Mục lục:
trang
Chương 1 :
Giới thiệu chung 4
1.1 Vấn đề nghiên cứu 4
1.2 Mục đích nghiên cứu 4
1.3 Câu hỏi ngiên cứu 4
1.4 Đối tượng và khách thể nghiên cứu 4
1.5 Nhiêm vụ nghiên cứu 4
1.6 Phạm vi nghiên cứu 5
1.7.Phương pháp nghiên cứu 5
1.8 Kế hoạch nghiên cứu 5
Chương 2:
Cơ sở lí luận 6
2.1 Khái niệm 6
2.1.1 Thần tượng 6
2.1.2 Nhân cách 6
2.1.3 Văn hóa 6
2.1.4 Học sinh THPT 6
2.2 Đối tượng trở thành thần tượng 7
2.3 Thần tượng và văn hóa giá trị 7
2.4 Văn hóa thần tượng 8
2.5 Sơ lược tâm lý lứa tuối học sinh THPT 10
2.6 Sự hình thành thế giới quan và nhân cách học sinh THPT 10
2.7Quá trình hình thành thần tượng ở học sinh THPT 11
2.8 Đời sống và vai trò thần tượng 12
2.9 Xu hướng thần tượng hiện nay 13
2.10 Thần tượng ảnh hưởng đến học sinh THPT 13
2.10.1 Ảnh hưởng tích cực 13
2.10.2 Ảnh hưởng tiêu cực 14
Chương 3:
Phương pháp nghiên cứu 15
3.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu 15
3.2 Phương pháp nghiên cứu khảo sát 15
Chương 4:
Phân tích đánh giá khảo sát 16
Chương 5:
Kết luận và kiến nghị 28
5.1. Kết luận 28
5.1.1 Kết luận của nhóm nghiên cứu qua khảo sát thực tế 28
5.1.2 Tìm hiểu thần tượng của hoc sinh THPT ở TPHCM 29
5.1.3 Thuận lợi và khó khăn khi khảo sát 30
5.2. Kiến nghị 30
5.2.1 Đối với trường THPT 30
5.2.2 Đối với gia đình 31
5.2.3 Đối với học sinh 31
5.2.4 Đối với các trường cao đẳng,đại học,sư phạm 31
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8543 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu thần tượng của học sinh trường THPT và những ảnh hưởng của thần tượng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách học sinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ếp. Với người khác nữa, TT có thể là một biểu tượng tâm linh hay tín ngưỡng mà người ta tin vào đó để hoài vọng, để tôn thờ bằng việc sùng bái rất kính cẩn.
2.1.2 Nhân cách
Nhân cách là hệ thống những phẩm giá của một người được đánh giá từ mối quan hệ qua lại của người đó với những người khác, với tập thể, với xã hội và cả với thế giới tự nhiên xung quanh trong mọi cái nhìn xuyên suốt quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhân cách là một thứ giá trị được xây dựng và hình thành trong tòan bộ thời gian con người tồn tại trong xã hội, nó đặc trưng cho mỗi con người, thể hiện những phẩm chất bên trong con người nhưng lại mang tính xã hội sâu sắc, nhân cách chỉ bản sắc độc đáo, riêng biệt của mỗi cá nhân, là nội dung và tính chất bên trong của mỗi cá nhân
2.1.3 Văn hóa
Văn hóa là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người.
Văn hóa là một hiện tượng khách quan, là tổng hoà của tất cả các khía cạnh của đời sống. Ngay cả những khía cạnh nhỏ nhặt nhất của cuộc sống cũng mang những dấu hiệu văn hóa.
2.1.4 Học sinh THPT
Là các em có độ tuổi từ 16 đến 18 tuổi, còn được gọi là lứa tuổi thanh niên, hay một cách gọi khác là Teen.
2.2 Đối tượng trở thành thần tượng
Đối tượng trở thành thần tượng của một người nào đó có thể rơi vào các trường hợp sau đây:
- Các thầy cô giáo.
- Người trong gia đình.
- Ngôi sao trong làng giải trí.
- Các nhà khoa học.
- Những vị anh hùng.
- Ngôi sao trong làng thể thao.
- Những người bình thường.
- Bạn bè.
2.3 Thần tượng và văn hóa giá trị
Khi có TT, nhiều người thường xác định: TT đó có những giá trị văn hóa nào? Tìm thần tượng (theo nghĩa có văn hóa) là đi tìm những cung bậc giá trị tốt đẹp của TT để học hỏi.
