Mục lục
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 5
1.1 Tính cấp thiết của đề tài. 5
1.2 Mục tiêu nghiên cứu 6
1.2.1 Mục tiêu chung 6
1.2.2. Mục tiêu cụ thể. 6
1.3. Câu hỏi nghiên cứu. 6
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 6
II – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 7
2.1 Phương pháp chọn điểm điều tra và chọn mẫu điều tra. 7
2.2 Thu thập số liệu 7
2.3 Sử lý số liệu 7
2.4 Phân tích số liệu 7
III – KẾT QUẢ TÌM HIỂU VÀ THẢO LUẬN 8
3.1 Đặc điểm của địa bàn tìm hiểu 8
3.1.1 Điều kiện tự nhiên 8
3.1.1.1 Vị trí địa lý 8
3.1.1.2 Đặc điểm về thời tiết khí hậu. 8
3.1.2.1 Tình hình đất đai của xã 8
Biểu 1: Tình hình đất đai năm 2008 của xã HồngGiang 9
3.1.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội. 9
3.2 Kết quả nghiên cứu và thảo luận. 10
3.2.2 Thực trạng về số lượng lao động và độ tuổi của lực lượng lao động trong nhóm hộ điều tra. 10
3.2.4 Tình hình dân số và lao động trong nhóm hộ điều tra. 10
3.2.5 Thực trạng lao động theo trình độ học vấn và chuyên môn 12
Biểu 5 : Thực trạng lao động theo trình độ học vấn và chuyên môn 13
3.2.6 Thực trạng thiếu việc làm trong nhóm hộ được điều tra 14
3.2.6 Tình hình phân bố lao động ở các hộ điều cho các ngành theo mức sống 16
3.2.7 Tình hình phân bổ lao động theo các ngành nghề tại nhóm hộ điều tra 17
3.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho người lao động tại xã Đại Đồng Thành. 18
3.3.1 Chất lượng lao động 18
3.3.2 Cung lao động nhiều hơn cầu lao động. 19
3.4 Một số đề suất nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở xã Hồng Giang 20
3.4.1. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nông thôn 20
3.4.2. Khuyến khích các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông thôn. 21
3.4.3. Tạo việc làm từ nước ngoài. 22
3.4.4. Các giải pháp khác 23
IV – KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ 25
4.1 Kết luận: 25
4.2 Kiến nghị 26
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2552 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu tình hình lao động và việc làm tại xã Hồng Giang - Huyện Đông Hưng - tỉnh Thái Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c và trường trung học mới được xây dựng với cơ sở vật chất đạt chuẩn quốc gia. Trạm y tế cũng được quan tâm cải tạo, thường xuyên đảm bảo chế độ thường trực khám bệnh, phục vụ khám, chăm sóc sức khoẻ cho người dân trong xã.
3.2 Kết quả nghiên cứu và thảo luận..
3.2.2 Thực trạng về số lượng lao động và độ tuổi của lực lượng lao động trong nhóm hộ điều tra.
Biểu 3 : Lực lượng lao động của nhóm hộ điều tra theo tuổi và giới tính
Chỉ tiêu
30 hộ được điều tra
Chung
Nữ
SL (người)
CC (%)
SL (người)
CC (%)
Tổng số
97
100
48
49,48
15 – 24 tuổi
15
15,89
8
16,67
2 5 –34 tuổi
21
21,5
9
18,75
35 – 44 tuổi
24
25,23
11
22,92
45 – 55 tuổi
17
17,76
10
20,83
55 - 59 tuổi
12
12,15
5
10,42
Trên 60 tuổi
8
7,48
5
10,42
(Nguồn: điều tra trực tiếp người dân)
Nhìn chung qua các hộ điều tra thì xã Hồng Giang là một xã đông dân số,có lao động chiếm tỉ lệ khá cao tập trung ở độ tuổi 25-55,nhưng đông nhất là ở lứa tuổi 35-44 tuổi (25,23% ). Qua biểu 3 cho thấy lực lượng lao động rất dồi dào về lực lượng và về độ tuổi thì tương đối trẻ, tuy nhiên lực lượng lao động chủ yếu tập trung vào sản xuất nông nghiệp, do đó mà chưa tận dụng hết sức mạnh của lực lượng lao động và khai thác được sự sáng tạo của lao động. Trong nhưng năm qua thì lực lượng lao động đã chuyển sang sản xuất các ngành nghề khác như: TTCN-XD, DV-TM, và đi lao động ở các tỉnh, thành phố khác.
