tiếp đến khả năng thanh khoản của các Tổ chức tín dụng, đồng thời cho vay kéo dài dễ dẫn đến thất thoát các khoản vốn đã cho vay.Hiện nay,bên cạnh việc nới rộng các quy định ,tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các Tổ chức tín dụng,thì cũng có nhưng quy định pháp lý chặt chẽ hơn nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động cho vay của các Tổ chức tín dụng(TCTD).
Về mặt chính trị, pháp luật của nhiều quốc gia trên thế giới đều quy định những biện pháp cần thiết để đảm bảo an toàn trong quá trình cho vay của các TCTD.Những nước có chế độ chính trị, đường lối, chính sách và trình độ phát triển kinh tế khác nhau thì thì lại có những quy định về các biện pháp bảo đảm an toàn khác nhau, nhưng mục đích cuối cùng là đều hướng tới và nhằm đảm bảo cho các TCTD được kinh doanh trong môi trường pháp lý an toàn và có hiệu quả.
Theo từ điển Tiếng Việt thì bảo đảm được hiểu theo nhiều cách, nhưng nhìn chung lại thì bảo đảm là "sự làm cho chắc chắn", có nghĩa là đã bảo đảm thì phải là chắc chắn. Dưới góc độ kinh tế, bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của các TCTD là các TCTD thực hiện các biện pháp nhất định theo quy định của pháp luật và yêu cầu của hoạt động tín dụng sao cho đảm bảo cho hoạt động cho vay một cách an toàn và có hiệu qủa. Bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay đòi hỏi phải là một quá trình từ giai đoạn hình thành và cả quá trình phát triển của các hoạt động ngân hàng. Bên cạnh đó, nếu có rủi ro xảy ra, hậu quả mà nó mang lại là rất lớn, ảnh hưởng tới toàn bộ hoạt động của cả hệ thống các TCTD, gây ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế thậm chí cả chế độ chính trị.
Dưới góc độ pháp lý, bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay là một chế định pháp luật, bao gồm tổng thể các quy định pháp luật về các biện pháp mà các TCTD phải thực hiện để bảo đảm cho hoạt động cho vay được an toàn. Mọi ngành kinh doanh đều tiềm ẩn nguy cơ rủi ro, tuy nhiên không phải tất cả các ngành kinh doanh đều có được tổng thể các quy định của pháp luật nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt động của mình. Với ngành ngân hàng có vai trò quan trọng của nền kinh tế, các biện pháp an toàn được đặt ra không chỉ dừng lại ở những biện pháp đơn lẻ, mang tính giải pháp tình thế của từng ngân hàng mà đòi hỏi pháp luật can thiệp sâu, rộng bằng những quy chế đặc thù, tạo nên hệ thống các quy phạm pháp luật chặt chẽ, hợp lý, bảo đảm an toàn cho hoạt động kinh doanh của cả hệ thống ngân hàng ngay từ khi mới thành lập, kinh doanh và phát triển bền vững. Đồng thời, đây cũng chính là sự kiểm soát của Nhà nước đối với hoạt động ngân hàng bằng pháp luật.
2.2. Sự cần thiết của pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay
Trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế, mở của cho các chế định nước ngoài trên thị trường nội địa và tạo ra sân chơi bình đẳng, các TCTD Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ bên ngoài có tiềm lực tài chính mạnh hơn, trình độ công nghệ, kinh nghiệm hoạt động kinh doanh quốc tế tốt hơn.Đặc biệt,là khi Việt Nam gia nhập WTO thì môi trường canhj tranh đó lại càng khắc nghiệt hơn,vì đến năm 2020,Việt Nam phải mở cửa hoàn toàn cho các ngân hàng nước ngoài. Trong khi đó quy mô của các TCTD còn nhỏ bé, trình độ quản lý và công nghệ còn hạn chế, nhiều TCTD chưa quen với môi trường kinh doanh quốc tế. Các TCTD luôn có nguy cơ rủi ro đe doạ từ cuộc cạnh tranh không cân sức như vậy. Đồng thời, với tính chất kinh doanh kéo dài của quan hệ tín dụng, tạo ra những khoản vay lâu dài nên khả năng thu hồi vốn khi kết thúc thời hạn vay cũng không chắc chắn. Các TCTD phải luôn đối mặt với những rủi ro trong quá trình kinh doanh.