Đến với TT (dù chỉ đến gián tiếp qua tiếp xúc với sản phẩm của TT) là tiếp cận với những giá trị văn hóa của TT. Ở đây có hiện tượng thẩm thấu và sàng lọc những giá trị văn hóa đó. Việc thẩm thấu và sàng lọc này được thông qua “bộ lọc” của từng chủ thể. Bộ lọc ấy chính là nhận thức, trình độ, cảm xúc, nhu cầu… và nhất là nền tảng văn hóa giá trị của chính người đó (chứ không phải của TT). Nếu bộ lọc đó tốt, nghĩa là văn hóa giá trị của người đó cao thì sẽ “đãi được cát và lấy được vàng”. Bằng không, một khi bộ lọc đó yếu hay bị rách thủng thì “cát to đọng lại mà vàng vụn bị trôi đi”. Do vậy, nền tảng văn hóa giá trị của người ấy vốn đã yếu lại không được bồi đắp, còn bị băng hoại thêm nữa. Đó là bi kịch của những người mơ mộng cái vỏ của TT (lóa mắt bởi đèn màu, thời trang, diện mạo…) mà không hiểu kỹ về thực chất.
Trên nhiều diễn đàn cho thấy một số bạn trẻ đã tỏ ra minh triết khi đến với TT nhờ có bộ lọc khá tốt. Như bạn "Nụ cười Sơn Cước” trên diễn đàn của Việt Báo đã TT hóa vị giáo sư của mình vì ông không chỉ uyên thâm về trí tuệ, ân cần trong đối xử, nhân ái với mọi người, còn rất đẹp trong sinh hoạt: không để hạt cơm rơi, không bỏ thức ăn thừa…
Một bạn khác (bí danh: HS đang ôn thi trên diễn đàn tuổi trẻ) cũng lấy người thầy của mình làm TT vì những bài giảng của thầy “không đụng hàng”, lối giảng rất dung dị, giải thích những điều phức tạp bằng những ngôn từ chân phương, dễ hiểu… Nhiều bạn lấy những gương sắc sảo của các nhà lãnh đạo, nhà khoa học hay nhà kinh doanh (như Putin, Bill Gates…) làm TT cho mình.
Cứ thế, đâu chỉ đi tìm TT ở nơi rực rỡ đèn màu, có hóa trang, có diễn kịch, có lời ca, có nhún nhảy… Họ tìm TT trong đời thực, dưới ánh mặt trời, như kỳ tích của Hải Ly : nhỏ tuổi, nhỏ người mà đã rạng danh về học vấn, hoặc như hiệp sĩ nhí dưới đèo Hải Vân : bé hạt tiêu mà đã nhiều lần dũng cảm cứu nhiều người.
Những TT như thế có một nét chung: không chỉ muốn làm điều tốt, còn thể hiện ý chí quyết tâm “biến điều không thể thành có thể”. Đó cũng là những TT rất gần gũi và dung dị với người đời, từ chốn trường học đến nơi hẻo lánh… Một bộ phận trong lớp trẻ hiện nay cũng đã có nhận thức triết lý về giá trị văn hóa trong quan niệm về TT.
Tóm lại, việc thần tượng là một hiện tượng tự nhiên của sự phát triển tâm sinh lí của con người, về bản chất nó là một biểu hiện cho sự phát triển và sự nhận thức khách quan. Việc thần tượng tốt hay xấu là do chính hành động thể hiện của người hâm mộ và nó tác động lớn nhất lên cuộc sống của người hâm mộ.
2.4 Văn hóa thần tượng
Sống có thần tượng cũng là một nét văn hóa và nét văn hóa đó cần được người hâm mộ tự thể hiện, kiểm soát và điều chỉnh...
Ví dụ, nhà văn và thi sĩ Phùng Quán không chỉ coi người mẹ kính yêu của mình là một TT (qua bài thơ “Lời Mẹ dặn”, ông còn lấy nàng thơ làm TT, nhất là lúc nguy nan. Khi nói chuyện với bạn bè và trong hồi ký của mình, ông từng khẳng định: “Những năm tháng trần ai khổ sở nhất của đời, tôi đã vịn vào những dòng thơ để sống, để không bị quật ngã”. Đấy cũng là một nét văn minh của người có văn hóa TT.
Những ai chưa có TT đúng nghĩa hay sống “phi TT” thường dễ có cảm giác bị hẫng hụt, nhất là khi bị mất niềm tin trước những xô đẩy phũ phàng của bão tố thời vận hay sóng gió cuộc đời. Điều đó dẫn ta suy ngẫm đến việc chính cần bàn ở đây là vấn đề văn hóa thần tượng.