3.2.4 Tình hình dân số và lao động trong nhóm hộ điều tra.
Dân số, lao động & việc làm là 3 yếu tố có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, sự gia tăng dân số là nguồn cung cấp lao động cho xã hội, nhưng nếu dân số tăng quá nhanh thì vấn đề đảm bảo việc làm cho lực lượng lao động lại là vấn đề nan giải. Sự biến động về số lượng dân số ảnh hưởng rất lớn tới quá trình phát triển của lực lượng lao động, đặc biệt là sự biến động về số lượng lao động
Biểu 4: Tình hình dân số và lao động trong nhóm hộ điều tra
Chỉ tiêu
ĐVT
30 hộ được điều tra
Số lượng
Cơ cấu(%)
1. Tổng số hộ
Hộ
30
100,00
- Hộ nông nghiệp
Hộ
8
26,67
- Hộ phi nông nghiệp
Hộ
2
6,67
- Hộ kiêm
Hộ
20
66,67
2. Tổng số nhân khẩu
Người
143
100,00
- Nhân khẩu nông nghiệp
Người
129
90,21
- Nhân khẩu phi nông nghiệp
Người
14
9,79
3. Tổng số lao động
Lao động
97
100
- Lao động nông nghiệp
Lao động
67
69,07
- Lao động TTCN-XD
Lao động
17
17,53
- Lao động DV-TM
Lao động
9
9,28
- Lao động khác
Lao động
4
4,12
4. Chỉ tiêu BQ
- BQ nhân khẩu/hộ
Người/hộ
4.77
- BQ lao động NN/hộ
LĐ/hộ
3.23
(Nguồn: điều tra trực tiếp người dân)
Qua Biểu 4 một lần nữa đã khẳng định các hộ dân ở đây chủ yếu là hoạt động sản xuất nông nghiệp,nhưng do sản xuất nông nghiệp mang tính mùa vụ vì thế để tăng thu nhập cho hộ, người dân ở xã đã chuyển sang thành lao động kiêm. Cụ thể là 30 hộ được chọn ngẫu nhiên điều tra thì có tới 28 hộ là hộ nông nghiệp ( 93.34% ), với 8 hộ thuần nông ( 26,67% ) và 20 hộ kiêm ( 66,67% ). Có thể nói lao động kiêm ở Hồng Giang rất phát triển bởi vì người nông dân sẽ sản xuất nông nghiệp theo mùa vụ và rồi trong những lúc nông nhàn họ sẽ sản xuất ngành nghề hoặc là đi lao động ở các tỉnh, thành phố khác. Khi phỏng vấn trực tiếp bằng những câu hỏi liên quan đến việc thu thập thông tin thì thực tế quả thật còn khá xa với những gì đã biết. Có tới 29/30 hộ cho rằng họ không muốn sản xuất nông nghiệp cho dù có sản xuất thì chẳng qua là: “sản xuất thì cứ sản xuất vậy thôi chứ thực ra chỉ đủ ăn chứ chẳng ăn thua gì”. Đúng thực tế mà nói thì nó không mang lại hiệu quả cao cho người dân. Hầu như người nông dân khi được phỏng vấn thì đều nói là: “ Sống ở nông thôn được nhà nước cấp cho rộng, cho đất nếu không sản xuất nông nghiệp thì cũng chẳng biết làm công việc gì nữa, ngoài ra cũng một phần là do từ nhỏ đã gắn liền với nông nghiệp rồi nên thành quen”. Và rất đông trong số người được phỏng vấn đã nói “nếu có một công việc nào đó mà ổn định và đem lại thu nhập cũng vừa phải thì có nhiều khả năng họ sẽ không sản xuất nông nghiệp nữa do không có lợi nhuận”. Vì thế tình trạng người dân ở đây đi làm ở các tỉnh và thành phố khác diễn ra rất phổ biến. Khi đến các hộ nông dân để phỏng vấn thì hầu như chỉ thấy người già, phụ nữ và trẻ em là ở nhà còn nam giới – người lao động chính trong gia đình hầu như đi làm xa, họ phải ra thành thị hoặc đến các vùng lân cận để làm thuê tăng thu nhập cho gia đình. Do đó bên cạnh nghề nông thì nghề phụ ở Hồng Giang chủ yếu là nghề thêu, dệt, nghề xây dựng. Nghề thêu là một nghề phụ với công cụ, thiết bị rất giản đơn, lao động chủ yếu là thủ công do đó thu hút được rất nhiều lao động nữ trong xã. Thực tế mà nói nghề thêu rất thích hợp với những người dân nông nghiệp, tận dụng được nguồn nhân lực và lao động lúc nông nhàn. Và vừa làm nghề thêu và vừa có thể chăm sóc con cái, làm nội trợ … Điều đó cho thấy chính sách duy trì và phát triển làng nghề truyền thống của đảng và nhà nước ta là hoàn đúng đắn và có cơ sở.
