MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .1 CHƯƠNG I: MÔ TẢ TÌNH HUỐNG .3
1.1. Bối cảnh của việc Nhật Bản tăng cường chính sách quản lý chất lượng thuỷ sản nhập khẩu .3
1.2. Động cơ của việc Nhật tăng cường kiểm soát, siết chặt quản lý chật lượng thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam 6
1.3. Tác động của chính sách này .7
1.3.1. Tác động đối với Nhật .7
1.3.2. Tác động đối với doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam .8
1.4. Phản ứng của các tổ chức, quốc gia và phía Việt Nam .9
1.4.1. Phản ứng của các tổ chức, quốc gia .9
1.4.2. Phản ứng từ phía Việt Nam .10
CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG .12
2.1. Tình hình xuất khẩu thuỷ sản VN .12
2.2. Nguyên nhân của việc Nhật tăng cường kiểm soát. quản lý chất lượng thuỷ sản Việt Nam .13
CHƯƠNG III: BÀI HỌC RÚT RA, ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP .17
3.1. Bài học kinh nghiệm từ nuôi trồng, đánh bắt và xuất khẩu thuỷ sản.17
3.2. Đề xuất các giải pháp. 18
3.2.1. Giải pháp từ phía cơ quan quản lý Nhà nước .18
3.2.2. Giải pháp từ các doanh nghiệp xuất khẩu, cơ sở chế biến, người nuôi và đánh bắt .19
KẾT LUẬN .20
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1645 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu và nghiên cứu thực trạng hàng thuỷ sản Việt Nam trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ấn sản phẩm thuỷ hải sản trị giá 240 triệu USD. Nếu tính so với cùng kỳ năm ngoái thì giá trị xuất khẩu giảm gần 20%. Trong 6 tháng đầu năm 2007Việt Nam xuất khoảng 6000 lô hàng thuỷ sản sang Nhật, trong đó có 94 lô bị phía Nhật cảnh cáo có dư lượng kháng sinh (chiếm 1,6%). Các sản phẩm này chủ yếu nhiễm CAP (55 lô), AOZ (17 lô), SEM (6 lô), COLIFORM (7 lô), SUNFUARADIOXIDE (2 lô). Đã có 48 doanh nghiệp có lô hàng bị cảnh báo, trong đó có 2 Công ty bị phát hiện trên 4 lô, 10 Công ty 3 lô, 3 Công ty 2 lô và 23 Công ty có 1 lô bị cảnh báo. Các nhóm hàng bị CAP là tôm biển cỡ nhỏ, mực ống, mực nang.
Tôm là mặt hàng chủ yếu mà Việt Nam xuất khẩu sang Nhật hàng năm giá trị xuất khẩu tôm sang thị trường Nhật trên 500 triệu USD (chiếm 56,7%). Đến cuối năm 2006 tới nay thì tỷ lệ vi phạm của mặt hàng này cũng vượt ngưỡng 1,6%. Trong đó chất CAP chiếm 6,7%, tổng các lô hàng được kiểm tra tại cảng nhập khẩu của Nhật Đồng thời từ đầu năm tới nay cũng có nhiều lô hàng xuất khẩu tôm Việt Nam bị phía Nhật trả về. Đầu tháng 3 năm 2007 TOKYO đã cảnh báo trên mạng của Bộ Ytế lao động và phúc lợi của Nhật là có 2 lô hàng tôm sú nhập khẩu từ Việt Nam có hàm lượng chất AOZ quá mức cho phép. Trước đó cơ quan này đã công bố việc tìm thấy dư lượng CAP ở một số lô hàng mực nhập khẩu từ Việt Nam và Trung Quốc. Đồng thời cũng tìm thấy vi khuẩn Ecoli trong một số lô hàng tôm đông lạnh chiên sẵn từ Việt Nam. Điều đó cho thấy giá trị xuất khẩu mặt hàng này đã giảm sút đáng kể.Việc Nhật Bản mất đi vị trí dẫn đầu trong nhập khẩu thuỷ Việt Nam là một sự thật đáng buồn cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản. Thậm chí trongt hời gian tới nếu không có những chuyển biến tích cực, các doanh nghiệp thuỷ sản chúng ta sẽ mất hẳn đi thị trường này. Nếu quả xảy ra thật thì “ đau quá” cho ngành thủy sản Việt Nam.
