Đề tài Tìm hiều vấn đề Tự do hoá tài chính ở Việt Nam

Lời mở đầu

Chương 1. Khái quát về tự do hoá tài chính

1.1. Khái niệm

1.2. Trình tự tự do hoá tài chính

1.3. Vai trò của tự do hoá tài chính đối với nền kinh tế

1.3.1. Những lợi ích của tự do hoá tài chính

1.3.2. Những mặt trái của tự do hoá tài chính

1.4. Quá trình tự do tài chính trên thế giới

Chương 2. Tự do tài chính ở Việt Nam

2.1. Sự cần thiết tiến hành tự do hoá tài chính tại Việt Nam

2.2. Quá trình tự hoá tài chính ở Việt Nam

2.2.1. Tự do hoá lãi suất

2.2.2. Tự do hoá hoạt động tín dụng

2.2.3. Tự do hoá hoạt động của các định chế tài chính trung gian

2.2.4. Tự do hoá thị trường chứng khoán

2.2.5. Tự do hoá thị trường dịch vụ tài chính ( bảo hiểm, kiểm toán.)

2.2.6. Tự hoá thị trường ngoại hối

Chương 3. Một số quan điểm cơ bản và định hướng giải pháp thực hiện tự do hoá tài chính ở Việt Nam trong thời gian tới

3.1. Bối cảnh kinh tế- tài chính ở trong và ngoài nước

3.1.1. Bối cảnh trong nước

3.1.2. Bối cảnh ngoài nước

3.2. Một số quan điểm cơ bản về tự do hoá tài chính

3.2.1. Tự do hoá tài chính phải tiến hành theo lộ trình, bước đi chủ động

3.2.2. Tự do hoá tài chính phải được coi là phương tiện, là khâu đột phá

3.2.3. Tự do hoá tài chính phải nằm trong sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ

3.3. Định hướng giải pháp chính sách tự do hoá tài chính ở Việt Nam trong các năm tới

3.3.1. Định hướng tự do hoá lãi suất

3.3.2. Định hướng tự do hoá hoạt động tín dụng

3.3.3. Định hướng tự do hoá hoạt động ngoại hối

3.3.4. Vấn đề chuyển đổi VND trên tài khoản vãng lai và tài khoản vốn

3.3.5. Định hướng tự do hoá hoạt động của các tổ chức tài chính trên thị trường tài chính

3.4. Một số điều kiện đảm bảo cho việc tự do hoá tài chính có hiệu quả

3.4.1. Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế

3.4.2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, đầy đủ và minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế

3.4.3. Xây dựng và thị trường chứng khoán

3.4.4. Thiết lập cơ chế giám sát tài chính đối với nền kinh tế

Kết luận

Tài liệu tham khảo

 