3.2.5 Thực trạng lao động theo trình độ học vấn và chuyên môn
Hồng Giang là xã có lao động nông nghiệp chiếm đa số, khi giải quyết công ăn việc làm cho người lao động ở xã đang gặp rất nhiều khó khăn. Để đánh giá đúng về thực trạng lao động của xã cần phải xem xét đầy đủ về chỉ tiêu phản ánh về trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kĩ thuật... của người lao động. Trong thời đại khoa học kỹ thuật đang phát triển mạnh mẽ hiện nay thì lao động rất cần có trình độ chuyên môn để có thể áp dụng được các tiến bộ khoa học và sử dụng thành thạo các thành tựu đó. Do đó mà năng suất lao động cao hay thấp phụ thuộc rất lớn vào trình độ, chuyên môn kỹ thuật của lao động đó. Chất lượng lao động là tiêu chí để người sử dụng đánh giá và quyết định sử dụng lao động và để cho lao động lựa chọn lĩnh vực phù hợp. Chất lượng lao động được đánh giá qua các chỉ tiêu: Trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, sức khoẻ.…
Biểu 5 : Thực trạng lao động theo trình độ học vấn và chuyên môn
Chỉ tiêu
30 hộ được điều tra
SL (người)
CC(%)
Tổng số
97
100
1. Trình độ văn hóa
- Chưa tốt nghiệp cấp I
6
6,19
- Đã tôt nghiệp cấp I
17
17,53
- Đã tốt nghiệp cấp II
55
56,70
- Đã tốt nghiệp cấp III
19
19,59
2. Trình độ chuyên môn
- Đại học, cao đẳng
2
2,06
- Trung cấp
3
3,09
- Sơ cấp
6
6,19
- Công nhân kỹ thuật
1
1,03
- Chưa qua đào tạo
85
87,63
(Nguồn: số liệu điều tra)
Qua biểu 5 ta thấy trình độ văn hóa và trình độ chuyên môn kỹ thuật của lao động ở các hộ được phỏng vấn là thấp, đây là rào cản lớn cho việc phát triển kinh tế trong giai đoạn tới, tỷ lệ người chưa tốt nghiệp cấp I chiếm vào khoảng 6.19% Có thể nói trình độ văn hoá của người lao động tuy chưa cao nhưng người lao động trong xã rất cần cù chịu khó, luôn luôn tìm hướng để sản xuất theo hướng có giá trị cao nhất. Song trong thời gian tới xã cần có phương hướng, giải pháp đẩy mạnh giáo dục hơn nữa, nhằm nâng cao trình độ văn hoá cho người lao động. Là một xã thuần nông như bao làng quê khác của Việt Nam thì lực lượng lao động nông nghiệp là chủ yếu & ít hoặc không được đào tạo nên tỷ lệ người lao động không có chuyên môn kĩ thuật chiếm tỷ lệ cao. Bên cạnh đó là trình độ chuyên môn nghiệp vụ tay nghề của lao đông NN còn yếu, hầu hết là lao động giản đơn chưa qua đào tạo( 87.63% ), quá trình sản xuất còn dựa trên kinh nghiệm sản xuất là chính. Lực lượng lao động lành nghề, lao động chất xám không đáng kể( 12.37% ) & chưa gắn bó với sản xuất & kinh tế xã hội nông thôn. Đây là cản trở rất lớn tới việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động & sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động theo hướng CNH-HĐH ở nông thôn. Do đó xã cần đặt ra giải pháp để giải quyết kịp thời vấn đề này, đó là tăng cường đào tạo, bồi dưỡng người lao động có trình độ để theo kịp với xu thế kinh tế hiện nay.