Trong quan hệ cho vay, chủ yếu là dựa vào công tác thẩm định, thu thập xử lý thông tin và dự đoán thị trường. Hiện nay, trình độ nghiệp vụ của các TCTD của các cán bộ còn non yếu cũng như chế độ kiểm soát thông tin chưa thật sự có hiệu quả nên việc quản lý rủi ro cũng thật sự khó khăn.
Từ các lý do trên, chúng ta có thể nhận ra rằng hoạt động kinh doanh của các TCTD cũng như hoạt động cho vay luôn chứa đựng những rủi ro. Những rủi ro này rất đa dạng có thể là do tự nhiên, do nền kinh tế cũng như do chính bản thân các chủ thể trong quan hệ tín dụng. Trong số đó, có những rủi ro mang tính khách quan, không thể kiểm soát được, và những rủi ro mang tính chủ quan có thể hạn chế, khắc phục hoặc hạn chế được. Pháp luật được đưa ra với chức năng là nhằm hạn chế tối đa những rủi ro có thể kiểm soát được.
Vì vậy,an toàn trong hoạt động cho vay của các TCTD nhằm góp phần ổn định tài chính quốc gia, là cơ sở để phát triển nền kinh tể và hội nhập với kinh tế thế giới. Các TCTD là bộ phận chủ yếu trong các trung gian tài chính, nên đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay của các TCTD sẽ là một nội dung quan trọng để giữ cho nền tài chính quốc gia được ổn định. Nếu các TCTD thật sự phát triển, ổn định và nâng cao hiệu quả hoạt động thì sẽ đóng vai trò then chốt và quan trọng cho việc cung ứng vốn, góp phần tăng trưởng cho nền kinh tế. Chính vì vậy, yêu cầu pháp luật cần phải quy định những biện pháp bảo đảm cần thiết duy trì ổn định cho hoạt động kinh doanh của của các TCTD, góp phần khắc phục hạn chế những hậu quả xấu có thể xảy ra. Đồng thời thông qua các quy định của pháp luật về các biện pháp bảo đảm an toàn thể hiện sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động của các TCTD nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Và xây dựng được hệ thống các quy định của pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của các TCTD trở thành hàng rào pháp lý vững chắc sẽ góp phần giúp cho hệ thống ngân hàng ổn định, kinh doanh có hiệu quả tạo ra nền tảng tốt để thực thi các chính sách của phát triển đất nước, huy động và sử dụng tốt hơn các nguồn lực để tham gia vào hợp tác, cạnh tranh quốc tế, góp phần giữ vững chủ quyền quốc gia.
Với những lý do nêu trên pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh của các TCTD nói chung và hoạt động cho vay nói riêng luôn là yêu cầu cấp bách và bức thiết. Đồng thời với sự phát triển của ngành công nghiệp ngân hàng ngày càng đa dạng, các quy định của pháp luật về bảo đảm an toàn luôn cần được Đảng và Nhà nước rà soát, xem xét và sửa đổi, bổ sung để đảm bảo tính phù hợp và đựơc vận dụng một cách có hiệu quả các biện pháp pháp lý này.
2.3.Pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của các TCTD
2.3.1. Quy định nhằm đảm bảo an toàn trong cho vay đối với khách hàng
2.3.1.1.Khách hàng phải thỏa mãn điều kiện vay vốn
Theo luật Việt Nam, trong Quy chế cho vay 1627/2001/QĐ-NHNN, quy định tại điều 7 về điều kiện vay vốn,TCTD xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện: có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật, mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp, có dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả hoặc dự án đầu tư, phương án sản xuất phục vụ đời sống khả thi kèm theo phương án trả nợ khả thi, thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Quy chế cho vay 1627 đã có bổ sung thêm một loại khách hàng mới so với các quy chế trước kia; đó là các pháp nhân và cá nhân nước ngoài có đủ năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật. Đây là một quy định mới theo hướng mở rộng khách hàng vay phù hợp với thực tế và thông lệ quốc tế.