doc70 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2812 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiều vấn đề Tự do hoá tài chính ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hoáng hơn so với trước đây như: đối tượng, phạm vi khách hàng được mở rộng điều kiện cho vay cũng được nới lỏng, thời hạn cho vay phù hợp với chu kỳ hoạt động kinh tế, phương thức cho vay được mở đa dạng và phong phú hơn song vẫn còn nhiều vấn đề cần được giải quyết, mức độ tự do hoá còn chưa cao: - Trên phương diện vĩ mô, hoạt động tín dụng có tính thụ động, chưa chú trọng vấn đề phát triển thị trường, định hướng nền kinh tế. - Hoạt động tín dụng vẫn còn mang tính bao cấp: các doanh nghiệp Nhà nước được hưởng ưu đãi trong vay vốn hơn so với các doanh nghiệp tư nhân. Theo văn bản số 417/CV-NH14 của NHNN, chính phủ quyết định các DNNN vay vốn của các NHTMQD không phải thế chấp, không giới hạn theo tỷ lệ vốn điều lệ của doanh nghiệp mà căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đặc biệt, các doanh nghiệp bị thua lỗ từ năm trước chưa được xử lý, nhưng có phương án kinh doanh có hiệu quả và được Bộ (đối với doanh nghiệp trung ương) hoặc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (đối với doanh nghiệp địa phương) chấp thuận, và đơn vị cam kết sử dụng vốn đúng mục đích, cam kết trả nợ vay đúng hạn thì ngân hàng cho vay tiếp. Như vậy, vô hình chung, việc các ngân hàng thương mại quốc doanh được phép cấp tín dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước mà không cần phải có thế chấp là một việc làm hoàn toàn xao nhãng đến những yêu cầu đòi hỏi đối với một khu vực ngân hàng lành mạnh. Rõ ràng là các ngân hàng thương mại quốc doanh ngày càng bị lạm dụng như là nơi trung chuyển tín dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước. Thực tế này có thể được đánh giá như là hoạt động bao cấp gián tiếp cho ngân sách Nhà nước. Kể từ năm 1997, tức là sau khi có quyết định nói trên, mức tăng tín dụng cho khu vực DNNN nói chung đã tăng nhanh hơn một cách bất thường so với khu vực ngoài quốc doanh (trước đó, tín dụng cho các doanh nghiệp quốc doanh đã giảm). Trong năm1998, khu vực DNNN đã nhận khoản trên 75% tổng lượng tín dụng cho các khu vực kinh tế. Điều này thể hiện rõ sự bất bình đẳng giữa 2 khu vực DNNN và các doanh nghiệp tư nhân. Các doanh nghiệp quốc doanh được cấp tính dụng khi có phương án kinh doanh song thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN Việt Nam hiện nay lại rất kém hiệu quả. Trong khi đó, các doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ hoạt động kinh doanh có hiệu quả hơn lại bị hạn chế tiếp cận với các nguồn vốn. Như vậy, thực tế hiện nay đang phá vỡ tính ổn định của hệ thống ngân hàng Việt Nam, đang ưu đãi khu vực kinh tế Nhà nước hơn là khu vực tư nhân và thể hiện sự bao cấp gián tiếp cho ngân sách Nhà nước. Kết quả của thực tế này là tín dụng ngày càng bị phân bổ sai; điều không tránh khỏi là quá trình tăng trưởng kinh tế phải chịu những tác động tiêu cực. 2.2.3. Tự do hoá hoạt động của các định chế tài chính trung gian. a) Kết quả. Cùng với tiến trình đổi mới kinh tế, thị trường tài chính của Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể, việc chuyển đổi hệ thống ngân hàng từ một cấp chuyển sang 2 cấp với ngân hàng Nhà nước giữ vai trò quản lý và hoạch định chính sách, còn các ngân hàng thương mại được tự do thực hiện các dịch vụ tiền tệ và tín dụng trong khuôn khổ các qui định của ngân hàng Nhà nước ban hành đã đánh dấu bước hoà nhập đầu tiên của hệ thống tài chính Việt Nam vào các tiêu chuẩn cơ bản của TTTC thế giới. Kể từ năm 1990, các qui định về lĩnh vực hoạt động của từng ngân hàng đã được bãi bỏ và các tổ chức tài chính có đủ điều kiện đều