Đề tài Tìm hiểu thực trạng giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi

MỤC LỤC

PHẦN I : MỞ ĐẦU

I. Lý do chọn đề tài

II. Mục đích nghiên cứu

III. Nhiệm vụ nghiên cứu

IV. Phương pháp nghiên cứu

V. Khách thể và đối tượng nghiên cứu

VI. Giả thiết khoa học

PHẦN II : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

Chương I : Cơ sở lý luận của đề tài

I. Một số quan điểm về đổi mới nội dung giáo dục mầm non

1. Những căn cứ để đổi mới nội dung giáo dục mầm non

2. Nhu cầu của các trường mầm non đối với nội dung giáo dục trẻ

3. Đổi mới giáo dục mầm non

II. Giáo dục thẩm mỹ

1. Một số quan điểm về cái đẹp và giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mầm non

2. Sự cần thiết của giáo dục thẩm mỹ đối với trẻ

Chương II : Thực trạng công tác giáo dục thẩm mỹ cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Cẩm Sơn - Anh Sơn - Nghệ An

I. Đặc điểm tình hình của huyện Anh Sơn - Nghệ An

II. Thực trạng giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Cẩm Sơn - Anh Sơn - Nghệ An

Chương III. Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục thẩm mỹ ở trường mầm non Cẩm Sơn - Anh Sơn - Nghệ An

I. Phương hướng đổi mới của trường mầm non Cẩm Sơn - Anh Sơn - Nghệ An

II. Những giải pháp cụ thể

PHẦN III : MỘT SỐ KIẾN NGHỊ

PHẦN IV: TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHẦN V : KẾ HOẠCH VÀ THỜI GIAN THỰC HIỆN

 