3.2.6 Thực trạng thiếu việc làm trong nhóm hộ được điều tra
Trong những năm gần đây, tình trạng thất nghiệp & thiếu việc làm ở nông thôn diễn ra rất phổ biến, điều này làm cho một lượng lớn lao động ở nông thôn phải tới các đô thị để tìm kiếm việc làm, gây ra các tệ nạn làm cho các cơ quan chức năng khó quản lý người lao động. Khả năng tạo việc làm ở khu vực nông thôn hàng năm là hạn hẹp. Hơn nữa, trong những năm qua, quá trình cơ cấu lại khu vực kinh tế nhà nước nói chung và sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước nói riêng có tác động mạnh đến sự gia tăng lao động dôi dư trong nền kinh tế, việc sắp xếp lại lao động, tinh giảm biên chế đã làm cho tình trạng thiếu việc làm hay còn gọi là thất nghiệp bộ phận, bán thất nghiệp, là đặc trưng phổ biến ở lao động nông thôn.Hồng Giang cũng có tình trạng lao động thất nghiệp, thiếu việc làm khá lớn. Đây là một trong những khó khăn lớn mà Đảng uỷ và nhân dân trong xã gặp phải khi thực hiện các mục tiêu kinh tế của xã.
Lao động nông thôn lao động khác với lao động thành thị, lao động nông thôn lao động không có ngày lễ và họ chủ động cho khối lượng công việc. Do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ nên lao động ở trong xã thiếu việc làm là khá lớn.
Hiện nay lực lượng lao động trong xã hầu hết là thiếu việc làm, điều này được lý giải là chủ yếu lao động trong xã Hồng Giang lao động nông nghiệp, đặc điểm của nông nghiệp là phụ thuộc nhiều vào điều kiện thiên nhiên, khí hậu, thời tiết như bão, lụt, hạn hán và mang tính thời vụ cao. Tính chất thời vụ, rủi ro cao và tình trạng bất ổn định là đặc trưng của sản xuất nông nghiệp và lao động trong toàn xã. Ngoài ra do hiện nay sản xuất nông nghiệp được cơ giới hóa mạnh nên trong những năm trên địa bàn xã thì tỷ lệ lao động nông nghiệp có xu hướng giảm, nhưng số lượng lao động thiếu việc làm trong khu vực này vẫn chiếm đa số, chính vì lý do đó mà thành thị đang chịu sức ép của số lượng lớn lao động từ nông thôn ra thành thị trong thời gian nông nhàn chủ yếu là lao động trong độ tuổi từ 25 – 34 bởi vì độ tuổi này có sức khỏe và kinh nghiệm trong cuộc sống cộng với nhu cầu làm việc của họ rất cao.
Do vậy các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương, các ban ngành chức năng cần quan tâm, tạo điều kiện cho thanh niên phát triển một cách toàn diện, khuyến khích thanh niên chủ động tự tạo việc làm trên cơ sở khả năng và các điều kiện thực tế hiện có. Nhằm phát huy vai trò xung kích của thanh niên tham gia phát triển kinh tế - xã hội và giải quyết việc làm, giảm nghèo, phân bổ lại lao động và dân cư, phát triển kinh tế hộ bền vững, xứng đáng là lực lượng xung kích trên mặt trận kinh tế, xoá đói giảm nghèo.
3.2.5 Tình hình sử dụng thời gian lao động trong các hộ điều tra.
Trong các ngành nghề khác nhau thì thời gian làm việc của lao động khác nhau & khác nhau giữa các hộ có điều kiện kinh tế khác nhau. Chính vì vậy, để sử dụng lao động hiệu quả thì sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông dân là điều hết sức cần thiết, phân công lao động theo đúng ngành nghề chuyên môn.