được phép tham gia vào hệ thống các ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Cùng với các năm sau đó, thị trường liên ngân hàng ngoại tệ và vốn ngắn hạn đã được thiết lập giữa hệ thống các ngân hàng thương mại, nghiệp vụ bảo lãnh cho vay cùng các loại hình dịch vụ ngân hàng khác đã bắt đầu phát triển thể hiện một bước tiến lớn trong việc đổi mới nghiệp vụ hoạt động của các ngân hàng thương mại. Nhờ kết quả của những nỗ lực đổi mới này, khu vực ngân hàng ở Việt Nam đã phát triển nhanh chóng cùng với việc cho ra đời nhiều loại hình dịch vụ phù hợp với yêu câù của thị trường. Tính cho đến nay, hệ thống trung gian tài chính ở Việt Nam đã phát triển tới: 4 ngân hàng thương mại quốc doanh, 38 ngân hàng thương mại cổ phần, 27 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 40 văn phòng đại diện chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 2 công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài và 2 công ty liên doanh cho thuê tài chính , 948 quĩ tín dụng nhân dân, 82 hợp tác xã tín dụng. Trong đó: - Các ngân hàng thương mại quốc doanh: có quyền thực hiện tất cả các nghiệp vụ huy động vốn, cho vay bằng VNĐ và ngoại tệ, kinh doanh ngoại hối, thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước và quốc tế, kinh doanh vàng bạc, đá quý và cung cấp các dịch vụ tư vấn, thuê mua và bảo lãnh vay vốn... - Các ngân hàng thương mại cổ phần: có cổ đông lớn là các ngân hàng thương mại quốc doanh, các doanh nghiệp Nhà nước và cổ phần. Đa số các ngân hàng thương mại cổ phần được thành lập trong giai đoạn 1991 - 1993. - Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài: các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam chủ yếu cung cấp các dịch vụ tín dụng và tiền tệ bằng ngoại tệ. Đặc biệt trong lĩnh vực tài trợ thương mại (cụ thể là xuất nhập khẩu), hoạt động kinh doanh bằng nội tệ vẫn còn bị hạn chế do các ngân hàng này chỉ được phép huy động một khối lượng giới hạn tiền gửi bằng VNĐ. Các ngân hàng liên doanh: 4 ngân hàng liên doanh cả 4 ngân hàng thương mại quốc doanh và các ngân hàng đối tác nước ngoài cũng phải chịu các qui định hạn chế về lượng huy động tiền gửi bằng VNĐ giống như các chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam. Mặc dù hoạt động của các ngân hàng thương mại cổ phần, liên doanh hay chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam không được hưởng các quy chế ưu đãi như các ngân hàng thương mại quốc doanh. Nhưng trên thực tế, hoạt động của các khu vực ngân hàng này đã có những bước tiến đáng kể và thực sự là các đối thủ cạnh tranh tiềm tàng đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh một khi khu vực ngân hàng phải mở cửa theo cơ chế tự do cạnh tranh. Nếu so sánh với tổng dư nợ của các ngân hàng thương mại quốc doanh, tổng dư nợ của các ngân hàng còn lại vẫn còn chiếm một tỷ trọng tương đối khiêm tốn. Tuy nhiên, có thể nhận thấy chênh lệch dư nợ cho vay bằng ngoại tệ ở cả 2 khu vực ngân hàng là không lớn và nếu như ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Châu Á không làm tỷ giá của VNĐ biến động mạnh thì chắc chắn mức độ tăng dư nợ ngoại tệ của nhóm các ngân hàng còn lại trong các năm 1997 và 1998 sẽ còn cao hơn. Bảng 2.2. Cơ cấu tổng tín dụng cho vay (%) 1996 1997 1998 1999 2000 Tổng cho vay 100 100 100 100 100 Cho vay DNNN 52,8 50,2 52,4 48,2 44,9 Cho vay ngoài quốc doanh 47,2 49,8 47,6 51,8 55,1 Cho vay của NHTMQD, trong đó: 75,5 77,2 81,4 67,9 73,3 Cho vay DNNN 43,4 42,8 47,1 - - Cho vay ngoài quốc doanh 32,1 34,4 34,3 - - Cho vay của NHTM ngoài quốc doanh, trong đó: 24,5 22,8 18,6 - - Cho vay DNNN 9,4 7,4 5,3 - - Cho vay bằng đồng, trong đó: 63,4 68,8 73,9 74,4 79,3 NHTMQD cho vay 53,3 59,3 57,0 56,3 62,8 NHTM khác 10,1 9,5 12,6 18,0 16,5 Cho vay ngoại tệ, trong đó: 36,6 31,2 26,1 25,6 20,7 NHTMQD cho vay 22,2 18,0 24,4 11,6 10,5 NHTM khác 14,4 13,2 6,0 14,0 10,2 Nguồn: Báo cáo của IMF 1.2002 c) Tồn tại. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, hoạt động của hệ thống các chi nhánh ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam cũng mới chỉ giới hạn ở giai đoạn thận trọng thăm dò và tiếp tục nghiên cứu thị trường chứ chưa thực sự đưa ra chiến lược mở rộng hoàn toàn thị phần của Việt Nam. Với việc được quyền thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng đa năng ở Việt Nam, khả năng chiếm lĩnh thị phần từ các ngân hàng này là hoàn toàn có thể. Trong khi đó, chúng ta dường như vẫn chưa nắm bắt được chiến lược phát triển dài hạn của các ngân hàng này trên TTTC của Việt Nam để đưa ra những giải pháp đối phó thích hợp và chấp nhận được. Có thể nhận thấy, chính sự bao biện và can thiệp còn sâu của Nhà nước đối với chính sách hoạt động của các NHTMQD cùng với cơ chế cho vay vượt mức đối với các cổ đông chính trong các ngân hàng thương mại cổ phần là hình ảnh trái ngược đối với chính sách cho vay được thẩm tra thận trọng của các ngân hàng nước ngoài. Cho đến nay, tổng dư nợ của các NHTMQD vẫn chiếm tới trên 70% tổng dư nợ của toàn bộ hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, phần nhiều trong số đó được dành cho các DNNN (44.9%) và chủ yếu theo chỉ đạo của Nhà nước. Ngoài ra, các DNNN vẫn tiếp tục nhận được các nguồn vốn vay ưu đãi, cho vay không cần thế chấp và được dễ dàng vay vốn ngoại tệ, đổi lại, các NHTMQD được Nhà nước cho phép khoanh nợ trong trường hợp khách hàng chưa có khả năng thanh toán đã càng làm tăng tâm lý ỷ lại của các NHTM. Điều này cũng được coi là nguyên nhân làm giảm khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam trước các đối tác nước ngoài. Ngoài ra, sự phân biệt đối xử trong hoạt động cho vay của các NHTMQD đối với khu vực kinh tế tư nhân, hộ gia đình cũng là những kiềm chế và chưa tự do hoá trong hoạt động của các định chế tín dụng trong nưóc. Hoặc các quy định khống chế các ngân hàng có dư nợ dưới 5% tổng dư nợ tín dụng mới được thành lập các công ty chứng khoán hoặc được phép thực hiện các giao dịch chứng khoán cũng là những yêu cầu quá chặt chẽ. 2.2.4. Tự do hoá thị trường chứng khoán. a) Kết quả. Cùng với công cuộc đổi mới sâu rộng nền kinh tế, kinh tế Việt Nam đã chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường nhiều thành phần và cùng với đó là hàng loạt các vấn đề không năng động và hiệu quả đối với khu vực các DNNN. Khôi phục lại uy tín của hệ thống ngân hàng và giảm thiểu các khoản chi ngân sách đã trở thành những ưu tiên hàng đầu của chính phủ. Để tăng cường hiệu quả và năng lực tài chính của khu vực các DNNN, Chính phủ đã tiến hành hàng loạt các biện pháp đổi mới khu vực này trong đó có cả chính sách cổ phần hoá các DNNN. Cùng với các nỗ lực cải cách khu vực DNNN, chính phủ cũng đẩy mạnh công tác phát triển thị trường vốn: - Năm 1997, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã được thành lập với nhiệm vụ xây dựng các khung pháp lý cơ bản cho các hoạt động của thị trường chứng khoán Việt Nam trong tương lai. Khi thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động, ngoài chức năng xây dựng và ban hành các văn bản, thông tư hướng dẫn chi tiết của Pháp lệnh, Nghị định của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán; xây dựng các chính sách, chiến lược, kế hoạch phát triển của thị trường thị trường chứng khoán, Uỷ ban chứng khoán Nhà nước còn có chức năng quản lí giám sát thị trường, đưa ra các quyết định một cách nhanh chóng làm tăng tính ổn định, vững chắc cũng như uy tín của Sơ giao dịch chứng khoán và lòng tin cậy của cộng