doc31 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 21363 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu thực trạng giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trình này việc cầm nắm và thao tác bằng tay với đồ vật và nhận biết các thuộc tính khác nhau của đồ vật, trí khôn của trẻ bắt đầu được phát triển. Qua giao tiếp trực tiếp với người lớn trẻ bắt đầu nắm được các hành vi của người, tạo tiền đề hình thành chức năng tâm lý cho trẻ. Từ 12 đến 36 tháng hoạt động chủ đạo của trẻ là hoạt động với đồ vật, nhờ đó trẻ khám phá các thuộc tính, nắm được chức năng, phương thức sử dụng đồ vật theo kiểu người lớn. Đây là một bước phát triển mới và là nội dung quan trọng trong tiến trình làm người của trẻ. Đứa trẻ được coi như “một nhà hoạt động thực tiễn” hay “một nhà thực nghiệm” Sự kiện biết đi có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển tâm lý của trẻ, trẻ bước sang thời kỳ tiếp xúc với thế giới bên ngoài độc lập tự do hơn, hình thức giao tiếp với người lớn đã thay đổi, thế giới đồ vật trở thành đối tượng nhận thức của trẻ. Nhu cầu ham hiểu biết được phát triển mạnh Cuối tuổi nhà trẻ “cái tôi” bắt đầu xuất hiện, đó là dấu hiệu đầu tiên khởi đầu hình thành nhân cách. Trẻ lên 3 tuổi trở nên độc lập, muốn tự làm lấy mọi việc, trẻ hiểu sơ đẳng những hành vi đạo đức trong xã hội. Lứa tuổi mẫu giáo 3 đến 6 tuổi vui chơi ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống tâm lý của trẻ, tạo sự biến đổi về chất trong cấu trúc tâm lý. Đồng thời một số phẩm chất tâm lý như tính tự lập, tính đồng cảm, tính hợp tác, khả năng tôn trọng những quy định chung đã có điều kiện phát triển, nhu cầu giao tiếp của trẻ với bạn cùng lứa tuổi trở thành nhu cầu mạnh mẽ đối với trẻ, trẻ muốn tự lực mà tự lực là phẩm chất quan trọng của nhân cách. Vì vậy, việc phát triển tính độc lập cho trẻ ở giai đoạn này là mục tiêu giáo dục ở nhiều nước đang được quan tâm. Hơn nữa ở lứa tuổi này trẻ vẫn đang trong thời kỳ phát cảm ngôn ngữ, trẻ phát âm đúng hơn,vốn từ tăng mạnh và phong phú không chỉ về danh từ mà cả về động từ, tính từ, liên từ, từ gợi cảm, từ ghép, thành ngữ, câu có nhiều thành phần … được phát triển mạnh. Giai đoạn này cũng cần hoàn thiện về phát âm. Phạm vi nghĩa trong vốn từ của trẻ ngày càng mở rộng và phong phú, mạch lạc hơn. Vậy cần tạo tình huống để trẻ sử dụng vốn từ tích cực hình thành kỹ năng giao tiếp đúng ngữ pháp, sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách chủ động trong sinh hoạt. Tư duy ở trẻ tuổi này có bước ngoặt cơ bản: từ bình diện bên ngoài chuyển vào bình diện bên trong, bên cạnh kiểu tư duy trực quan hành động xuất hiện kiểu tư duy trực quan hình tượng phát triển và chiếm ưu thế trong suốt tuổi mẫu giáo. Tuy nhiên các biểu tượng, hình tượng trong đầu trẻ để gắn liền với hoạt động nhận thức tích cực cần phải cho trẻ vừa tiếp xúc va chạm, vừa quan sát sự vật, hiện tượng một cách đa dạng, tăng cường thu nhận ấn tượng từ bên ngoài với các giác quan khác nhau, làm cho thế giới biểu tượng của trẻ trở nên chính xác hơn. Trên cơ sở đó xuất hiện kiểu tư duy trực quan sơ đồ làm trung gian để phát triển tư duy lên một bước mới, nảy sinh yếu tố tư duy logich, tạo điều kiện cần thiết giúp trẻ học tập ở lớp 1 sau này. Ngày nay với sự biến đổi và đổi mới không ngừng của hiện thực khách quan, nhiều công trình khoa học đã chứng minh rằng: trí tuệ của trẻ em được phát triển sớm hơn, khuynh hướng, nhu cầu, hứng thú của trẻ ngày càng được mở rộng và phát triển hơn, trẻ biết nhiều điều hơn, nói năng mạch lạc hơn. Những đặc điểm cơ bản về tâm lý trẻ 0 đến 6 tuổi và quy luật phát triển của nó là một trong những cơ sở cho việc đổi mới giáo dục mầm non. 3. Đổi mới giáo dục mầm non Ngành giáo dục mầm non trong những năm qua đã có nhiều thành tựu trong việc chăm sóc giáo dục trẻ, giúp trẻ phát triển tốt về các mặt đức, trí, thể, mỹ. Đó là những phẩm chất tốt mang tính tiền đề song nó có vai trò to lớn trong việc hình thành nhân cách con người mới - những công dân có ích cho đất nước sau này. Bác Hồ đã dạy: “vì lợi ích trăm năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”. Vì vậy, cô giáo mầm non phải thực sự trở thành người mẹ hiền thứ hai của trẻ, cô cần có những tri thức hiểu biết trong nuôi dạy trẻ, cùng vơi sự tâm huyết nghề nghiệp, sự yêu thương con trẻ cô phải thực sự là tấm gương sáng cho trẻ noi theo. Để môi trường trong trường mầm non thực sự trở thành vườn ươm thế hệ mai sau. Văn kiện Đại hội Đảng VIII đã nêu: “cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục là quốc sách hàng đầu, nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, coi trọng cả ba mặt: mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng phát huy hiệu quả” Xuất phát từ những mục tiêu đó, ngành học mầm non có chủ trương phấn đấu đạt những mục tiêu trong những năm tới, đảm bảo cho trẻ được hưởng chương trình chăm sóc giáo dục phấn đấu giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng cho trẻ trong các cơ sở mầm non, 100% trẻ em được đến trường mầm non, được hưởng chưong trình chăm sóc giáo dục, cung cấp nền móng phát triển về thể lực, trí tuệ, tình cảm, đạo đức, mỹ thuật. - Phấn đấu giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng trong các cơ sở giáo dục mầm non, phối kết hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ góp phần làm giảm thiệt thòi cho số trẻ còn lại chưa được đến trường. Bên cạnh đó các cô giáo cần chuẩn bị tốt 5 tiêu chuẩn cho trẻ vào lớp 1. Quan điểm của Đảng về giáo dục đào tạo nói chung, giáo dục mầm non nói riêng là phải nhận thức đúng đắn, sâu sắc và phải trở thành mục tiêu hành động thực tiễn. Đó là những căn cứ để các trường mầm non, các cán bộ giáo viên ngành học mầm non, các cấp uỷ đảng, chính quyền, đoàn thể đánh giá thực trạng và tìm hiểu nguyên nhân yếu kém từ đó có kế hoạch và các giải pháp cụ thể để thực hiện tốt mọi nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục nhằm phát huy những thành tích đã đạt được và khắc phục mọi tồn tại, đưa công tác nuôi dạy trẻ đi lên và đạt được hiệu quả cao đáp ứng yêu cầu của xã hội. Vì vậy, việc giáo dục trẻ ngay ở lứa tuổi này là vô cùng quan trọng, muốn có kết quả tốt cần kết hợp giữa gia đình và nhà trường cùng các ban ngành ở địa phương để giáo dục trẻ theo quy mô của ngành học và trẻ em được giáo dục đủ các mặt, có đầy đủ hành trang để cập nhật nền công nghiệp hiện nay. II. Giáo dục thẩm mỹ 1. Một số quan điểm về cái đẹp và giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mầm non Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ là một bộ môn khoa học vì nó có hệ thống giáo dục tốt nhất, có nguyên lý xuất phát, có đối tượng thẩm mỹ, có phương pháp nghiên cứu, có hệ thống khái niệm và phạm trù riêng biệt, có lịch sử phát sinh và phát triển. Chính vì thế, mỹ học trở thành khoa học độc lập, được diễn ra trong quá trình lâu dài từ khi môn học này chưa được coi là một môn khoa học độc lập. Chúng ta tìm thấy mỹ học trong loài người từ rất lâu trong các sản phẩm mỹ nghệ của họ. Nói cách khác thì mỹ thuật của loài người được xuất hiện từ rất sớm trong các nền văn hoá Đông, Tây cổ đại, nếu không kể các tư tưởng thẩm mỹ được nhân cách hóa mà ta chỉ kể các tư tưởng có ý nghĩa lý luận thì các quan điểm thẩm mỹ đã ra đời từ thời văn - sử - triết bất phân. Nhiều