Biểu 4: Tình hình sủ dụng thời gian làm việc của lao động tại các hộ điều tra
Chỉ tiêu
Tính chung
Hộ khá
Hộ trung bình
Hộ nghèo
SL LĐ
Số ngày/
người
SL LĐ
Số ngày/
người
SL LĐ
Số ngày/
người
SL LĐ
Số ngày/
người
- Tổng LĐ làm việc
97
230.1
24
242.4
43
228.0
30
216.9
1. Ngành NN
67
219.4
8
230.3
32
219.8
27
211.2
2. Ngành TTCN – XD
17
241.4
8
248.7
7
239.4
2
227.1
3. Ngành DV - TM
9
240.3
5
246.6
3
238.5
1
226.7
4. Lao động khác
4
-
3
-
1
-
0
-
(Nguồn: số liệu điều tra)
Qua khảo sát tình hình lao động tại xã tôi thấy rõ được quy mô làm việc giữa các nhóm ngành nghề & nhóm hộ theo mức sống, mỗi ngành đều yêu cầu sự phân bổ thời gian khác nhau và rất chênh lệnh. Giữa nhóm hộ trong ngành NN có số ngày làm việc luôn ít hơn so với 3 nhóm ngành khác, tính chung số ngày công lao động của ngành nông nghiệp là thấp nhất chỉ có 219,4 ngày công, trong khi đó ngày công của ngành TTCN-XD tính chung cả 3 nhóm hộ là 241,4 ngày công và ngành DV-TM là 240,3 ngày công. Đối với sản xuất nông nghiệp thì đòi hỏi thời gian vào những giai đoạn thời vụ như thời gian thu hoạch và thời gian xuống đồng đòi hỏi nhiều thời gian lao động và nhiều lao động cho kịp thời vụ, tuy nhiên vào giai đoạn sinh trưởng phát triển thì cần ít thời gian và công lao động. Do đó lao động nông nghiệp thường thiếu việc làm vào giai cây phát triển và sinh trưởng, và giai đoạn này thường kéo dài, đãn đến thu nhập của lao động nông nghiệp thấp và không ổn định.
Ngoài ra cũng cùng là lao động trong một lĩnh vực thì số ngày lao động của lao động trong nhóm hộ khá luôn nhiều hơn hộ Trung bình & hộ nghèo..Số ngày công lao động nông nghiệp trong hộ khá là 230,3 ngày, hộ trung bình là 219,8 ngày, hộ nghèo là 211,2 ngày. Số ngày công ngành TTCN-XD trong hộ khá là tương đối cao, số ngày công là 248,7 ngày, trong khi đó ngày công lao động TTCN-XD trong hộ trung bình là 239,4 ngày và trong hộ nghèo là 227,1 ngày. Trong ngành DV-TM thì ngày công của lao động trong hộ khá cũng cao hơn cả, số ngày công trong hộ khá là 246,6 ngày, hộ trung bình là 238,5 ngày, con đối với hộ nghèo là 226,7 ngày. .
Như vậy, nguyên nhân của sự chênh lệch số ngày công lao động tại các nhóm hộ là do trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn kỹ thuật, quy mô sản xuất & vốn đầu tư. Nó phản ánh thực tế bằng việc nhóm hộ khá có điều kiện thuận lợi hơn nên họ có số ngày công khá hơn
3.2.6 Tình hình phân bố lao động ở các hộ điều cho các ngành theo mức sống
Phân bố lao động cho các ngành sản xuất là một nội dung quan trọng của việc sử dụng lao động, lao động trong các ngành NN với hiệu quả thấp, thu nhập không ổn định đã dần chuyển sang ngành khác nhưng hiện nay cơ cấu lao động vẫn phân bố không đều giữa các ngành
Biểu 5:Tình hình phân bố lao động ở các hộ điều cho các ngành theo mức sống
Chỉ tiêu
Tính chung
Hộ khá
Hộ trung bình
Hộ nghèo
SLLĐ
CC (%)
SLLĐ
CC (%)
SLLĐ
CC (%)
SLLĐ
CC (%)
- Tổng LĐ làm việc
97
100.00
24
100.00
43
100.00
30
100.00
1. Ngành NN
67
69.07
8
33.33
32
74.42
27
90.00
2. Ngành TTCN – XD
17
17.53
8
33.33
7
16.28
2
6.67
3. Ngành DV - TM
9
9.28
5
20.84
3
6.98
1
3.33
4. Lao động khác
4
4.12
3
12.50
1
2.32
0
0
(Nguồn: số liệu điều tra)
Trong các hộ điều tra thì tỷ lệ hộ nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ cao. Xét với nhóm hộ theo mức sống thì hộ khá có sự phân bổ lao động hợp lý hơn giữa các ngành & các hộ có kinh tế kém hơn đa số là các hộ sản xuất nông nghiệp đơn thuần. .Qua biểu 5, cho ta thấy tỷ lệ lao động trong nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ cao. Điều tra 97 lao động thì có 67 lao động đang phục vụ trong nông nghiệp chiếm 69.07%. Trong đó ngành TTCN-XD có 17 lao động chiếm 17.53%, ngành DV-TM có 9 lao động chiếm 9.28%, và lao động khác là 4 chiếm 4.12%. Ngoài ra, lao động nông nghiệp chủ yếu ở hộ trung bình và hộ yếu. Lao động nông nghiệp trong hộ nghèo là 27 chiếm 90%, hộ trung bình là 32 chiếm 74.42%, trong khi đó hộ khá thì lao động nông nghiệp chỉ có 8 chiếm 33.33%. Chúng ta thấy ở hộ khá có cơ cấu lao động hợp lý nhất, trong hộ khá lao động TTCN-XD chiếm 33.33%, lao động DV-TM chiếm 20.84%, lao động khác chiếm 12.50%
3.2.7 Tình hình phân bổ lao động theo các ngành nghề tại nhóm hộ điều tra
Ở nông thôn Việt Nam thể hiện tính thuần nông.Do đó lao động trong xã chủ yếu là lao động nông nghiệp, trong những năm qua lao động nông nghiệp do hiệu quả thấp và không ổn định đã chuyển dần sang các ngành nghề khác. Trong xã hiện có các ngành nghề chủ yếu như thêu, dêt, xây dựng. Các ngành này hiện đang thu hút được đông đảo lao động, đặc biệt là lao động trẻ, tuy quy mô chưa rộng nhưng cũng giải quyết được nhiều việc làm cho lao động và thu nhập cao hơn.