đồng đầu tư vào thị trường chứng khoán. - Ngày 20/7/2000, Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh đã chính thức khai trương và mở phiên giao dịch đầu tiên ngày 28/7/2000. Việc thành lập Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp. HCM được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc Nhà nước thống nhất quản lý mọi hoạt động giao dịch chứng khoán. Thông qua UBCKNN, các giao dịch được thực hiện trên nguyên tắc công khai thông tin, đảm bảo công bằng, an toàn và hiệu quả. - Theo các qui định hiện hành, các nhà đầu tư nước ngoài đều được phép tham gia có giới hạn vào TTCK Việt Nam vừa với tư cách của nhà đầu tư và cũng vừa với tư cách của một trung gian tài chính. - Theo các qui định của Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 1998 của chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán và quyết định số 139/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tỷ lệ tham gia của các bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài được phép nắm giữ tối đa 20% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của tổ chức phát hành, chứng chỉ quỹ đầu tư của một quỹ đầu tư chứng khoán và/hoặc 40% tổng số trái phiếu đang lưu hành của một tổ chức phát hành. Hiện nay, các nhà đầu tư nước ngoài đã được phép nắm giữ tối đa 30% tổng số cổ phiếu đang lưu hành của tổ chức phát hành. Các tổ chức kinh doanh nước ngoài muốn kinh doanh chứng khoán tại Việt Nam phải thành lập Công ty liên doanh với đối tác Việt Nam theo giấy phép do Uỷ ban chứng khoán Nhà nước cấp. Tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài trong công ty chứng khoán liên doanh tối đa là 30%. Trước đó, mặc dù chưa có các qui định cụ thể về sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK thì đã có một số nhà đầu tư nước ngoài thông qua các quỹ đầu tư, bên cạnh việc đầu tư vào một số hạng mục công trình ở Việt Nam, cũng đã tiến hành đầu tư vào các cổ phiếu của các ngân hàng thương mại cổ phần của Việt Nam với một tỷ lệ tối đa cho phép là 30% theo qui định của Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính ngày 23/5/1990. Bên cạnh đó, việc đầu tư vào các đợt phát hành trái phiếu có thể chuyển đổi và cổ phiếu của một số công ty được cổ phần hoá đã cho thấy thị trường vốn của Việt Nam cũng có một tiềm năng lớn dưới con mắt của các nhà đầu tư nước ngoài. b) Tồn tại. Nhìn chung, các qui định về mức độ tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK. Việt Nam hiện nay là hợp lý, thể hiện quan điểm thận trọng của Chính phủ đối với việc tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào một khu vực thị trường tương đối nhạy cảm và ở một chừng mực nào đó thì kinh nghiệm của chúng ta trên thị trường này vẫn gần như là một con số không. Đặc biệt, trong bối cảnh hàng loạt các nước trong khu vực có nền kinh tế bị điên đảo sau cơn bão của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ mà một trong những nguyên nhân chính là sự bất lực của chính phủ các nước trước việc ngăn cản luồng vốn đầu tư danh mục của các nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt rút khỏi thị trường cũng là một bài học kinh nghiệm quý báu mà Việt Nam cần phải lưu ý trong việc xây dựng lộ trình tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường vốn của Việt Nam. Tuy nhiên, theo qui định, một pháp nhân nước ngoài chỉ được phép nắm giữ 10% cổ phiếu của một DNNN cổ phần hoá cũng cần phải được xem xét hoặc cần phải mở rộng giới hạn để tạo điều kiện thu hút thêm nhiều định chế đầu tư tiềm năng từ nước ngoài. Kinh nghiệm nước ngoài cho thấy, ở các nước khu vực trước thời kỳ khủng hoảng tài chính, có khống chế giới hạn tỷ lệ cổ phần nắm giữ của nước ngoài 49% nhưng sau khủng hoảng đã mở rộng lên đến 