Mỗi người có một tầm nhìn, một lối cảm và một cách nghĩ khác nhau về TT. Văn hóa thưởng thức và văn hóa hâm mộ của họ có những cung bậc giá trị chênh nhau.
Trong nền văn hóa giá trị (VHGT) có văn hóa thưởng thức và văn hóa hâm mộ. Không phải ai cũng có trình độ thưởng thức và trình độ hâm mộ như nhau. Mỗi dạng thưởng thức hay mỗi kiểu hâm mộ đều đứng ở một thang bậc giá trị nhất định, tùy theo nền tảng VHGT của mỗi người. Bởi vậy cần phân biệt đâu là văn hóa hâm mộ có giá trị và đâu là văn hóa hâm mộ kém giá trị hoặc phi giá trị, thậm chí trở thành một hội chứng phi nhân văn: hội chứng thần tượng. Đó là lúc mà, vì cuồng si TT, bị “hớp hồn” bởi hào quang của TT, lại quyết “sống cùng hay chết theo” với TT… nên bị vong thân, tự đánh mất bản thân. Đã có không ít người tự “biện minh”: Tôi làm theo TT là quyền của tôi, là tự khăng định cái tôi. Nói như vậy chỉ đúng một nửa, nửa còn lại là vô lý. Ta có quyền bắt chước, nhưng đã bắt chước mà gọi là “tự khẳng định”, là “cái tôi” thì không hợp lí. Bởi vậy, cũng cần phân biệt giữa “cái của tôi” và “cái của người”, giữa sự học hỏi và điều bắt chước nơi TT.
Khi học hỏi TT, ta đãi cát lấy vàng, rồi nhờ sáng tạo mà ta chế thứ vàng đó thành “sản phẩm mỹ nghệ” của chính ta, đó là cái tôi đích thực. Còn khi bắt chước, ta lấy cả cát và vàng của họ “trát “ lên người, biến ta thành một phó bản của TT, như vậy đâu phải là chính ta. Đó là sự khác nhau giữa VHGT và phi VHGT trong sự hâm mộ TT .
Đề cập việc TT là nói đến hai yếu tố tâm lý chủ yếu: cảm xúc và trí tuệ. Hai yếu tố này lại ảnh hưởng trực tiếp đến hạnh phúc, chí ít là hạnh phúc tinh thần. Mới đây, Nhật báo có đưa tin GS. Richard Layard - cố vấn cao cấp về giáo dục của chính phủ Anh đã đề xuất nên đưa môn “Bài học hạnh phúc” vào dạy trong nhà trường. Được biết, hai trong những nội dung của “Bài học hạnh phúc” là biết kiểm soát trạng thái cảm xúc thẩm mỹ và biết tiếp cận có tính sàng lọc trước mọi vẻ đẹp quanh ta.
Bài học hạnh phúc do đó cũng là những bài học về giá trị, trong đó có giá trị văn hóa khi ta biết học hỏi đúng cách từ TT.
2.5 Sơ lược tâm lý lứa tuổi học sinh trung học phổ thông
Lứa tuổi học sinh THPT là lứa tuổi mơ mộng, khát khao sang tạo, thích cái mới lạ, chuộng cái đẹp hình thức nên dễ bị cái đẹp bề ngoài làm lung lay ý chí, có mới nới cũ…
Đây cũng là lứa tuổi rất hăng hái nhiệt tình trong công việc, rất lạc quan yêu đời nhưng cũng dễ bi quan chán nản khi gặp thất bại. Một số em có tình cảm cách mạng và ý chí phấn đấu yếu, trình độ giác ngộ về xã hội còn thấp. Các em thường có thái độ coi thường lao động chân tay, thích sống cuộc sống xa hoa lãng phí, đua đòi, ăn chơi…
Lứa tuổi THPT cũng là lứa tuổi đang phát triển về tài năng tiếp thu cái mới nhanh, rất thông minh sang tạo nhưng cũng dễ sinh ra chủ quan nông nổi, kiêu ngạo ít chịu học hỏi đến nơi đến chốn để nang cao trình độ. Các em thích hướng về tương lai, ít chú ý đến hiện tại và dễ quên quá khứ…
2.6 Sự hình thành thế giới quan và nhân cách học sinh THPT
Sự hình thành thế giới quan là nét chủ yếu trong tâm lý lứa tuổi THPT vì các em sắp bước vào cuốc sống xã hội, các en có nhu cầu tìm hiểu, khám phá để có quan điểm về tự nhiên, xã hội, về các nguyên tắc và quy tắc ứng xử, những định hướng giá trị về con người. Thế giới quan của thanh niên đã phát triển ở mức cao, nó mang tính khái quát sâu sắc và tính nhất quán. Nhưng trong thế giới quan của các em vẫn còn nhiều mâu thuẫn. Việc hình thành thế giới quan được dựa trên cơ sở những tri thức mà các em đã kĩnh hội được trong suốt thời gian học tập ở nhà trường phổ thông, học sinh đã lĩnh hội được những thói quen đạo đức, thấy được cái xấu, cái đẹp, cái thiện cái ác... dần dần ý thức và quy vào các hình thức, các tiêu chuẩn nguyên tắc hành vi xác định theo một hệ thống hoàn chỉnh. Do trí tuệ của các em phát triển tương đối cao, đặc biệt là năng lực tư duy lý luận, tư duy trừu tượng nên các em không chỉ có hệ thống quan điểm về thế giới khách quan, mà các em còn xác định được thái độ của mình đối với thế giới nữa. Tuổi thanh niên là thời kì thế giới quan được hình thành và mang tính hoàn thiện.