Biểu 6: Tình hình phân bổ lao động theo các ngành nghề chính của các hộ điều tra.
Chỉ tiêu
Tính chung
Hộ thuần nông
Hộ kiêm
Hộ phi nông nghiệp
SL
(người)
CC
(%)
SL
(người)
CC
(%)
SL
(người
CC
(%)
SL
(người)
CC
(%)
- Tổng LĐ làm việc
97
100
26
100
69
100
4
100
1. Ngành NN
67
69,07
26
100
43
62,32
0
0
2. Ngành TTCN – XD
17
17,53
0
0
17
24,64
0
0
3. Ngành DV - TM
9
9,28
0
0
9
13,04
0
0
4. Lao động khác
4
4,12
0
0
0
0
4
100
(Nguồn: số liệu điều tra)
Qua biểu 6, cho thấy trong tổng số lao động thì số lao động trong hộ kiêm chiếm nhiều nhất. Và qua bảng thì chúng ta thấy trong hộ kiêm có sự phân bổ lao động đồng đều hơn cho các ngành. Hiện nay trong xã chủ yếu là các hộ kiêm, trong nhóm hộ này lao động trong ngành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ lệ cao chiếm 62.32%, ngành TTCN-XD chiếm 24.64% và lao động DV-TM chiếm 13.04%.
Trong hộ thuần nông số lao động chủ yếu tập trung vào sản xuất nông nghiệp với tổng 72 lao động được điều tra thì lao động nông nghiệp trong hộ thuần nông là 26 lao động và chiếm 100% cơ cấu lao động của hộ thuần nông, do đó kinh tế nhóm hộ này đa số là yếu, nhóm hộ này không có khả năng phát triển các ngành khác do họ bị hạn chế về vốn, kĩ thuật, kiến thức và cả, nên họ không đầu tư phát triển ngành khác mà chỉ phụ thuộc vào ngành nông nghiệp. Đời sống của nhóm hộ này thường bếp bênh và rất vất vả. Họ hầu như khó tìm được cơ hội việc làm để tăng thêm thu nhập cho hộ mình. Qua phỏng vấn trực tiếp các hộ thuần nông tại địa phương thì tất cả các hộ đều chung nguyện vọng là Đảng và nhà nước hãy quan tâm đến họ hơn nữa họ còn mong rằng nhà nước ta có chính sách hỗ trợ cho họ trong sản xuất nông nghiệp và tạo điều kiện để cho họ kiếm được một công ăn việc làm ổn đinh mang lai thu nhập để cải thiện đời sống gia đình.
Đối với hộ phi nông nghiệp, nhóm hộ này chủ yếu tập chung phát triển các ngành nghề khác, họ không tập trung đầu tư sản xuất nông nghiệp. Nhóm hộ này có kinh tế rất khá và họ sẵn sàng đầu tư cho sản xuất đạt hiệu quả hơn.
Chúng ta cũng nhận thấy rõ việc phân bổ lao động rất đều đặn lượng lao động trên các cá ngành khác nhau tại các hộ kiêm. Trên thực tế thì hộ kiêm là hộ có thu nhập ổn định nhất. Vừa sản xuất nông nghiệp vừa có thể tham gia vào các ngành TTCN – XD, DV – TM …
3.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến giải quyết việc làm cho người lao động tại xã Đại Đồng Thành.