100%. Như vậy, mức độ tự do hoá cao hơn nhiều và đó chính là điều kiện để thu hút vốn nước ngoài thuận lợi hơn. 2.2.5. Tự do hoá thị trường dịch vụ tài chính (bảo hiểm, kiểm toán...) a) Kết quả. - Về dịch vụ bảo hiểm: Tổ chức bảo hiểm đầu tiên của Việt Nam được ra đời từ năm 1964. Kể từ đó tới nay, ngành bảo hiểm đã từng bước trưởng thành và liên tục phát triển cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt là trong giai đoạn từ năm 1994 tới nay là giai đoạn thị trường bảo hiểm Việt Nam định hình rõ nét nhất, có sự thay đổi mang tính bước ngoặt, hoạt động trên cơ sở nghị định số 100/CP của Chính phủ về kinh doanh bảo hiểm, đó là: + Đã hình thành được thị trường dịch vụ bảo hiểm với sự tham gia của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài nước, bước đầu hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong tổng số 18 doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm của cả nước thì có tới 5 công ty liên doanh, 5 công ty 100% vốn nước ngoài (trong đó có một công ty môi giới bảo hiểm) và 40 văn phòng đại diện công ty bảo hiểm nước ngoài. + Đã góp phần thu hút một lượng vốn khá hơn, tăng khả năng tích luỹ và đầu tư cho nền kinh tế. + Từng bước ổn định sản xuất và đời sống dân cư, giảm bớt gánh nặng cho NSNN, tăng nguồn thu cho NSNN tăng bình quân 25%/năm. + Hình thành cơ chế thị trường bảo hiểm và đổi mới hệ thống các công cụ quản lý Nhà nước đối với thị trường bảo hiểm. + Từng bước đổi mới công nghệ bảo hiểm và nâng cao trình độ nghiệp vụ và năng lực làm việc của đội ngũ cán bộ bảo hiểm. - Về dịch vụ kế toán và kiểm toán: Đã có các qui định pháp lý cụ thể về hoạt động kinh doanh dịch vụ kế toán và kiểm toán. Từ năm 1994 đến nay, từ chỗ chỉ có 2 công ty kiểm toán đã có 34 công ty với tổng số 35 chi nhánh và văn phòng giao dịch, gồm 6 công ty nước ngoài, 5 công ty tư nhân, 1 công ty liên doanh, 4 công ty 100% vốn nước ngoài. Xét về khía cạnh chế độ chính sách, cũng có các qui định khác nhau đối với các công ty kiểm toán trong và ngoài nước. Ví dụ: về nhân sự và vốn pháp định; Các công ty kiểm toán trong nước phải có 5 kiểm toán viên và vốn pháp định là 1 tỷ đồng; Các công ty nước ngoài không có qui định chung mà chỉ qui định cho từng trường hợp cụ thể. Về phạm vi hoạt động, các công ty kiểm toán Việt Nam có đối tượng là tất cả các doanh nghiệp Nhà nước, công ty TNHH, công ty cổ phần, DNTN, HTX, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chứcđoàn thể xã hội, các tổ chức quốc tế ở Việt Nam. Trong khi đó, các công ty kiểm toán nước ngoài chỉ được phép kiểm toán cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Về giá cả, đã qui định cho phép thực hiện theo giá cả thoả thuận. Nhìn chung, qui mô của cả thị trường bảo hiểm và kiểm toán tuy có phát triển nhanh loại hình nghiệp vụ khá đa dạng, nhưng so với nhu cầu và khả năng thì còn rất rộng lớn, chưa đáp ứng nhu cầu và tiềm năng sẵn có. b) Tồn tại. Tuy ngành bảo hiểm và dịch vụ kiểm toán đã tương đối phát triển song nhìn chung, mức độ độc quyền trong khu vực này có khá cao, hầu như không có cạnh tranh trong khu cực này nền các công ty bảo hiểm của ta hầu như không có uy tín với các khách hàng nước ngoài, độ mở cửa còn rất thấp. Điều này thể hiện ở các khía cạnh sau: - Các loại hình bảo hiểm của ta còn rất đơn điệu (chủ yếu mới có BHXH, bảo hiểm vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu, tàu biển, tai nạn hành khách trong nước..., tái bảo hiểm). Nhiều loại dịch vụ bảo hiểm tuy đã được triển khai song quy mô và phạm vi thực hiện cũng vẫn rất hạn chế. Bảo hiểm nhân thọ - một trong những công cụ có hiệu quả nhất để thu hút tiền tiết kiệm trong dân cư mới chỉ đang trong giai đoạn thí điểm. Hoạt động dịch vụ kiểm toán mới bó hẹp trong