1.2. Động cơ của việc Nhật Bản tăng cường kiểm soát và quản lý chất lượng thuỷ sản nhập khẩu từ Việt Nam
Thứ nhất, Nhật là một thị trường có sức tiêu thụ lớn về hàng thuỷ sản, song lại khá khó tính nên tiêu dùng những mặt hàng có ảnh hưởng không tốt tới sức khoẻ sẽ làm người tiêu dùng cảm thấy bất an. Một nền kinh tế phát triển thì việc bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng là một điều cần thiết và cần được thực hiện một cách chặt chẽ. Không chỉ Chính phủ Nhật là các cơ quan lãnh đạo khác cũng muốn đảm bảo cho người tiêu dùng được sử dụng những sản phẩm có độ an toàn cao. Việc Chính phủ Nhật tăng cường kiểm soát và quản lý chặt đối với hàng thuỷ sản được nhập khẩu không chỉ đối với thuỷ sản Việt Nam và với nhiều quốc gia xuất khẩu vào thị trường này. Với những mặt hàng thuỷ sản không đảm bảo chất lượng đã và đang được phía Nhật trả lại, họ không muốn người tiêu dùng trong nước sử dụng những mặt hàng này.
Thứ hai, Qua việc siết chặt chính sách thương mại đối với hàng thuỷ sản nước ngoài họ mong muốn làm giảm áp lực cho các doanh nghiệp thuỷ sản trong nước . Rõ ràng cạnh tranh trên một thị trường có sức tự do cao là rất khốc liệt. Một khi không biết và nắm bắt tốt về những thị trường này tính khốc liệt sẽ làm cho bất kỳ doanh nghiệp nào thất bại. Siết chặt quản lý chất lượng thuỷ sản nhập khẩu, tăng cường kiểm tra chất lượng tại các cảng nhập sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thuỷ sản, có điều kiện về thời gian, về lực để tranh thủ chiếm chính thị trường trong nước của mình. Nhật là một quốc gia có đường biển dài bao quanh, có lượng tàu thuyền lưu thông lớn trên thế giới, do đó thuỷ sản ở Nhật cũng là một ngành khá phát triển. Khi có sự xâm nhập từ ngoài vào thì áp lực cạnh tranh sẽ tăng lên, điều đó cũng chứng minh việc Chính phủ Nhật mong muốn giảm bớt áp lực này cho các doanh nghiệp thủy sản trong nước của mình.
Thứ ba, Nhật Bản mong muốn qua chính sách này sẽ cảnh báo tới các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam là họ chỉ cho phép các doanh nghiệp đủ điều kiện mới được hoạt động trên thị trường này. Phía Nhật sẵn sàng cấm nhập khẩu các hàng thuỷ sản đối với các doanh nghiệp vi phạm các tiêu chuẩn cho phép. Đây là điều cần để các doanh nghiệp Việt Nam lưu tâm, chú ý,và cũng thể hiện động cơ rõ ràng nhất để phía Nhật áp dụng chính sách thương mại này với thuỷ sản Việt Nam.
1.3. Tác động của việc tăng cường kiểm soát, siết chặt quản lý chất lượng hàng thuỷ sản
1.3.1. Tác động đối với phía Nhật
Thứ nhất: Tác động tới tiêu ding trên thị trường Nhật: Giảm thiểu những mặt hàng thuỷ sản không đảm bảo chất lượng được nhập khẩu vào thị trường. Đồng thời có tác động lớn tới sức tiêu dùng và tâm lý tiêu dùng của người tiêu dùng Nhật Bản. Một khi công tác quản lý chất lượng được thực hiện nghiêm thì hiệu quả của nó tạo ra là rất rõ rệt. Người tiêu dùng sẽ yên tâm hơn việc họ được bảo đảm an toàn khi sử dụng những mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu. Những mặt hàng thuỷ sản nhập khẩu vào Nhật không chỉ dùng để bán ngay ra thị trường mà một số còn được sử dụng để chế biến tạo ra các sản phẩm, thực phẩm liên quan.
Thứ hai: Tác động tới hoạt động của các doanh nghiệp thuỷ sản của Nhật: Việc thực hiện siết chặt quản lý chất lượng cũng tác động không nhỏ tới các doanh nghiệp thuỷ sản trong nước. Một phần họ có đủ điều kiện trong việc nâng cao cạnh tranh trên thị trường, một phần họ cũng bị ảnh hưởng từ việc nhập khẩu nguồn nhiên liệu từ nước ngoài vào. Nhật là một thị trường có sức tiêu thụ tôm khá lớn, tôm được coi là một mặt hàng sử dụng chủ yếu để chế biến các sản phẩm mà người tiêu dùng Nhật rất thích. Một khi Chính phủ Nhật tăng cường kiểm soát, quản lý chất lượng với mặt hàng này, thì lượng tôm nhập khẩu sẽ giảm rõ rệt.