Các em đã có ý thức xây dựng lý tưởng sống cho mình, biết xây dựng hình ảnh con người lý tưởng đã gần với thực tế sinh hoạt hang ngày. Đồng thời các em có thể hiểu một cách sâu sắc và tinh tế những khái niệm, biết xử sự đúng đắn trong điều kiện hoàn cảnh khác nhau, nhưng các em lại thiếu tin tưởng vào những hành vi đó. Vì vậy, giáo dục cần phải khéo léo tế nhị khi phê phán những hình ảnh lý tưởng còn lệch lạc để giúp các em chọn cho mình một hình ảnh lí tưởng đúng đắn để phấn đấu vươn lên.
2.7 Quá trình hình thành thần tượng ở học sinh trung học phổ thông.
Để có thần tượng thì không khó nhưng có được một thần tượng cũng phải trải qua quá trình hình thành.
Mỗi người sẽ có cách xây dựng riêng cho mình một kiểu thần tượng, với bạn này thì thần tượng là người bạn cùng vui, buồn với họ, chia sẻ mọi trạng thái tâm lý với thần tượng một cách lặng lẽ, bên lề cuộc sống của thần tượng, mà không cần viết một lá thư, tặng một bông hoa, thậm chí chưa một lần gặp mặt... Còn bạn khác thì đặt thần tượng vào một góc sống trong trái tim mình,ở đó thần tượng soi sáng cho bạn cách thức suy nghĩ, nhận biết cuộc sống qua những câu nói, phẩm chất nhân cách và những thành tựu mà thần tượng đạt được.
Nhưng, có thần tượng không có nghĩa là ăn, ngủ, thở cùng với thần tượng.
Tuổi học trò luôn cần được những định hướng từ người đi trước
Trước hết hãy xem qua quá trình nhận thức và tiến đến thần tượng hoá:
+ Chủ động để được thần tượng hoá: Trong quá trình sống con người có xu hướng muốn làm cho vị trí của mình trong người khác ngày càng cao hơn, vì thế không thể tránh khỏi việc thổi phồng sự thành công của mình để đạt được mục đích, dẫn đến sự ảnh hưởng đến nhận thức của mọi người về người đó dựa trên những lới “quảng cáo” chưa chắc là sự thật. Ví dụ như ca sĩ, diễn viên…
+ Được người khác thần tượng hoá: Anh ta không có tham vọng được mến mộ, nhưng người khác có thể thấy được tài năng của anh ta, dẫn đến sự cảm phục và có xu hướng muốn làm theo và học hỏi, những điều giống như anh ta đã làm. Đây cũng là một trong những cơ sở cho sự tiến hoá và phát triển của nhân sinh.
Nếu gọi người được thần tượng là A và người hâm mộ thần tượng là B: trong quá trình nhận thức thế giới quan, B nhận thức A có những đặc điểm mà B yêu thích đến một mức độ cao, B sẽ hâm mộ A và có xu hướng ủng hộ A, bắt chước A để được giống như A. Và trong suốt quá trình nhận thức về A, B sẽ dần khám phá ra nhiều điều thật sự về A hơn, trên sơ sở đó quyết định sẽ nâng hay hạ tầm vị trí hình tượng của A trong lòng B.