tác giả thời cổ đại như Heravit, DemoPitago đều có những tư tưởng mỹ học xuất sắc. Những người tiêu biểu nhất trong lịch sử mỹ học phương tây là hai nhà mỹ học lớn đồng thời là hai hệ thống mỹ học đối lập nhau ra đời đó là Palaton và Arixtot. Arixtot coi cái đẹp là một thực thể vật chất bao gồm trật tự, kích thước và sự cảm nhận còn Palaton coi cái đẹp là ý niệm chung được thâm nhập vào các hiện tượng cụ thể mà trở thành vật đẹp, ông cho rằng cái đẹp có tính vĩnh cửu trong mọi thời gian, mọi địa điểm, mọi ý nghĩa bởi vì nó là ý niệm chứ không phải là một vật cụ thể. Theo Beumgacten cái hoàn mỹ là một cơ sở của cái đẹp, sự hoàn mỹ là nhận thức thuần túy bao gồm có lý tình và ý chí, do đó sự hoàn mỹ là sự thống nhất của Chân - Thiện - Mỹ. Theo các quan điểm cho thấy một sản phẩm hay một hình tượng mỹ học được tôn vinh thì phải có đầy đủ Chân - Thiện - Mỹ từ nhiều khía cạnh mà giáo dục là nhiệm vụ hàng đầu để đưa thế hệ trẻ mai sau có một sản phẩm đẹp, công nghệ mới. Đất nước ta ngày càng phát triển, cuộc sống ngày càng phồn vinh tươi đẹp thì việc đâù tư cho giáo dục được coi là hướng quan trọng vì phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, tạo điều kiện về nhân lực cho phát triển kinh tế xuất hiện, phát triển giáo dục nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, giúp trẻ học đi đôi với hành cũng như tài đi đôi với đức. Nhà giáo dục dân chủ Thuỵ Sĩ xuất sắc Herpexittolo đã đóng góp một phần to lớn vào sự nghiệp lý luận trước tuổi học, vì ông đã tận mắt chứng kiến sự bần cùng hoá của quần chúng nhân dân và sự suy đồi của chuẩn mực đạo đức trước đó. Ông cho rằng có thể cải thiện tình cảm của nhân dân bằng cách giáo dục đúng đắn và phổ cập giáo dục. Tính chất không tưởng trong những quan điểm của ông thể hiện ở niềm tin ảo tưởng rằng việc giáo dục tự bản thân nó sẽ đảm bảo cho quần chúng nhân dân có một cuộc sống tốt đẹp. Pextologi cho rằng mỗi đứa trẻ bản chất nó có sẵn những tư chất, người lớn phải ra sức phát triển và chú ý tới những khả năng và những đặc điểm của lứa tuổi. Ông đã đặt ra cho hệ thống giáo dục nhiệm vụ phát triển hài hoà về thể chất, lao động,đạo đức, trí tuệ ở trẻ em. Mỹ học Mác - Lênin khẳng định tính có trước của thế giới vật chất giúp ta hình thành được hệ thống tư tưởng mỹ học đúng đắn. Mác cho rằng hoạt động của con người luôn luôn sống và hoạt động nhào nặn vật chất theo quy luật của cái đẹp. Từ khuynh hướng của nghệ thuật Mac - Lênin phát triển thành tính giai cấp, tính Đảng của văn học nghệ thuật. Vì vậy, tư tưởng Mác Lê nin là tư tưởng tiến tiến của thời đạ, trên cơ sở phát triển tiếp thu tinh hoa lịch sử mỹ học. Như vậy, có thể nói cái đẹp được gắn với khát vọng muôn đời của con người, nó ra đời rất sớm cùng với lịch sử, thời gian con người luôn khát vọng đi tìm cái đẹp, vươn tới cái đẹp không bao giờ có giới hạn và nó mang tính quy luật phát triển. 2. Sự cần thiết của giáo dục thẩm mỹ đối với trẻ. Giáo dục thẩm mỹ là một bộ phận không tách rời của hệ thống giáo dục chung đối với thế hệ trẻ và cần bắt đầu nó ngay từ lứa tuổi mầm non . Việc để cho trẻ tiếp xúc với cái đẹp trong nghệ thuật và trong đời sống xung quanh, có ý nghĩa quan trọng không chỉ đối với sự phát triển thẩm mỹ mà cả đối với sự phát triển đạo đức và trí tuệ của trẻ. Vì vậy, cần tạo ra những điều kiện tối ưu cho sự phát triển thẩm mỹ không kể những điều kiện bẩm sinh của chúng thế nào? bởi mỗi đứa trẻ có thể tiếp xúc với tất cả các loại nghệ thuật. Với trẻ mẫu giáo tỏ ra là xuất sắc trong một loại nghệ thuật nào đó thì việc tiếp xúc với các nghệ thuật khác càng làm giàu nhân cách nói chung cũng như làm giàu năng lực của chúng. Trường