3.3.1 Chất lượng lao động
Trong vấn đề nông nghiệp, nông dân và nông thôn ở nước ta vẫn còn chứa đựng nhiều mảng yếu. Trong quá trình tác động của công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, những mảng yếu đó càng bộc lộ rõ hơn. Một trong những mảng yếu đó là chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển. Những cơ hội đem lại cho người lao động trong lộ trình thực hiện các cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) là việc làm tăng do sự xuất hiện nhiều nghề mới ở các lĩnh vực mới, khu vực mới; thị trường lao động phát triển, sự di chuyển lao động giữa các vùng và lãnh thổ, giữa các doanh nghiệp... tăng cao. Người lao động Việt Nam vừa có thể tham gia sâu vào quá trình phân công lao động quốc tế vừa có cơ hội để tiếp nhận khoa học và công nghệ tiên tiến. Chúng ta đang có một lực lượng lao động xã hội rất lớn. Nguồn lao động của Việt Nam hằng năm được bổ sung nhiều nhưng cơ hội để họ có được việc làm bảo đảm thu nhập ổn định đời sống lại không dễ dàng. Số lao động đã được đào tạo không chỉ chiếm tỷ lệ thấp mà còn bất cập do chất lượng đào tạo kém; cơ cấu đào tạo bất hợp lý, mất cân đối giữa đào tạo nghề và đào tạo ở cấp bậc đại học, cao đẳng. Thêm nữa, số đã qua đào tạo đối với thanh niên ở khu vực nông thôn lại chiếm tỷ lệ rất thấp so với khu vực đô thị. Quá trình đô thị hóa nông thôn đã làm gia tăng áp lực về thiếu việc làm cho khu vực này thêm trầm trọng; đồng nghĩa với việc gia tăng tỷ lệ chất lượng nguồn nhân lực thấp.
Hiện nay dùng chỉ tiêu để đánh giá chất lượng lao động ở nông thôn là rất khó, trình độ của người lao động không chỉ dựa trên đánh giá về rình độ văn hoá, chuyên môn. Trong sản xuất, lao động còn dựa trên kinh nghiệm được tích luỹ và được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Vì vậy để đành giá chất lượng lao động hiện nay tôi sử dụng tổng hợp chỉ tiêu: Trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, tình trạng sức khoẻ.
Qua khảo sát chất lượng lao động ở xã Hồng Giang tôi thấy được chất lượng lao động còn hạn chế, lao động phổ thông chiếm đại bộ phận (56.70%). Lao động có chuyên môn lao động còn thấp có 3 lao động có trình độ trung cấp(3.09%), 6 lao động có trình độ sơ cấp(6.19%), trong đó đáng chú ý là trình độ đại học cao đẳng chỉ có 2 (2.06%). Công tác tư vấn giới thiệu việc làm chưa được phát triển mạnh.người lao động chưa hiểu đúng và đầy đủ quan niệm về việc làm, còn mang nặng tư tưởng trông chờ vào nhà nước. Công tác đào tạo nghề cho người lao động chưa được quan tâm đúng mức làm cho chất lượng nguồn nhân lực ở địa phương - chìa khóa mở ra sự thành công của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nói chung, phát triển kinh tế - xã hội ở Hồng Giang nói riêng gặp nhiều thách thức và trở ngại.
3.3.2 Cung lao động nhiều hơn cầu lao động.
Trong những năm gần đây, ở khu vực nông thôn, cầu lao động tăng chậm làm cho tình hình cung cầu trên thị trường lao động mất cân đối lớn. Hàng năm do lực lượng lao động tăng quá nhanh mà nhu cầu sử dụng lao động lại có hạn. Lực lượng lao động trong xã rất dồi dào nhưng lượng lao động thiếu việc làm đang còn rất nhiều. Những năm tới đòi hỏi xã phải tiếp tục duy trì chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình, từ đó giảm số lượng nguồn nhân lực. Muốn thực hiện được thì trước hết phải hỗ trợ cho nông dân có thể tiếp cận được các phương tiện truyền thông để họ hiểu được pháp lệnh dân số và biện pháp kế hoạch hóa gia đình. Cần hỗ trợ cho họ các loại thuốc và dụng cụ tránh thai không phải trả tiền. Cần phải có các chính sách về lợi ích vật chất, để khuyến khích họ sinh đẻ đúng kế hoạch.