Trong một số trường hợp, vị trí của hình tượng của A trong B đứng đầu cho đến hết cuộc đời B. Một số còn lại thì vị trí hình tượng của A sẽ hạ xuống, hoặc bị hình tượng khác (C) vượt lên trong lòng B
Đó là quá trình thần tượng hoá. Bản chất của nó là hoàn toàn tốt. Đôi khi những phát sinh đã làm cho việc thần tượng hóa bị méo mó, và hao tổn “vốn đầu tư”.
2.8 Đời sống và vai trò của thần tượng
Vì thần tượng là một đối tượng có đời sống, một con người cụ thể, có cá tính, nhân cách, vị thế, tình cảm và tài năng... nói chung là có đời sống tâm lý của họ, bản chất tâm lý người là bất toàn, nên thần tượng không toàn năng để lúc nào ta cũng ngưỡng vọng họ như một huyền thoại, họ là người, vì vậy họ cũng có nhu cầu, ước muốn, những sai lầm... đời thường.
Khi thần tượng sống đời sống trong mắt người hâm mộ, đó là đời sống của sự thăng hoa, của tài năng và hào quang... không nên thần thánh hóa thần tượng của mình. Do đó, khi ta say mê một thần tượng, ta nên ý thức rõ đặc điểm nào, tính cách, lối sống, thành tựu, tài năng gì ở thần tượng làm ta kính phục, say mê. Khi tôn sùng thần tượng là ta bị thuyết phục bởi một đặc tính nào đó, phù hợp với lối sống, cách nghĩ của ta, và mọi việc chỉ nên dừng lại ở giới hạn, không nên đi sâu, xem xét, soi mói vào những ngóc ngách khác của đời sống thần tượng.
Theo Bandura nên có TT một khi người ta gặp bế tắc, khủng hoảng tinh thần… TT sẽ là một điểm tựa của trái tim và cả khối óc để tránh sự điên đảo và bấn loạn. Đặc biệt, TT có khi không phải là một con người xác thịt hay một tượng hình cụ thể, mà là một phi vật thể.
Nói chung thần tượng là hết sức cần thiết cho mỗi con người, nhưng phải luôn xác định rõ đâu là giới hạn của đời sống một thần tượng trong lòng mỗi chúng ta.
2.9 Xu hướng thần tượng hiện nay
Thạc sĩ Phạm Mạnh Hà, Phó giám đốc trung tâm Hỗ trợ và tư vấn tâm lý, khoa Tâm lý trường ĐH KHXH&NV, cho rằng “hội chứng thần tượng” là sản phẩm của đời sống công nghiệp. Những người mắc hội chứng này thường sống ở các thành phố, nơi con người có quá ít không gian và thời gian cho riêng mình, mọi người cần có gì đó cho riêng mình, và thần tượng sinh ra.
Thần tượng ở vị thành niên cũng là một “sản phẩm công nghiệp” khác, khi các em ở thành phố thường có tâm lý sành điệu, a dua, lây truyền, dễ chạy theo số đông. Những trường hợp thần tượng thái quá thường do bị cha mẹ buông lỏng. Ngay từ lúc các em có biểu hiện say mê một ai đó, cha mẹ nên tìm cách gần gũi định hướng cho các em ngay, để khi các em đã quá đắm đuối rồi sẽ rất khó xử lý.
Đặc biệt sự can thiệp thô bạo của cha mẹ đôi khi sẽ nhận được sự phản kháng không mong muốn, thậm chí có những kết cục bi thảm không thể lường trước vì lứa tuổi này rất nhạy cảm.
2.10 Thần tượng ảnh hưởng học sinh trung học phổ thông
2.10.1 Ảnh hưởng tích cực
Các em học sinh thần tượng và tìm được ở thần tượng của mình những điều tốt đáng cho các em học hỏi, khâm phục, ngưỡng mộ hoặc các em quyết định lấy họ làm mục tiêu phấn đấu theo, lấy những phẩm chất tốt đẹp của thần tượng để tu dưỡng nhân cách... Đó gọi là một cách thần tượng mang tính tích cực.
Fanclub của Bi-rain ( ngôi sao giải trí Hàn Quốc) đã có lần vận động các fan đi hiến máu nhân đạo, Bae Young June (ngôi sao giải trí Hàn Quốc) đã đến thăm mẹ của trưởng nhóm fanclub bị ung thư… Đây là những hành động thiết thực của một trong những thần tượng trong giới học sinh THPT.
Tuy nhiên, có lúc thần tượng trong lòng các em tạo ra các scadal không tốt, nếu ý thức được đó là xấu và rút kinh nghiệm cho bản thân thì đó cũng là tính tích cực của việc thần tượng.