lớp mầm non là môi trường giáo dục đầu tiên của trẻ, đứa trẻ bị ảnh hưởng tốt xấu như thế nào là do sự tác động cuả cô giáo mầm non, bạn bè, hoàn cảnh sống xung quanh như trường lớp, đồ chơi, đồ dùng, trang trí phòng nhóm…Thông qua các tác phẩm nghệ thuật như: tác phẩm văn học, âm nhạc, hội hoạ… cũng chính thông qua dạy học là phương tiện quan trọng giáo dục thẩm mỹ cho trẻ một cách có mục đích, có kế hoạch. Trẻ mầm non rất thích cái đẹp, thích mọi người khen đẹp, dễ bị lôi cuốn một cách tự phát vào những gì hấp dẫn xung quanh, đó là điều kiện thuận lợi để chúng ta tiến hành thực hiện nhiệm vụ giáo dục thẩm mỹ nhằm giúp trẻ nhận thức đúng đắn về cái đẹp, yêu cái đẹp, biết giữ gìn cái đẹp mong muốn tạo ra cái đẹp ở xung quanh trẻ. Chương II: Thực trạng công tác giáo dục thẩm mỹ cho trẻ 5 - 6 tuổi ở trường mầm non Cẩm Sơn - Anh Sơn - Nghệ An I. Đặc điểm tình hình của huyện Anh Sơn Anh Sơn là huyện miền núi của tỉnh Nghệ An, nằm trên trục đường quốc lộ 7 . Với tổng số dân 76.716 người có 3 dân tộc Kinh, Mường, Dao cùng chung sống trên địa bàn 18 xã và thị trấn. Tổng số : 20 trường mầm non/ 18 xã Năm học 2005 - 2006 ngành mầm non của huyện Anh Sơn đã phát triển mạnh về số và chất lượng, cụ thể: - 138 lớp mẫu giáo - 32 lớp nhóm trẻ - Huy động được 4.354 trẻ ra lớp. - Riêng trẻ 5 tuổi có 46 lớp gồm 1287 cháu đạt 98,2% trẻ trong độ tuổi - Tổng số giáo viên : 276 cô. Trong đó : 248 cô có trình độ chuyên môn - Tổng số trường : 20 trường có hiệu trưởng - Tổng số giáo viên trong biên chế nhà nước : 124 cô; giáo viên ngoài biên chế là 143 cô với mức hưởng phụ cấp 190.000/cô/tháng. * Hạn chế : - Phương pháp giáo dục trẻ về cơ bản vẫn theo kiểu truyền thống với đặc trưng chủ yếu coi cô giáo là “trung tâm” của sự giáo dục. - Cô giáo thường giảng giải và sử dụng mẫu, trẻ chủ yếu ghi nhớ, nhắc lại và làm theo mẫu. - Trong giảng dạy, giáo viên còn phụ thuộc nhiều vào tài liệu hướng dẫn và các bài soạn có sẵn. Các gía trị truyền thống, các hiểu biết được chấp nhận và áp đặt trẻ. - Hình thức tổ chức đơn điệu, nghèo nàn, chủ yếu coi trọng “hình thức tiết học”trẻ ít có điều kiện được sử dụng những điều được học vào trong cuộc sống, hình thức giáo dục mọi lúc, mọi nơi còn ít được chú ý. III. Thực trạng giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trường mầm non Cẩm Sơn - Anh Sơn - Nghệ An. * Đặt vấn đề : - “Đức, trí, thể, mỹ” là cái đích cần đạt cuối cùng trong quá trình giáo dục. Mặc dù ở tuổi mầm non yêu cầu giáo dục là sự khởi đầu cho sự hình thành nhân cách sau này, song trẻ vẫn cần được coi là chủ thể nhận thức và là “trung tâm” cho mọi sự hoạt động sáng tạo bởi quá trình hoạt động tích cực sáng tạo làm nảy sinh các vấn đề về phẩm chất : đức, trí, thể, mỹ. - Phẩm chất đạo đức được thể hiện ở các tiêu chí: Biết lễ phép chào hỏi, biết thực hiện các yêu cầu của người lớn, biết thật thà lễ phép, biết giúp đỡ những những người xung quanh và nhường nhịn em nhỏ… - Các tiêu chí về trí tuệ : phát triển lời nói; nhận biết, phân biệt được các hình khối, màu sắc, một số kỹ năng cơ bản của hoạt động tạo hình, âm nhạc, thích đi học và khám phá tìm tòi. - Tiêu chí về thể lực: Khoẻ mạnh, cơ thể phát triển hài hoà cân đối, nhanh nhẹn, da dẻ hồng hào, không bệnh tật. - Tiêu chí về thẩm mỹ : Biết phân biệt cái xấu, cái đẹp trong việc làm và lời nói; biết yêu thích cái đẹp, gìn gữi cái đẹp và tạo ra cái đẹp. Qua một thời gian tìm hiểu và tiến hành điều tra khảo sát những nội dung giáo dục thẩm mỹ của 40 cháu/2 lớp mẫu giáo lớn trường mầm non I thị trấn em đã thu được kết quả như sau: 1. Giáo dục thẩm mỹ thông qua thói quen hành vi đạo đức văn hoá vệ sinh. Những thói