3.4 Một số đề suất nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở xã Hồng Giang
Do những bất cập không nhỏ về tình hình cung cầu trên thị trường lao động nông thôn nước ta, nguồn nhân lực ở Hồng Giang vẫn chỉ là dạng tiềm năng chưa được khai thác và sử dụng tốt. Để giải quyết vấn đề đó và sử dụng có hiệu nguồn nhân lực ở xã Hồng Giang trong thời gian tới, quan điểm chung: Một là, tận dụng tối đa số lượng lao động, đồng thời không ngừng nâng cao năng suất lao động, nghĩa là sử dụng gắn với phát triển nguồn nhân lực. Hai là, quá trình sử dụng lao động gắn liền với quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Hồng Giang. Ba là, quá trình sử dụng lao động gắn với quá trình CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn. Từ đó cần tiến hành các giải pháp sau:
3.4.1. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nông thôn
Xác định chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và xây dựng nền nông nghiệp hàng hoá lớn.Thực tế nhiều địa phương cho thấy việc đa dạng hoá và chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp sang các cây trồng, con nuôi có giá trị kinh tế cao đã không chỉ giúp tăng thu nhập cỉa thiện đời sống mà còn tạo thêm được việc làm mới cho người lao động cũng như rút ngắn thời gian nông nhàn. Chuyển dịch cơ cấu và đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp hướng vào khai thác tiềm năng, lợi thế so sánh của địa phương.
Đa dạng hoá sản xuất nông-lâm-ngư theo từng là cách giải quyết việc làm cho lao động ở địa phương có hiệu quả, ít tốn kém và mang tình hiệu quả lâu dài. Các hoạt động sản xuất nông nghiệp chuyển dần sang cơ gới hoá, đa dạng hoá dưới hình thức hộ kinh doanh hàng hoá, trang trại. Chính quyền địa phương nên có những chích sách khuyến khích, hỗ trợ các hộ nông dân đầu tư phát triển các cây trồng, con nuôi có giá trị kinh tế cao bằng các chích sách thuế, đầu tư, tín dụng, khoa học, công nghệ, thị trường…
Để phát triển theo định hướng đó, vấn đề quan trọng nhất là cần xây dựng, nâng cấp hệ thống thuỷ lợi thuận tiện cho sản xuất với sự tham gia của người dân, hỗ trợ cho người sản xuất thông tin về thị trường và tìm kiếm thị trương, hỗ trợ về tín dụng và hệ thống các dịch vụ thông tin và chuyển giao công nghệ là yêu cầu cần thiết đối với vùng nông thôn. Đồng thời phát triển cơ sở hạ tầng như: đường xá, và các dịch vụ xã hội đảm bảo cho hộ nông dân từng bước thâm nhập vào các hoạt động sản xuất, lưu thông và tiêu thụ, tạo ra sức mua mới cho nông dân. Trên địa bàn xã lâu nay chỉ quen sản xuất lúa nước cần tổ chức hướng dẫn, do đó cần giúp đỡ nông dân đa dạng hoá cây trồng, con nuôi theo nhiều mô hình khác nhau. Chuyển từ sản xuất lúa sang trồng cây ăn quả, cây công nghiệp ngắn ngày, rau xanh có giá trị cao, trồng hoa và chế biến nông sản tại chỗ. Kết hợp trồng lúa với nuôi trồng thuỷ sản (1 vụ lúa, 1 vụ cá); Kết hợp cấy lúa với trồng cây ăn quả; Chuyển hẳn trồng lúa sang nuôi trồng thuỷ sản …
3.4.2. Khuyến khích các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh trong nông thôn.
− Đẩy mạnh phát triển các ngành nghề công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn
+ Trước hết phát triển mạnh các ngành nghề có nhiều tiềm năng, lợi thế so sánh để thu hút nhiều và nhanh lao động nông nghiệp đang dư thừa ở ngay chính địa phương đó để góp phần nâng cao thu nhập và cải thiện dời sống cho chính những người nông dân trong xã. Khai thác hiệu quả sãn có nguồn nguyên liệu sẵn có, nghề truyền thống của địa phương, thị trường có nhu cầu về loại sản phẩm đó, lao động dồi dào, giá nhân công thấp. Trong đó trước tiên tập trung vào ngành nghề chế biến nông sản như chế biến và bảo quản lương thực, rau, quả, thịt và sản phẩm chăn nuôi với quy mô nhỏ, phân tán.
+ Phát triển làng nghề mới, các t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- thiemok_0315.doc