2.10.2 Ảnh hưởng tiêu cực
Khi thần tượng không đơn thuần là thần tượng, mà trở nên thái quá si mê cuồng dại, rồi dẫn đến những việc làm không phù hợp với lứa tuổi, ăn chơi đua đòi theo thần tượng, bỏ quên việc học tập sống phóng khoáng. Đó chính là sự tiêu cực.
Bản chất của việc thần tượng không có gì xấu cho các em học sinh. Nhưng chính ý thức và bản lĩnh làm chủ bản thân của các em là nhân tố quyết định tính tốt xấu của việc thần tượng.
Chương 3 : Phương pháp nghiên cứu
3.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu: (phục vụ nhiệm vụ 1)
Phương pháp nghiên cứu tài liệu là: phương pháp khai thác những thông tin khoa học lí luận qua sách và các tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Người nghiên cứu phương pháp này tìm kiếm tài liệu ở các thư viện các trường đại học, tạp chí giáo dục, internet, các bài viết liên quan đến đề tài nghiên cứu. Sau đó phân tích, tổng hợp một cách hệ thống để nghiên cứu nắm rõ hơn về đề tài nghiên cứu và có cơ sở hơn trong quá trình nghiên cứu.
3.2 Phương pháp khảo sát: (phục vụ nhiệm vụ 2)
Phương pháp này đòi hỏi phải thiết kế mẫu câu hỏi và cách thức trả lời cho người sử dụng. Phiếu khảo sát có hai dạng câu hỏi: một là câu hỏi dạng mở (người trả lời ghi đáp án của mình vào) và thứ hai là câu hỏi dạng đóng (người trả lời chọn những đáp án có sẵn sao cho phù hợp với câu trả lời của mình). Phiếu khảo sát là hình thức thăm dò ý kiến trên số đông.
Trong đề tài này, người nghiên cứu đã tiến hành thiết kế phiếu hỏi để thực hiện điều tra như sau:
-Đối tượng: học sinh THPT trên địa bàn TP HCM
Phạm vi: trên địa bàn TP HCM
-Thời gian tiến hành lấy ý kiến: từ ngày 12/11/2009-2/12/2009
-Tác dụng của các câu hỏi: giúp người nghiên cứu thu thập về các phương pháp đánh giá kết quả để có những kết luận chính xác.
-Cách chọn đối tượng: chọn đối tượng ngẫu nhiên.
-Cách phát và thu phiếu khảo sát: người nghiên cứu trực tiếp phát và nhờ các em học sinh trong lớp phát, thu phiếu.
-Số lượng phiếu khảo sát đối với học sinh: phát 200 phiếu thu thập ý kiến của học sinh khối 3 khối lớp.
Chương 4 : Phân tích và đánh giá kết quả khảo sát
4.1 Phân tích và đánh giá
4.1.1.Giới tính
Nhận xét:
Theo bảng trên ta thấy trong 250 bạn học sinh (HS) THPT được khảo sát thì có đến 65,2% các HS nữ có thần tượng, 34,8% các HS nam có thần tượng. Qua đó, phải nói rằng thần tượng một ai đó ở lứa tuổi mới lớn là một nhu cầu đích thực giống như người ta cần được giải trí, được hoạt động. Mỗi cá nhân là một thế giới nội tâm riêng biệt với những đặc điểm tâm lý rất khác nhau, vì thế mỗi người sẽ có một cách thức sống không giống nhau. Và qua dữ liệu thu thập được từ câu hỏi 5, Nhóm chúng tôi thấy rằng: xu hướng thần tượng của đa số HS nữ là ngôi sao trong làng giải trí như các ca sĩ, diễn viên điện ảnh,… của HS nam là các nhà khoa học, những doanh nhân tài ba và người thân trong gia đình. Từ đó ,hình thành nên phong cách và cá tính riêng trong các HS nữ(về tính cách ,ăn mặc,thái độ cư xử,…) và khơi dậy tinh thần sáng tạo, không ngừng học hỏi vươn lên,cá tính mạnh mẽ, kiên trì ở các HS nam.