quen hành vi đạo đức và hành vi văn hoá vệ sinh chính là cốt lõi của đạo đức, được thể hiện qua kết quả của quá trình giáo dục. Trẻ có thói quen hành vi đạo đức đúng đắn và thói quen hành vi văn hoá sẽ giúp cho trẻ có giao tiếp ứng xử đúng và bền vững trong hoạt động cá nhân và hoạt động tập thể. Những thói quen hành vi đạo đức và hành vi có văn hoá vệ sinh cần hình thành giáo dục trong trường mầm non đó là : - Thói quen giao tiếp có văn hoá : Biết tự động chào hỏi cô và bạn bè khi đến lớp, biết chào hỏi khi có khách đến nhà hoặc đến lớp, muốn hỏi hoặc nói gì phải giơ tay xin phép, không nói leo, nói cướp lời, nói trống không, nói dối, đổ lỗi cho người khác, biết nhận quà bằng hai tay do người khác đưa, biết cảm ơn xin lỗi; nói năng rõ ràng, mạch lạc, không nói quá to, không văng tục chửi bậy, biết xưng hô thân mật với bạn bè và người thân. - Hình thành những thói quen trong sinh hoạt như đi đứng nhẹ nhàng không hấp tấp, vội vàng; không đi chen qua mặt người khác, ngồi học ngay ngắn, không gác chân lên bàn ghế. - Thói quen giữ gìn vệ sinh sạch sẽ, dạy trẻ giữ gìn vệ sinh mặt mũi, chân tay, quần áo sạch sẽ, có thói quen tự phụ vụ bản thân. - Thói quen sống trật tự gọn gàng, đồ dùng được lấy ra và cất đúng nơi quy định, được sắp xếp gọn gàng. -Thói quen trong ăn uống: có thói quen mời cô, mời bạn trước khi ăn. Trong khi ăn: Không nói chuyện, không ngậm thức ăn, không bỏ dở thức ăn, không nhai nhồm nhoàm, biết rửa tay, lau mồm trước và sau khi ăn. - Thói quen hành vi nơi công cộng: giáo dục trẻ biết tôn trọng những quy định chung : đi lại nhẹ nhàng, không cười nói chạy nhảy, vứt rác đúng nơi quy định, có ý thức bảo vệ môi trường. Kết quả trưng cầu ý kiến đối với phụ huynh trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi trường mầm non Cẩm Sơn - Anh Sơn - Nghệ An. Bảng 1: Khả năng nhận thức của trẻ về giáo dục thẩm mỹ trước và trong khi học ở lớp mẫu giáo. Số trẻ điều tra là 40 Trước khi đến trường Trong khi đang học tại trường Biết tên mình, tên bố mẹ, học trường gì Thực hiện được theo yêu cầu của cô Biết sáng tạo trong khi chơi Biết tên mình, tên bố mẹ, học trường gì Thực hiện được theo yêu cầu của cô Biết sáng tạo trong khi chơi T K TB T K TB T K TB T K TB T K TB T K TB 9 4 27 6 7 27 3 3 34 15 16 9 10 15 15 12 12 16 23 10 67 15 18 67 7,5 7,5 85 37 40 23 25 37,5 37,5 30 30 40 Nhìn vào bảng trên cho thấy trẻ trứơc khi đến trường có kết quả thấp so với trẻ được học ở trường lớp mẫu giáo là do: - Môi trường tiếp xúc của trẻ ít va chạm, trẻ sử dụng chưa thành thạo tiếng phổ thông. - Trẻ chưa được học qua lớp mẫu giáo bé nên sự tiếp thu của trẻ không đảm bảo tính “vừa sức” về kiến thức cũng như những kỹ năng của trẻ rất hạn chế. Qua thời gian trẻ đến trường được cô giáo hướng dẫn tổ chức cho trẻ tham gia vào các hoạt động học tập - vui chơi. Quá trình đó đã dần dần làm thay đổi tính tích cực cho trẻ, đứa trẻ trở nên nhanh nhẹn, hoạt bát hơn, cởi mở hơn, đặc biệt là trẻ đã bạo dạn và thích tham gia vào các hoạt động, trẻ đã biết giúp đỡ cô giáo những công việc vừa sức như thu gọn đồ dùng, đồ chơi và trẻ đã biết hợp tác trong khi chơi các trò chơi. VD : Trong giờ hoạt động vui chơi thì trẻ đã biết phân nhóm : bác sĩ, nấu ăn, xây dựng, cửa hàng… Quá trình chơi: đã nảy sinh sự hợp tác giữa các vai chơi trong nhóm, giữa nhóm này với nhóm khác, bác sĩ thì khám bệnh, kê đơn phát thuốc; bệnh nhân nằm trên giường giả vờ mệt mỏi, kể bệnh với bác sĩ… Hoặc nhóm xây dựng đến cửa hàng vật liệu để mua hàng, đi mua thực phẩm về nấu cho bác thợ ăn… Quá trình này dã thể hiện sự tái tạo của trẻ về cuộc sống sinh hoạt, sự phản ánh đó được thể hiện trong quá trình chơi của trẻ.Thông qua chơi giúp trẻ hình thành khả năng quan sát, óc tưởng tượng sáng tạo. 2. Giáo dục thẩm mỹ qua tiếng mẹ đẻ. Tiếng mẹ đẻ có vai trò quan trọng trong cuộc sống con người, nó là phương tiện để giao tiếp, giúp chúng ta hiểu và gần gũi nhau, nhờ có tiếng mẹ đẻ giúp con người giải quyết những vấn đề từ đơn giản đến phức tạp, nó còn giữ trọng trách đúc kết và lưu truyền lại cho đời sau những kinh nghiệm quý báu. Đối với trẻ : Tiếng nói là phương tiện để giao tiếp, nhận thức, tư duy. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những nhiệm vụ quan trọng đối với trẻ mẫu giáo. Giáo dục thẩm mỹ thông qua tiếng mẹ đẻ giúp hiểu lời hay ý đẹp cho tâm hồn trẻ tươi sáng hơn thông qua lời nói của cô giáo và người lớn cũng như môi trường mà trẻ được tiếp xúc. Khi dạy trẻ cô giáo cần dạy trẻ biết sử dụng lời nói sao cho phù hợp trong quá trình giao tiếp. Khi nói với người lớn biết thưa gửi, với bạn bè thân mật thì gần gũi đủ nghe. Trẻ ở độ tuổi này rất thích nghe người lớn kể chuyện đọc thơ, đây là thơì cơ thuận lợi cho trẻ tiếp nhận ngôn ngữ nghệ thuật, Vì vậy, cô giáo phải thể hiện được giọng kể , đọc truyền cảm thể hiện được tính cách nhân vật trong truyện, thể hiện được nhịp điệu, cao độ, âm thanh…giúp trẻ cảm nhận được cái hay, cái nghệ thuật trong truyện, thơ. Qua đó trẻ hiểu được cái đúng sai, tốt xấu trong thơ truyện VD : Thông qua câu chuyện “thỏ anh, thỏ em” - Thỏ anh như thế nào: tốt bụng, biết yêu mẹ và biết giúp đỡ mọi người khi hoạn nạn - Thỏ em có thương mẹ không? thỏ em thương mẹ nhưng rất ích kỷ không biết giúp đỡ người khác khi hoạn nạn - Thỏ anh và thỏ em ai đáng khen nhiều hơn? (thỏ anh đáng khen) Qua số liệu thống kê, trẻ mới đến lớp và các cháu đã đến lớp sau một thời gian ( đầu năm học và cuối năm) ta thấy khả năng nhận thức của trẻ như sau: Lớp đạt Tỷ lệ Số trẻ điều tra Giai đoạn 1 Giai đoạn 2 Hiểu nội dung Tỏ thái độ rõ ràng Tỏ thái độ không rõ ràng Hiểu nội dung Tỏ thái độ rõ ràng Tỏ thái độ không rõ ràng Lớp 5 tuổi A Tỷ lệ % 18 12 66 8 45 10 55 16 88,8 14 78 4 22 Lớp 5 tuổi B Tỷ lệ % 22 14 64 8 46 14 64 20 91 17 73 5 27 Kết quả trên bảng 2 cho thấy: - Giai đoạn 1 : Nhận thức của trẻ còn thấp, thái độ của trẻ hâù như chưa rõ ràng, trẻ nhút nhát, chậm chạp, chưa linh hoạt. - Giai đoạn 2: Nhận thức của trẻ tăng lên rõ rệt, trẻ bạo dạn, tự tin hơn hẳn, biết tỏ thái độ yêu ghét rõ ràng hơn. 3. Giáo dục thẩm mỹ thông qua hoạt động tạo hình. Hoạt động tạo hình nhằm phát triển cho trẻ khả năng cảm thụ và cảm xúc thẩm mỹ, bồi dưỡng thị hiếu thẩm mỹ, hình thành cho trẻ tình yêu với vẻ đẹp thiên nhiên, cuộc sống con người và nghệ thuật, nó là một hoạt động hấp dẫn đối với trẻ. Quá trình khảo sát được thực hiện và cho kết quả. Lớp Số trẻ điều tra Mới đến trường đến trường một thời gian đạt tiêu chí Tỷ lệ % đạt tiêu chí Tỷ lệ % Mẫu giáo 5 tuổi A 18 6 33 15 83 Mẫu giáo 5 tuổi B 20 5 25 15 75 Thông qua hoạt động tạo hình giúp trẻ hình thành những kỹ năng, kỹ xảo, năng lực quan sát, phát triển trí nhớ, trí tưởng tượng sáng tạo, luyện cho sự khéo léo của đôi bàn tay, đặc biệt đối với trẻ 5 tuổi hoạt động tạo hình còn có vai trò không nhỏ trong việc học tập môn mỹ học ở tiểu học. Môn tạo hình ở mẫu giáo gồm các thể loại : vẽ, nặn, xé, dán… * Kết quả khảo sát trên 40 trẻ về hoạt động tạo hình như sau: Loại hoạt động Số trẻ được điều tra Giai đoạn đầu năm Giai đoạn cuối năm Tốt Khá T. Bình Tốt Khá T. Bình Vẽ Tỷ lệ 40 8 20% 7 17,55 25 62,5 13 32,5% 18 45% 9 22,5% Nặn Tỷ lệ 40 9 22,5% 11 27,5% 20 50% 12 30% 17 42,5% 11 27,5% Xé dán Tỷ lệ 40 7 17,5% 8 35% 25 20% 12 62,5% 14 30% 14 35% Từ số liệu trên bảng đánh giá ta rút ra nhận xét : Kết quả trên trẻ đầu năm đạt mức độ thấp so với yêu cầu, qua quá trình hoạt động vui chơi của trẻ ở trường mầm non đã giúp trẻ trải nghiệm, lĩnh hội kỹ năng về hoạt động tạo hình, từ đó phát triển tư duy, tưởng tượng của trẻ. Qua đó, ta thấy rằng vai trò của người lớn đặc biệt là cô giáo mầm non ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển của trẻ. 4. Giáo dục thẩm mỹ thông qua môn giáo dục âm nhạc. Ngay từ trong bào thai âm nhạc đã có tác động đến đứa trẻ, người mẹ thích nghe những bản nhạc, thích ca hát và tham gia vào những hoạt động nghệ thuật múa hát thì đứa trẻ sau này cũng rất có khả năng về âm nhạc. Khi sinh ra ngay từ lúc lọt lòng mẹ trẻ đã rất thích nghe tiếng ru ầu ơ của bà của mẹ. Khi lớn lên, những bài hát đã gieo vào lòng trẻ những tình cảm yêu thương đất nước con người, giúp trẻ gắn bó và yêu thương đất nước quê hương mình hơn. Giáo dục âm nhạc trong nhà trường mầm non là một môn học không thể thiếu, âm nhạc giúp trẻ bộc lộ cảm xúc, nhu cầu giao tiếp với xung quanh và để giải toả năng lượng cơ thể, làm giảm bớt trạng thái căng thẳng mệt mỏi sau tiết học. Các động tác, cử chỉ, điệu bộ sẽ phát triển cân bằng. Các chức năng cơ thể làm cho cơ thể khoẻ mạnh, vui tươi, hồn nhiên và nhanh nhạy. Âm nhạc là điều kiện tốt để phản ánh những hoạt động đối với trẻ. Trẻ nhìn lại bản thân như tấm gương phản chiếu, có tác dụng trong việc điều chỉnh hành vi. Toàn bộ chức năng nghệ thuật thể hiện qua các hoạt động múa hát và nó góp phần giáo dục thẩm mỹ cho trẻ. Tt Tên tiêu chí T.số trẻ điều tra Số trẻ đạt chỉ tiêu Số trẻ đạt Tỷ lệ % 1 Trẻ thích tham gia hoạt động âm nhạc cùng cô 40 38 95% 2 Trẻ hát đúng nhạc, đúng giai điệu, múa đúng động tác 40 35 87,5% 3 Trẻ thể hiện được tình cảm, sắc thái bài hát 40 32 80% 4 Trẻ có năng khiếu về âm nhạc 40 14 35% Qua bảng điều tra trên ta thấy: - Khả năng cảm thụ âm nhạc của trẻ rất cao, nếu được bồi dưỡng kịp thời và đúng đắn thì nguyên nhân âm nhạc của trẻ còn được phát triển tốt hơn. Vì vậy, giáo viên cần tổ chức hướng dẫn cho trẻ trong hoạt động múa hát cá nhân, tập thể để phát triển ở trẻ khả năng cảm thụ cái đẹp, khả năng giao tiếp và bạo dạn tự tin trong cuộc sống. 5. Giáo dục thẩm mỹ cho trẻ thông qua giáo dục lễ giáo Bằng các hoạt động hàng ngày như đón trả trẻ, hoạt động vui chơi, lao động vệ sinh đều là những dịp tốt để trẻ bộc lộ cá tính, cách ứng xử lời ăn tiếng nói của mình, ở trường mầm non cô giáo là người dạy trẻ “học ăn, học nói, học gói, học mở” quá trình gần gũi, uốn nắn những sai sót của trẻ trong hành vi, lời nói theo tiêu chí : giáo dục phải thường xuyên ở mọi lúc, mọi nơi. Thông qua hoạt động học tập, giáo viên đã sử dụng lồng ghép nội dung lễ giáo vào các môn học : Làm quen môi trường xung quanh, giáo dục âm nhạc, tìm hiểu thế giới xung quanh… VD: Muốn bé biết cảm ơn, xin lỗi thì lồng vào câu chuyện Vịt con học cảm ơn xin lỗi. Cô tổ chức cho trẻ đóng vai các nhân vật trong truyện, qua nhập vai, lời nói hành động trong kịch đã chuyển thành hành động, lời nói trong sinh hoạt hàng ngày. Như vậy giáo dục lễ giáo đã thấm vào trẻ nhẹ nhàng, hấp dẫn. Bên cạnh việc giáo dục trẻ ở trường thì vấn đề hiểu biết của các bậc phụ huynh là yếu tố hết sức quan trọng. Cha mẹ phải có kiến thức nuôi dạy con cho phù hợp với trẻ, có điều kiện kinh tế, thời gian để quan tâm chăm sóc trẻ. Nhiệm vụ của cô giáo mầm non không chỉ là dạy trẻ ở trường mà còn phải cung cấp cho các bậc phụ huynh kiến thức nuôi con theo khoa học để cùng nhau nuôi dạy trẻ cho tốt hơn. Bảng điều tra về kiến thức hiểu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docGD tham my cho tre 5-6 tuoi.doc
Tài liệu liên quan