khu vực các DNNN và một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Quy mô của ngành bảo hiểm và kiểm toán cũng còn hạn chế (số lượng các công ty bảo hiểm và kiểm toán còn ít), khả năng tài chính còn hạn hẹp: tổng số vốn điều lệ của các doanh nghiệp bảo hiểm khoảng 400 tỷ đồng. - Mức độ độc quyền Nhà nước trong thị trường bảo hiểm và kiểm toán còn rất cao, hiện nay trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm và kiểm toán chủ yếu là các công ty độc quyền Nhà nước: - Trong hoạt động tái bảo hiểm các dịch vụ bảo hiểm lớn như hàng không, hàng hải, dầu khí phải tái bảo hiểm với các công ty nhận tái bảo hiểm của nước ngoài dẫn đến tình trạng phải chuyển ra ngoài một lượng ngoại tệ rất lớn. - Doanh thu của ngành bảo hiểm và kiểm toán còn thấp (chẳng hạn, bảo hiểm chỉ chiếm 0,48% GDP) trong khi tỷ lệ này ở các nước phát triển lên tới 14%, các nước trong khu vực là 5%. - Hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm còn hạn chế, các nguồn vốn nhàn rỗi chủ yếu (70%) mới chỉ gửi vào ngân hàng lấy lãi, chưa xây dựng được quỹ đầu tư và chưa xác định được mục tiêu đầu tư trở lại nền kinh tế. - Môi trường hoạt động kinh doanh bảo hiểm còn hạn chế, thị trường dịchvụ tài chính kế toán và kiểm toán còn chưa phát triển. 2.2.5. Tự do hoá thị trường ngoại hối a/Kết quả. Việt Nam đã có hệ thống tỷ giá điều chỉnh theo tín hiệu thị trường từ năm 1989, nhưng vẫn có sự can thiệp của Chính phủ. Sau bước điều chỉnh ngoạn mục năm 1989 với sự kiện phá giá rất mạnh nội tệ, sau đó nhanh chóng thống nhất tỷ giá chính thức và thị trường, xoá bỏ cơ bản hệ thống tỷ giá cũ quá phức tạp,... thì cơ chế quản lý ngoại hối và chính sách tỷ giá của Việt Nam đã có bước chuyển biến rất căn bản sang cơ chế thị trường, thoát khỏi trạng thái thụ động để trở thành công cụ điều chỉnh vĩ mô quan trọng trong nền kinh tế mở. Sau một thời gian ổn định, tiền đồng giảm độ 5% theo giá hiện hành so với giá USD trong nửa đầu năm 1997. Chính phủ đã nới rộng khung tỷ giá giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá liên ngân hàng đến +/-5%. Tỷ giá hối đoái thực tăng khoảng 50% từ năm 1990. Từ 13/10/97, tỷ giá VNĐ/USD trong giao dịch liên ngân hàng được phép giao động 10% so với tỷ giá chính thức của NHNN công bố. Bước chuyển quan trọng trong chính sách tỷ giá và quản lý ngoại hối là lấy tỷ giá liên ngân hàng làm tỷ giá chính thức từ 8.1998 và cho biên độ giao động hàng ngày 0,1%, đồng thời giảm mạnh tỷ lệ kết hối bắt buộc đối với các doanh nghiệp có thu ngoại tệ từ 80% xuống 50% rồi 40% và nới lỏng cho phép mọi người gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ. Các qui định về tự cân đối ngoại tệ đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng được nới lỏng từng bước để khuyến khích và thu hút đầu tư đồng thời phù hợp với tiến trình tự do hoá tài chính. Hiện nay, các nhà kinh tế quốc tế đều tán đồng chính sách quản lý tỷ giá linh hoạt của Việt Nam và đề nghị tăng tính linh hoạt hơn. b/ Tác động của tự do hoá thị trường ngoại hối Tỷ giá hối đoái giai đoạn 1991 - 1998 diễn biến theo "hình lòng chảo", tăng vọt vào năm 1991 (giá USD tăng gấp đôi so với năm 1990), tỷ giá thị trường tự do lên tới 14.500 VNĐ/USD. Đây là kết quả tất yếu của thả nổi tỷ giá sau một giai đoạn giữ tỷ giá quá thấp phi thực tế trong khi nền kinh tế chịu đựng siêu lạm phát. Sau đó VNĐ tăng giá mạnh vào năm 1992 và hầu như giữ vững giá trị tới cuối năm 1997 nhờ Nhà nước tăng cường quản lý và can thiệp mạnh vào thị trường ngoại hối bằng cả các biện pháp hành chính và kinh tế, trực tiếp và gián tiếp, trong đó các biện pháp hành chính và trực tiếp là chủ yếu, điều chỉnh "nhỏ giọt", vừa góp phần ổn định kinh tế vĩ mô (chỉ số lạm phát giảm mạnh), kích thích tăng