1.3.2. Tác động tới các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
Với việc Chính phủ Nhật tăng cường kiểm soát, siết chặt quản lý chất lượng hàng thuỷ sản được nhập khẩu từ Việt Nam đã ảnh hưởng tới kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của các doanh nghiệp và toàn ngành thuỷ sản nói chung. Nhật Bản trong những năm trước vẫn là một trong hai thị trường có sức tiêu thụ thuỷ sản Việt Nam xuất sang lớn nhất. Đây được coi là một thị trường truyền thống đối với các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam. Hàng năm sản lượng thuỷ sản tiêu thụ tại Nhật, đem lại nguồn doanh thu hơn 1 tỷ đô cho phía Việt Nam. Các mặt hàng chủ yếu mà các doanh nghiệp Việt Nam xuất sang là mực, tôm sú, tôm đông lạnh chiên sẵn, một số mặt hàng cá. Từ cuối năm 2006 khi mà phía Nhật áp dụng chính sách siết chặt quản lý chất lượng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam, thì sản lượng các mặt hàng thuỷ sản này đã giảm rõ rệt, điều đó cũng ảnh hưởng tới giá trị sản lượng xuất khẩu của các doanh nghiệp đang làm ăn trên thị trường này. Ví dụ: Công ty xuất khẩu thuỷ sản Thaimex là một doanh nghiệp có giá trị thuỷ sản hàng năm sang Nhật lớn thứ 3 trong nước, trước đây trung bình mỗi tháng doanh nghiệp này xuất sang Nhật từ 10-15 tấn thuỷ sản. Nhưng từ cuối năm 2006 đến nay Công ty này hầu như không xuất được một lô hàng thuỷ sản nào sang Nhật. Hơn 7 tháng qua doanh thu của Công ty từ thị trường này là không đáng kể. Hai Công ty Nam Hải và Hải Nam cũng ở trong tình trạng tương tự với Thaimex. Rất nhiều Công ty xuất khẩu thuỷ sản khác cũng đã bị giảm đáng kể sản lượng thuỷ sản xuất khẩu sang Nhật. Ước tính doanh nghiệp nào làm ăn hiệu quả trên thị trường Nhật cũng chỉ xuất sang đạt 78,7% so với cùng kỳ 6 tháng đầu năm 2006.
Một phần vì các doanh nghiệp bị phía Nhật trả lại hàng, phần do các doanh nghiệp này không giám xuất sang Nhật sợ ảnh hưởng tới uy tín, do đó đã ảnh hưởng khá lớn tới giá trị xuất khẩu. Điều này cũng ảnh hưởng tới các mặt hàng liên quan được xuất sang Nhật. Ví dụ các mặt hàng về chế biến thực phẩm xuất khẩu có sử dụng nguồn nguyên liệu là thuỷ sản: Sản phẩm đông lạnh, đồ hộp, một số nông hải sản khác. Khi sản lượng giảm ắt sẽ ảnh hưởng tới các doanh thu của các doanh nghiệp xuất khẩu. Chẳng hạn như Công ty Thaimex trung bình mỗi tháng xuất từ 10-15 tấn hàng với giá 8,98USD/1kg thì doanh thu đạt từ 90 ngàn-135 ngàn USD. Nhưng trong 6 tháng đầu năm nay, thì doanh thu mà Công ty thu lại chưa đầy 10 ngàn USD. Đồng thời giá của các mặt hàng này trong thời gian qua cũng đã giảm rõ rệt. Ví như giá tôm trong cùng kỳ năm ngoái là 8,89USD/1kg thì sang hết tháng 5 năm 2007 giá trung bình giảm còn 8,48USD/1kg. Đó là xét trên khía cạnh về doanh thu thu được nếu nhìn một cách thẳng thắn và trực quan thì với việc Nhật áp dụng chính sách này sẽ làm cho các doanh nghiệp nhập khẩu thuỷ sản Việt Nam có thể sẽ mất đi chính thị trường này, điều đó cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới toàn ngành thuỷ sản và các chỉ tiêu kinh tế mà Việt Nam đã đặt ra trong năm nay.
Như vậy với việc áp dụng chính sách thương mại mà Nhật đang làm đã ảnh hưởng đặc biệt tới xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam trong thời gian qua và tương lai gần.
1.4. Phản ứng của các tổ chức, Quốc gia, từ phía Việt Nam.
1.4.1. Phản ứng của các tổ chức, quốc gia
Việc Nhật áp dụng các biện pháp tăng cường kiểm soát hàng thuỷ sản xuất khẩu từ Việt Nam đã kéo theo các phản ứng khác nhau từ các tổ chức kinh tế và các quốc gia nhập khẩu hàng thuỷ sản Việt Nam. Mỹ từ đầu năm 2007 tới nay cũng đã thay đổi cách thức kiểm tra chất lượng các lô hàng thuỷ sản xuất khẩu từ Việt Nam bằng việc tăng cường kiểm tra 100% lô hàng với một số mặt hàng: Cá tra, cá ba sa, tôm. Không chỉ thực hiện kiểm tra các lô hàng tại cảng nhập, phía Mỹ cũng yêu cầu phía Việt Nam phải có những chứng nhận về độ an toàn của các lô hàng được xuất sang. Mỹ cũng đã cử một số đoàn chuyên gia sang kiểm tra một số ấp nuôi và các cơ sở chế biến, doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường này. Đây là động thái mà phía Mỹ áp dụng đối với thuỷ sản Việt Nam thời gian qua. Cùng với Nhật, Mỹ cũng đặt ra những yêu cầu khắt khe về an toàn thực phẩm với thuỷ sản nhập khẩu, đó là các tiêu chuẩn về GMP,các tiêu chuẩn do Cục Quản lý thực phẩm Mỹ đề ra.
Còn tại Nga và EU cũng có những biện pháp tương tự, thậm chí các đoàn thanh tra mà họ cử tới để tìm hiểu kiểm tra còn làm chặt chẽ hơn rất nhiều, nếu phát hiện những ngư dân, các cơ sở chế biến vi phạm về an toàn thực phẩm lập tức họ sẽ áp dụng các biện pháp yêu cầu phía Việt Nam tạm ngừng xuất khẩu các sản phẩm tại các cơ sở này. Ví dụ: Từ ngày 13-28/4/2007 một đoàn thanh tra của Cục kiểm dịch động thực vật Liên Bang Nga (VPSS) đã đến Việt Nam để thực hiện kiểm tra hoạt động nuôi trồng thuỷ sản, hoạt động chế biến ở một số nhà máy tại An Giang và Bình Thuận, đồng thời đoàn cũng có những buổi thảo luận chuyên môn về giữ gìn vệ sinh ATTP với Cục quản lý chất lượng, Cục thú y thuỷ sản Việt Nam (Nafiquaved). Nga là một thị trường tiềm năng và đang lên, do đó nếu nắm bắt, và thực hiện tốt những điều kiện tiêu chuẩn tại các thị trường hẳn các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội làm ăn hơn.
1.4.2. Phản ứng từ phía Việt Nam
Ngay sau khi nhận được những thông tin về việc liên tiếp các lô hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu sang Nhật bị trả lại và bị cảnh báo, Bộ thuỷ sản đã các văn bản tới các thành phố, Cục quản lý chất lượng vệ sinh ATTP, các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản, cơ sở chế biến, các ngư dân nuôi, yêu cầu tăng cường đảm bảo chất lượng hàng thuỷ sản. Đồng thời yêu cầu các cơ quan xử lý, giám sát, kiểm soát chặt chẽ tới các hoạt động đánh bắt, nuôi trồng của ngư dân, hoạt động chế biến của các cơ sở.
Bộ cũng yêu cầu Cục hải quan sẵn sàng trả lại những lô hàng vi phạm ngay tại sản xuất, đồng thời yêu cầu các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản phải có giấy chứng nhận xuất sứ nguồn nguyên liệu thuỷ sản. Đối với các doanh nghiệp đã có lô hàng xuất khẩu thuỷ sản yêu cầu phải kiểm tra 100% với các sản phẩm xuất trong thời gian tới. Bộ thuỷ sản yêu cầu các cơ quan quản lý sẵn sàng cấm xuất khẩu với các doanh nghiệp thường xuyên vi phạm, cố tình vi phạm về vệ sinh an toàn chất lượng hàng xuất khẩu. Đóng cửa các cơ sở chế biến, các ấp nuôi đánh bắt có sử dụng chất kháng sinh cấm.