4.1.2Thần tượng và giá trị văn hóa của thần tượng
4.1.2.1 Thần tượng la gì ?
4.1.2.2 Giá trị văn hóa của thần tượng
Nhận xét:
Hình trên cho chúng ta thấy rằng việc các em HS xác định thần tượng của mình là nhằm mục đích gì. Có 65% ý kiến cho rằng thần tượng giúp con người vươn tới cái đẹp,22,5 % ý kiến chọn thần tượng giúp vươn đắp, tưới mát tâm hồn của mỗi người,12,5 % ý kiến rằng thần tượng giúp con người có mục đích sống. Và số còn lại thì cho rằng thần tượng có cả 3 giá trị văn hóa trên. Có 42.5% HS được khảo sát cho rằng thần tượng là người mà mình yêu thích, quý mến. 15% HS thì xem thần tượng là người mình tôn sùng, say mê. Theo 27,5%HS thì thần tượng là người có ý nghĩa lớn lao, ảnh hưởng lên toàn bộ đời sống tinh thần, nhân cách, lối sống, sự thành bại của cả cuộc đời. Và có 15% HS chọn ý kiến khác. Do đó, chúng ta cần phân biệt khái niệm “ hâm mộ”((fan) hay là sự yêu thích, quý mến, ...) với khái niệm “thần tượng’’. Giữa việc thích, mến mộ với sự tôn sùng, say mê, xét về cường độ cảm xúc khác xa nhau.Nhiều bạn trẻ hay nhầm lẫn giữa thích và ngưỡng mộ chỉ là một trạng thái cảm xúc, với sự tôn sùng, say mê là một quá trình tâm lý ổn định, có ý thức, trong cuộc sống, nhiều em HS dễ cho rằng thần tượng của mình là ca sĩ A, người mẫu B, diễn viên C... Thực ra, họ chỉ mến mộ, thích theo một trào lưu nào đó thôi. Trong khi, một người được coi là thần tượng, có một ý nghĩa lớn lao, ảnh hưởng lên toàn bộ đời sống tinh thần, nhân cách, lối sống, sự thành bại của cả cuộc đời con người.
4.1.3. Bạn thể hiện cách thần tượng của bạn như thế nào?
Nhận xét:
Mỗi người sẽ có cách xây dựng riêng cho mình một kiểu thần tượng, với bạn này thì thần tượng là người bạn cùng vui, buồn với họ, chia sẻ mọi trạng thái tâm lý với thần tượng một cách lặng lẽ, bên lề cuộc sống của thần tượng, mà không cần viết một lá thư, tặng một bông hoa, thậm chí chưa một lần gặp mặt... Còn bạn khác thì đặt thần tượng vào một góc sống trong trái tim mình,ở đó thần tượng soi sáng cho bạn cách thức suy nghĩ, nhận biết cuộc sống qua những câu nói, phẩm chất nhân cách và những thành tựu mà thần tượng đạt được. Theo kết quả khảo sát được thì số HS có kiểu thần tượng bằng cách Chia sẻ mọi trạng thái tâm lý (buồn, vui..) với thần tượng chỉ chiếm 9%, bằng cách sưu tầm những phẩm chất, thành tựu, câu nói hay của thần tượng chiếm 16 %. Trong khi đó 45 % và 30% là tỷ lệ số HS chọn cách thể hiện thần tượng của mình bằng cách tặng hoa, quà và cập nhật thông tin về thần tượng.
4.1.4 Thần tượng ảnh hưởng đến phong cách,tính cách và sở thích như thế nào?
4.1.4.1 Thần tượng ảnh hưởng đến phong cách
4.1.4.2 Thần tượng ảnh hưởng đến tính cách
4.1.4.3 Thần tượng ảnh hưởng đến sở thích
Nhận xét:
Các em HS đang sống trong một thế giới năng động, có nhiều thách thức, các em không thể chỉ “ ngồi yên” hay “chạy theo” thần tượng một cách đơn giản mà họ có nhu cầu làm cái gì đó tích cực mang dấu ấn của chính mình.Theo biểu đồ trên về mức độ ảnh hưởng của thần tượng đối với bản thân các em thì thần tượng có ảnh hưởng đến phong cách (ăn mặc, kiểu tóc,…), tính cách và sở thích của mỗi em với tỷ lệ lần lượt là 17,5 %, 20%,10 %. Ngược lại tỷ lệ cho rằng thần tượng hoàn toàn không ảnh hưởng đến phong cách là12,5 %, đến tính cách là7,5 %, đến sở thích là 5 %. Thần tượng có ảnh hưởng đến phong cách là 42.5 %, đến tính cách là 35 %, đến sở thích là 42.5 %. Con số25 %, 30%,32.5 % lần lượt là số phần trăm HS cho rằng thần tượng có mức độ ảnh hưởng bình thường đến phong cách, tính cách, sở thích của họ. Và mức độ ảnh hưởng là không đối với phong cách là 2.5 %, đối với tính cách là 7.5%, đối với sở thích là 10 %