trưởng kinh tế (kim ngạch xuất khẩu tăng liên tục qua các năm ở mức cao), vừa ổn định tâm lý trên thị trường ngoại tệ, chặn đứng được những cú sốc tỷ giá (đầu 10/1996 và cuối năm 1997). Điều chỉnh mạnh tỷ giá ngày 7.8.1998 là bước nhảy thứ hai trong vòng 6 tháng (sau khi tăng biên độ từ 1% năm 1996 lên 5% vào 3/1997, rồi lên 10% vào 10/1997, tỷ giá chính thức đã tăng từ 11.175 lên 11.800 VNĐ/USD ngày 16/2/1998) và kết quả là tỷ giá chính thức tăng tới 16,3% - phá giá mạnh lần này (trên 10%) đã đẩy giá thị trường tự do lên ngang mức năm 1991. Đi đôi với nó là giảm biên độ tỷ giá liên ngân hàng so với tỷ giá chính thức từ 10% xuống 7%. Như vậy, NHNN đã sử dụng khá linh hoạt hai công cụ điều hành tỷ giá là tỷ giá chính thức do NHNN công bố (từ cố định trong thời gian dài trước đây sang công bố hàng ngày và tương đối uyển chuyển theo cung cầu ngoại tệ và định hướng thị trường của nhà nước) và biên độ giao động (từ cứng nhắc đến khá mềm dẻo, từ chỉ có tăng biên độ tới cả giảm biên độ). CHƯƠNG 3. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP THỰC HIỆN TỰ DO HOÁ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI. 3.1. Bối cảnh kinh tế - tài chính ở trong và ngoài nước. 3.1.1.Bối cảnh trong nước. Trước sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hoá và tự do hoá kinh tế thế giới và xu hướng đổi mới không thể đảo ngược của nền kinh tế Việt Nam từ nền kinh tế KHHTT sang nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN có thể tạm thời dự đoán về bối cảnh kinh tế tài chính nước ta trong thời gian tới sẽ biến đổi theo một số xu hướng mới. Đó là: - Đổi mới cơ chế và thể chế kinh tế theo cơ chế thị trường vẫn được tiếp tục diễn ra với tốc độ mạnh hơn, nhanh hơn và triệt để hơn. Mức độ và phạm vi thị trường hoá các quan hệ kinh tế tài chính sẽ được mở rộng và phát triển ở mức độ cao hơn. Khu vực kinh tế - tài chính công sẽ bị thu hẹp về quy mô và tỷ trọng nhưng chất lượng và hiệu quả sẽ cao hơn. Khu vực kinh tế - tài chính tư nhân sẽ phát triển mạnh, có quy mô và tỷ trọng tăng cao và sẽ chiếm vị trí quan trọng. Sự can thiệp trực tiếp mang tính hình thức của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của các chủ thể kinh tế sẽ giảm dần và được thay đổi về cơ bản từ phương thức quản lý trực tiếp sang quản lý gián tiếp bằng các công cụ pháp luật, cơ chế, chính sách vĩ mô. Sự độc lập và tự chủ của các đơn vị kinh tế được mở rộng. Nhiều tổ chức nghề nghiệp hoạt động theo chế độ tự quản sẽ ra đời và phát triển, thay thế cho các chức năng của một số cơ quan quản lý Nhà nước. Môi trường kinh tế tài chính đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh sẽ trở nên bình đẳng, không có sự phân biệt theo tính chất sở hữu và địa điểm ưu tiên. - Hội nhập quốc tế về kinh tế sẽ diễn ra mạnh mẽ cả về bề rộng lẫn chiều sâu: Cạnh tranh kinh tế - tài chính trên thị trường nội địa và quốc tế sẽ trở nên quyết liệt hơn. Hệ quả là, các nguồn lực kinh tế sẽ được phân bổ và sử dụng có hiệu quả hơn thông qua cơ chế thị trường nhưng sự khan hiếm và khó khăn về nguồn lực phân tán, nhất là các nguồn vốn đối với nhiều chủ thể kinh tế, hoạt động không hiệu quả sẽ là rất tất yếu và có thể dẫn đến bị phá sản. Sự giao lưu và thâm nhập của các nguồn lực từ bên ngoài vào và từ trong nước chảy ra nước ngoài sẽ được tăng lên. Công nghệ trong thanh toán và giao dịch sẽ có đổi mới nhanh hơn nhưng khoảng cách chênh lệch so với các nước vẫn còn lớn. Loại hình và chất lượng của các dịch vụ tài chính, bảo hiểm, ngân hàng sẽ được đa dạng hoá hơn vì có chất lượng cao hơn. - Tài chính - tiền tệ trở thành công cụ kinh tế vĩ mô chủ yếu của Nhà nước, đóng vai trò ngày càng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0367.doc
Tài liệu liên quan