Hiệp hội ngành hàng thuỷ sản Việt Nam (VASEP) cũng đã gửi một số công văn tới Bộ thuỷ sản yêu cầu tạm ngừng xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật trong một thời gian. Đồng thời yêu cầu tới các Cục quản lý tại các địa phương thực hiện kiểm tra chặt chẽ hơn hoạt động đánh bắt chế biến. Đây được coi là động thái tích cực để chúng ta có thời gian kiểm soát một cách toàn diện trước khi xuất khẩu trở lại và đảm bảo với bạn hàng về chất lượng hàng, lấy lại uy tín trên thị trường. VASEP đã gửi công văn tới Cục hải quan đề nghị không thông quan những lô hàng xuất khẩu sang Nhật của các doanh nghiệp bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền Nhật phát hiện dư lượng kháng sinh cấm từ sau ngày 24/11/2006. Tất cả các doanh nghiệp xuất khẩu tôm sang thị trường Nhật từ 12/12/2006 trở đi đều phải đăng ký qua Cục quản lý chất lượng an toàn vệ sinh và Cục thú y thủy sản.
Còn phản ứng từ các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản thì rất khác nhau. Một số doanh nghiệp thực hiện nghiêm tăng cường đảm bảo chất lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu và duy trì việc xuất khẩu hàng thuỷ sản vào thị trường Nhật. Một số doanh nghiệp khác đã tính nước chuyển sang một số thị trường khác như: Nga, Canada, EU hay Mỹ. Tính đến hết tháng 6/2007 trong số 31 doanh nghiệp có lô hàng bị cảnh báo thì có 22 doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, 2 doanh nghiệp chưa đạt, 2 doanh nghiệp chưa xác định được là đơn vị kinh doanh hay đơn vị sản xuất. Mới đây ngày 11/7 Thứ trưởng Bộ thuỷ sản Lương Lê Phương đã ký quyết định số 06 về việc áp dụng các biện pháp cấp bách kiểm soát dư lượng hoá chất kháng sinh cấm đối với thuỷ sản xuất khẩu Nhật. Trong quyết định, Bộ thuỷ sản yêu cầu chỉ các doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm của Bộ mới được phép xuất khẩu, đồng thời phải thực hiện kiểm tra chứng nhận Nhà nước về dư lượng hoá chất kháng sinh đối với 100% số lô hàng giám xác, nhuyễn thể chân đầu và các sản phẩm phối chế từ các loại nguyên liệu thuỷ sản trước khi xuất sang Nhật.
Chương ii
Phân tích tình huống
2.1. Tình hình xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam
Theo ước tính của VASEP đến hết tháng 4/2007 Việt Nam có trên 500 cơ sở chế biến thuỷ hải sản, hàng ngàn điểm nuôi to, nhỏ và số lượng thuyền bè đánh bắt rất lớn. Trong số 500 cơ sở chế biến mới có trên 300 cơ sở được công nhận đạt tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm (62,4%). Còn gần 200 cơ sở thì một số chưa được công nhận, một số chưa được kiểm tra theo dõi. Tuy nhiên lại có rất nhiều đầu mối xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật. Từ đầu năm tới nay xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam tuy có tăng nhẹ xong xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Nhật lại giảm đáng kể. Trong 6 tháng đầu năm 2007 kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 39.090 tấn thuỷ sản trị giá 240 triệu USD, trong đó xuất khẩu tôm sang Nhật đạt 4.564 tấn trị giá 38,7 triệu USD (giảm 15,6% về sản lượng, 20% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái). Đây là giá trị cuất khẩu thấp nhất của chúng ta trong 3 năm qua tại thị trường này. Không những vậy giá của các mặt hàng thuỷ sản cũng đã giảm nhiều trong thời gian qua. Giá các mặt hàng tôm giảm còn 8,48USD/1kg so với 8,89Usd/1kg cùng kỳ năm ngoái (giảm 0,41 USD/1kg).