4.1.5 Thần tượng là đông lực giúp bạn học tập như thế nào?
Nhận xét:
Với độ tuổi 16t-18t đó là lứa tuổi mới lớn,dễ tiếp thu và rất dễ bị tác động bởi các yếu tố bên ngoài, đây dược xem như là một thuận lợi cũng như thử thách đối với cuộc sống, việc học tập của các bạn học sinh.Qua bảng số liệu ta thấy được tỷ lệ cho rằng thần tượng hoàn toàn không là động lực giúp cho bạn học tập chiếm 5%,còn tỷ lệ người cho rằng thần tượng giúp bạn học tập tốt hơn chiếm tới 37.5% ,và động lực giúp các bạn học tập nhiều chiếm tới 32.5%, hai tỷ lệ không nhỏ.Và ta có thể khẳng định được thần tượng là một động lưc giúp các bạn học sinh học tốt hơn,từ đó có tận dụng điều này giúp cải thiện việc học được tốt hơn ,mang lại hiệu quả cao hơn.
4.1.6 Thời gian để cập nhật thông tin về thần tượng và qua các kênh thông tin
4.1.6.1 Thời gian cập nhật thông tin về thần tượng
4.1.6.2 Cập nhật thông tin qua các kênh
Nhận xét:
Nhìn chung, đa số các em học sinh dành khoảng 10 đến 13 giờ / 1 tuần để cập nhật thông tin về thần tượng, chiếm 40 %, dưới 7 giờ là 12.5 %, từ 7 giờ đến 10 giờ là 32.5 %, và trên 13 giờ là 15 %.
Kênh thông tin để cập nhật thông tin về thần tượng được lựa chọn phần lớn là internet chiếm 46 %, 23 % qua báo, tạp chí 23% qua tivi, radio, và cập nhật thông tin từ bạn bè, hàng xóm, người thân là 8.0 %
4.1.7: Ứng xử của học sinh khi thần tượng của bạn bị ngươi khác nói xấu và khi thần tượng làm bạn thất vọng:
4.1.7.1 Khi thần tượng của bạn bị người khác nói xấu
4.1.7.2 Cách ứng xử khi thần tượng làm bạn thất vọng
Nhận xét:
Theo kết quả khảo sát cho thấy khi thần tượng bị người khác nói xấu thì có em sẽ phản bác lại bằng mọi cách, hoặc bỏ qua lời nói đó hay sẽ xác minh lại sự thật để bảo vệ thần tượng với tỷ lệ lần lượt là 5 %,15 %,52.5 %.Qua số liệu này,cho ta thấy suy nghĩ của các ban HS đã có phần chin chắn,không thần tượng một cách mù quáng,mà đã biết đi tìm hiểu sự việc để xác minh lại một cách chính xác. Còn đối với trường hợp khi thần tượng làm các em thất vọng thì 40% sẽ xem xét lại có nên tiếp tục thần tượng người đó không,30 % sẽ không tần tượng nữa,20 % sẽ đổi thần tượng, số còn lại chọn ý kiến khác. Như vậy việc thần tượng và không tiếp tục thần tượng một ai đó của tuổi mới lớn dường như không có lý do cụ thể. Nhóm chúng tôi cho rằng khi đã lớn rồi thì việc thần tượng một ai đó sẽ gắn với những lý do, mục đích rõ ràng hơn và thần tượng là “động lực “để người đó phấn đấu thực hiện các mục tiêu trong đời: sẽ theo đuổi công việc nào đó?, sẽ trở thành một người như thế nào đó?
4.1.8 Mức độ quan tâm của cha mẹ đén việc bạn thần tượng
Nhận xét:
Một thực tế đáng lo ngại là từ phía các bậc phụ huynh của của các em, không hề hoặc có cũng chỉ là chút ít quan tâm đến đời sống thần tượng của các em. Đây là nguyên nhân tạo ra khoảng cách giữa cha mẹ và con cái. Có đến 45% cha mẹ các em không hề quan tâm đến việc thần tượng của con cái. Đây là một thiếu sót của các bậc phụ huynh, thả tự do cho các em phát triển nhân cách không có định hướng, có thể tốt nhưng cũng có thể xấu bất cứ lúc nào. Để nuôi dạy con cái mình khôn lớn, các bậc cha mẹ cần có nhiều cách giáo dục, không nhất
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tìm hiểu thần tượng của học sinh trường thpt và những ảnh hưởng của thần tượng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách học sinh.doc