Ngoài ra, Điều 19 Quy chế cho vay 1627 xác định rõ những trường hợp mà TCTD không được cho vay đó là: thành viên hội đồng quản trị, ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc) của TCTD, cán bộ nhân viên của chính TCTD đó thực hiện nhiệm vụ thẩm định, quyết định cho vay, bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng giám đốc (Phó giám đốc).Và các trường hợp hạn chế cho vay tại điều 20 của quy chế này “ Tổ chức tín dụng không được cho vay không có bảo đảm, cho vay với những điều kiện ưu đãi về lãi suất, về mức cho vay đối với những đối tượng sau đây:Tổ chức kiểm toán, Kiểm toán viên có trách nhiệm kiểm toán tại tổ chức tín dụng cho vay; Thanh tra viên thực hiện nhiệm vụ thanh tra tại tổ chức tín dụng cho vay; Kế toán trưởng của tổ chức tín dụng cho vay; Các cổ đông lớn của tổ chức tín dụng;Doanh nghiệp có một trong những đối tượng quy định tại khoản 1 Điều 77 của Luật Các tổ chức tín dụng sở hữu trên 10% vốn điều lệ của doanh nghiệp đó”.
Các quy định này một mặt nhằm ngăn ngừa những hiện tượng lợi dụng chức vụ quyền hạn, ngăn ngừa những rủi ro có thể xảy ra; mặt khác các hạn chế góp phần bảo đảm an toàn trong hoạt động cho vay của các TCTD,giúp các TCTD hoạt động hiệu quả.Những điều kiện đối với khách hàng là một đảm bảo an toàn đối với hoạt động cho vay.Tuy nhiên,điều đó chỉ có ý nghĩa với khách hàng vay,còn việc cho vay hay không,quyền quyết định thuộc về các TCTD.
2.3.1.2.Tuân thủ các nguyên tắc vay vốn
Nguyên tắc vay vốn phải được quán triệt trong suốt quá trình cho vay “Khách hàng vay vốn của tổ chức tín dụng phải đảm bảo:Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng; Hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.”(Điều 6,Qquyết đinh 1627/2001/QĐ-NHNN).Và TCTD tự chịu trách nhiệm về quyết định trong cho vay của mình. Không một tổ chức, cá nhân nào được can thiệp trái pháp luật vào quyền tự chủ trong quá trình cho vay và thu hồi nợ của TCTD.
2.3.1.3 Cho vay trong phạm vi luật định
Theo quy định tại khoản 1 ,2 điều 18 Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN:tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức và cá nhân. Trường hợp nhu cầu vốn của một khách hàng vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì các tổ chức tín dụng cho vay hợp vốn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. “Trong trường hợp đặc biệt, tổ chức tín dụng chỉ được cho vay vượt quá mức giới hạn cho vay quy định tại Khoản 1 Điều này khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép đối với từng trường hợp cụ thể”.
Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế - quốc tế, các doanh nghiệp trong nước cần phải đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh theo chiều rộng và chiều sâu, để giải quyết nhu cầu vốn đầu tư lớn này cho các doanh nghiệp đồng thời vẫn đảm bảo được giới hạn cho vay tối đa của ngân hàng đối với khách hàng, các ngân hàng đã tiến hành cho vay hợp vốn. Đối với các đối tượng hạn chế cho vay quy định tại Điều 20 Quyết định1627/2001/QĐ-NHNN, tổng dư nợ cho vay không được vượt quá 5% vốn tự có của ngân hàng. Ngoài ra, để đảm bảo an toàn tiền vay, nâng cao khả năng giám sát đối với các hoạt động tín dụng, pháp luật buộc các ngân hàng phải thực hiện báo cáo Ngân hàng nhà nước (thông qua trung tâm tín dụng của ngân hàng nhà nước) các khách hàng có tổng dư nợ tiền vay từ 5% trở lên so với vốn tự có của ngân hàng. “Tổng dư nợ cho vay đối với các đối tượng quy định tại Điều 20 Quy chế này không được vượt quá 5% vốn tự có của tổ chức tín dụng”.
2.3.1.4. Chấm dứt cho vay và thu hồi nợ
Đảm bảo an toàn trong hoạt động cho vay ,pháp luật quy định quyền chấm dứt việc cho vay ,xử lý tài sản đảm bảo ,thu hối nợ của TCTD trước thời hạn trong hợp đồng khi khách hàng vi phạm những cam kết trong hợp đồng tín dụng .
Khi khách hàng vay ,bên bảo lãnh không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết ,cụ thể hoàn trả gốc lẫn lãi vay đúng thời hạn ,các TCTD được xử lý các tài sản bải đảm tiền vay đẻ thu hồi nợ .Việc xử lý này tuân theo những nguyên tắc nhất định:” Trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ thì việc xử lý tài sản đó được thực hi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tìm hiểu pháp luật về hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng và các biện pháp bảo đảm an toàn.doc