Với những số liệu thống kê trên hàng năm nguồn thu từ thị trường này dã ảnh hưởng không nhỏ tới doanh thu của toàn ngành thuỷ sản. Người tiêu dùng thuỷ sản có yêu cầu cao trong tiêu dùng nên rõ ràng việc Chính phủ Nhật siết chặt quản lý chất lượng, tăng cường kiểm soát đã ảnh hưởng không nhỏ tới giá trị xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam, nhưng cũng cần thừa nhận là các doanh nghiệp xuất khẩu đã không chấp hành tốt tiêu chuẩn về vệ sinh ANTP, còn các cơ quan quản lý đã quá lơ là về ý thức quản lý và trách nhiệm đảm bảo chất lượng hàng xuất khẩu. Chúng ta lỏng lẻo từ khâu quản lý, kiểm tra tới ý thức của người nuôi ,các cơ sở chế biến và doanh nghiệp xuất khẩu. Nếu không cải thiện được tình hình rất có thể chỉ tiêu đạt 3,7 tỷ USD cho ngành thuỷ sản trong năm nay hẳn không đạt được. Khi mà chúng ta đánh mất đi thị trường hàng năm mang lại nguồn thu hơn 1 tỷ USD là Nhật. Trước việc Nhật thực hiện chính sách này với thuỷ sản Việt Nam thì phía Chính phủ Việt Nam, các cơ quan quản lý của ngành thuỷ sản đã và đang có những phản ứng ra sao? Chúng ta đã có những biện pháp cấp bách để hạn chế mối lo ngại cho đối tác, song hỏi những biện pháp này đã thực sự được thực hiện một cách nghiêm túc hay chưa? Và khi đề ra những biện pháp trước mắt rồi cần có những nhóm giải pháp hiệu quả thực sự cho lâu dài. Nếu như chỉ rộ lên khi thấy cấp bách rồi dâu lại vào đó thì thật nguy hiểm cho thuỷ sản nước ta. Hay cứ để"Nước xảy đến đâu ta đối phó đến đó", nếu vậy thì nguy cơ mất hẳn thị trường Nhật vẫn còn quá nhẹ đối với thuỷ sản Việt Nam. Mà hậu quả của nó còn to lớn không chỉ là một thị trường mà nhiều thị trường.
2.2. Nguyên nhân của việc Nhật tăng cường kiểm soát quản lý chất lượng hàng thuỷ sản.
"Không có lửa làm sao có khói" lời người xưa đã nói và chúng ta những người làm công tác chuyên môn cần ngẫm lại lời chỉ dạy đó. Rõ ràng trong những tháng qua không chỉ trên truyền thống mà ở các phương tiện thông tin khác chúng ta đều thấy những điều bất ổn trong việc thực hiện đảm bảo vệ sinh ATTP cho hàng xuất khẩu. Và điều đó đã làm thuỷ sản Việt Nam phải ngậm "Trái đắng" từ các phản ứng của nhiều thị trường nhập khẩu khác. Nguyên nhân của việc hàng thuỷ sản Việt Nam bị trả lại và bị cảnh cáo quy lại bởi các nhóm yếu số sau:
Nhóm yếu tố trong khâu nuôi trồng, đánh bắt của ngư dân: Người nuôi thuỷ sản đã không ý thức được độ dư lượng kháng sinh mà vẫn sử dụng phục vụ cho công tác nuôi trồng. Họ thường xuyên sử dụng các loại kháng sinh để phòng trị bệnh cho vật nuôi trong quá trình nuôi. Khi thuỷ sản nuôi có triệu trứng bị bệnh vì cái lợi trước mắt, vì tài sản của mình họ đã sử dụng kháng sinh, thậm chí cả các chất cấm để chữa trị cho vật nuôi. Nhưng sau đó khi mà vật nuôi đã hết bệnh thì người nuôi lại không báo cáo với cơ quan quản lý, với các doanh nghiệp cơ sở thu mua để được hướng dẫn các biện pháp giảm thái dư lượng kháng sinh trước mùa thu hoạch. Ngay cả việc con giống phục vụ cho việc nuôi trồng cũng có vấn đề, nhiều người nuôi phản ánh họ thường xuyên mua phải những giống vật nuôi có chất lượng xấu nên trong quá trình nuôi thường bị chết hàng loạt. Trong khi đó đối với các cơ sở đánh bắt họ cũng sử dụng chất CAP để giữ tươi thuỷ sản thay vì ướp đá. Bởi đây là phương pháp giữ tươi hữu hiệu và khá rẻ. Vì dụ tại Bình Thuận Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản tỉnh đã nhiều lần tổ chức tuyên truyền vận động ngư dân không sử dụng kháng sinh trong nuôi trồng, bảo quản thuỷ sản. Đã phát hàng ngàn tờ rơi rồi tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, thậm chí đến tận ghe, thuyền, ấp nuôi có ngư dân để kêu gọi, song kết quả thu được chẳng là bao. "Có lẽ cái lợi trước mắt đã làm người ta quên đi lợi ích chung của ngành thuỷ sản Việt Nam cũng như sức khoẻ người tiêu dùng”. Quan trọng hơn là những sản phẩm mà người nuôi tạo ra còn phục vụ cho công tác chế biến xuất khẩu. Khi đã làm “mờ mắt họ” thì hẳn hậu quả sẽ “khôn lường”. Người tiêu dùng trong nước “được” sử dụng những sản phẩm không tốt cho sức khoẻ của họ. Doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu có thể “được” nhận lại những mặt hàng họ xuất khẩu ra nước ngoài. Theo kết quả kiểm tra dư lượng các chất độc hại của tổ chức Cục thú y trong tháng 4 năm 2007 đã phát hiện dư lượng chất FQL trong các mẫu cá tra vùng nuôi Mỏ Cày- Bến Tre, mẫu tôm sú tại xã Hoà Bình, Châu Thành-Trà Vinh, chất SFM trong mẫu cá tra 6 tháng tuổi tại An Lạc Tây-Sóc Trăng. Đây hẳn là nhóm nguyên nhân “gốc” để có tiếp những nhóm nguyên nhân sau. Đầu có “vấn đề” thì đuôi hẳn không trơn tru được như những thiết bị công nghệ nhập khẩu phục vụ cho sản xuất khi gặp trục trặc sẽ tạo ra những sản phẩm lỗi.
Nhóm nguyên nhân từ cơ sở chế biến, doanh nghiệp xuất khẩu: Đó là việc thiếu kiểm tra trong công tác thu mua nguyên liệu và bảo quản trong chế biến. Nhiều cơ sở nuôi đã sử dụng chất CAP để bảo quản sản phẩm của mình, một số cơ sở khi thực hiện thu mua thì thiếu kiểm tra xuất sứ của sản phẩm nếu có cũng chỉ thực hiện qua loa. Đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thì nhiều doanh nghiệp xuất khẩu không đủ tiêu chuẩn, không được chứng nhận đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm (khoảng gần 40%), cũng tìm mọi cách để xuất đi những lô hàng nhằm thu lợi. Một số doanh nghiệp khác để đối phó với kiểm tra và thông quan đã mượn danh các Công ty xuất khẩu khác. Đó được coi là hình thức mượn "Code" nhau để xuất khẩu hàng. Họ chỉ cần vượt qua cửa khẩu nhập là trót lọt thương vụ và thu lợi. Cách làm này nghe tưởng khó nhưng khi đã móc hoặc được thì dễ hơn nhiều khi tự mình làm thủ tục xin phép cuất khẩu. Họ chỉ cần bớt môth chút lời cho đối tác chứ không muốn mất chi phí cho giấy tờ, them chí còn mát thời gian để đợi chờ. Hành vi này ít nhiều đã có hiệu quả khi thông quan được các cửa xuất khẩu và một số đến tận ngọn đem lại doanh thu cho doanh nghiệp. Đây là nhóm nguyên nhân phổ biến tại nhiều doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam. Không chỉ những doanh nghiệp làm ăn trên thị truờng Nhật, mà trên nhiều thị trưòng khác. Không biết các doanh nghiệp này khi tính toán làm ăn trên các thị trường này có tìm hiểu kỹ những quy định về tiêu chuẩn xuất khẩu hay không? Nếu có thì hẳn họ đã “cố tình” không tuân theo những quy định này, còn khi đã không rồi thì chắc họ “nhắm mắt” làm liều nhằm kiếm lời cho doanh nghiệp mình. Nhóm nguyên nhân này được coi là cố hữu trước “lợi nhuận” mà doanh nghiệp nhìn thấy
Nhóm nguyên nhân trong công tác quản lý chất lượng của các cơ quan có thẩm quyền. Đây là nhóm nguyên nhân cơ bản,và tác động lớn tới những gì đã dõên ra trong thời gian qua, đã tạo ra những kẽ hở để doanh nghiệp, người nuôi nách qua. Trong thời gian qua nhiều cơ quan quản lý chất lượng tuy đã nhận thức được vấn đề cũng như có những động thái chỉ đạo thực hiện quản lý chặt đối với xuất khẩu thuỷ sản sang Nhật song việc thực hiện còn quá kém. Cả nước ta có hàng trăm doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thuỷ sản, hàng ngàn ghe thuyền đánh bắt và không ít các ấp, trại nuôi, điều đó cũng phần nào gây khó khăn cho công tác quản lý, giám sát về thực hiện an toàn vệ sinh thực phẩm. Song không vì thế mà lơ là, bỏ qua cho doanh nghiệp, cơ sở tự do hoạt động. Nguyên nhân cũng đến từ sự thiếu đồng bộ trong quản lý kiểm tra, giám sát các hoạt động đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, điều đó thấy rõ trong 6 tháng đầu năm qua khi mà nhiều ngư dân, các hiệp hội ngành nghề thuỷ sản địa phương nhờ các phương tiện thông tin đã biết được việc Nhật Bản siết chặt quản lý thực hiện kiểm tra tất cả các lô hàng thuỷ sản xuất khẩu từ Việt Nam, vậy mà những người có trách nhiệm thì vẫn chưa có thông báo gì. Đâu phảI chúng ta không có những cơ quan theo dõi thông tin ở đó. Các cơ quan này vẫn chưa kiểm soát chặt chẽ hoạt động chế biến của nhiều cơ sở chế biến, thậm chí nhiều bộ phận kiểm tra đã không thực hiện một cách thường xuyên, không xuống tận nơi kiểm tra như trong báo cáo. Nếu như có những hiên tượng “làm giả ăn thật” thì không thể trách ai được về những gì đã, đang diễn ra cho thuỷ sản Việt Nam
Như vậy việc siết chặt chất lượng hàng thuỷ sản Việt Nam bị phía Nhật cảnh báo được hội tụ từ 3 nguyên nhân chính trên. Ngoài ra còn có những nguyên nhân từ chính từ trường Nhật tác động tới. Và chúng ta cần phải làm gì để giảm thiểu những tác động xấu tới xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Nhật trong thời gian tới?
Chương III
Bài học rút ra và những biện pháp tăng khả năng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Nhật
3.1. Bài học kinh nghiệm từ nuôi trồng, đánh bắt và xuất khẩu thuỷ sản
Việc Nhật Bản thực hiện quy chế siết chặt quản lý chất lượng hàng thuỷ sản Việt Nam không chỉ tác động tới các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản mà còn ảnh hưởng tới toàn ngành thuỷ sản Việt Nam. Với những chính sách này thì rõ ràng Nhật Bản đã, đang muốn hạn chế những mặt hàng thuỷ sản Việt Nam xuất khẩu vào. Bởi theo họ tình trạng chất lượng hàng thuỷ sản Việt Nam trong suốt 9 tháng qua luôn có dư lượng kháng sinh cao là mối đe doạ tới sức khoẻ cho người tiêu dùng Nhật.Các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản, các cơ quan, ngành thuỷ sản xem ra đã nhận thức được vấn đề đảm bảo vệ sinh ATTP nhưng việc thực hiện vẫn chưa hẳn tốt, chưa nghiêm túc. Qua đó chúng ta cần rút ra một số bài học về xuất khẩu thuỷ sản thời gian qua:
-Với người nuôi đánh bắt, họ không thể bán được sản phẩm với giá cao, thậm chí nhiều chủ nuôi khi vật nuôi chết thì chỉ biết đợi mà phá sản.
- Với các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu là rất nhiều lô hàng thuỷ sản bị trả lại và bị phía Nhật cho tạm ngừng xuất khẩu, thậm chí có những doanh nghiệp bị cấm xuất khẩu.
- Ngành thuỷ sản Việt Nam cũng đang dần làm mờ đi uy tín mà chúng ta cố gắng bấy lâu gây dựng. Hàng triệu đô đã dần tuột khỏi tầm tay chúng ta, và nếu trong tương lai gần không cải thiện được tình hình thì có thể con số lên sẽ là hàng tỷ đô. Rồi những khốn đốn trong ngành thuỷ sản Việt Nam tại các thị trường khác cũng sẽ đến. Đó sẽ là bài học rất đắt mà thuỷ sản Việt Nam có thể phải trả giá. Do vậy chúng ta cần có những biện pháp cấp bách để cứu lại tình hình, để minh chứng cho đối tác và nhiều thị trường khác rằng đó chỉ là một cuộc khủng hoảng ngắn. Mà chúng ta sẽ trở lại, xuất khẩu thuỷ sản vẫn sẽ đạt được những thành công trong tương lai.
3.2. Đề xuất các giải pháp nhằm tăng khả năng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Nhật.
3.2.1. Gi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- xzfdh.doc