Đề tài Tìm hiểu về chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá theo luật thương mại Việt Nam

MỤC LỤC

 

Lời nói đầu 3

Phần I: Khái quát chung về luật Thương Mại Việt Nam 4

I. Hoàn cảnh và mục đích ra đời 4

1. Hoàn cảnh ra đời của Luật thương mại Việt Nam. 4

2. Mục đích ra đời của Luật thương mại Việt Nam 5

II. Vai trò của Luật thương mại Việt Nam 6

1. Bảo đảm quản lý nhà nước đối với hoạt động thương mại. 6

2. Thực hiện quyền tự do kinh doanh của công dân trên lĩnh vực thương mại. 6

3. Thực hiện quyền bình đẳng trước pháp luật của thương nhân thuộc

mọi thành phần kinh tế trong các hoạt động thương mại. 7

4. Qui định những điều kiện đối với thương nhân trong

các hoạt động thương mại 7

III. Phạm vi điều chỉnh của Luật thương mại Việt Nam với tư cách là nguồn luật điều chỉnh hợp đồng mua bán giữa thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài. 8

Phần II: Chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng 9

I. Các yếu tố cấu thành trách nhiệm do vi phạm

hợp đồng mua bán ngoại thương. 9

1. Thụ trái có hành vi vi phạm pháp luật 9

2. Phải có lỗi của bên vi phạm hợp đồng. 10

3. Trái chủ bị thiệt hại vật chất, thiệt hại về tài sản hoặc

các quyền có giá trị tài sản. 11

4. Có mối quan hệ trực tiếp giữa hành vi vi phạm hợp đồng

và thiệt hại vật chất. 12

II. Các chế tài áp dụng cho việc vi phạm hợp đồng

trong hoạt động mua bán hàng hóa theo

Luật thương mại Việt Nam. 12

1. Buộc thực hiện đúng hợp đồng 13

2. Phạt vi phạm 15

3. Bồi thường thiệt hại. 17

4. Chế tài hủy hợp đồng. 21

5. Mối quan hệ giữa các chế tài theo Luật thương mại Việt Nam. 25

III. Các trường hợp miễn trách do vi phạm hợp đồng

trong hoạt động mua bán hàng hóa của thụ trái. 27

1. Miễn trách khi gặp các trường hợp đã được thỏa thuận trong hợp đồng. 27

2. Miễn trách khi gặp bất khả kháng. 27

Phần III: Hạn chế của các quy định về chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán theo Luật thương mại Việt Nam. Kiến nghị và giải pháp 31

I. Những hạn chế của các quy định về chế tài thương mại theo Luật thương mại Việt Nam. Kiến nghị và giải pháp. 32

1. Về mối quan hệ giữa chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng

và các chế tài khác. 32

2. Về chế tài phạt vi phạm 37

3. Về chế tài bồi thường thiệt hại. 39

4. Về chế tài hủy hợp đồng. 40

II. Những hạn chế của các quy định về các trường hợp miễn trách do vi phạm hợp đồng mua bán ngoại thương theo Luật thương mại Việt Nam - Kiến nghị và giải pháp. 42

1. Cần quy định một số trường hợp phổ biến như đình công, lệnh cẫm

xuất nhập khẩu của Nhà nước là những trường hợp bất khả kháng để làm căn cứ miễn trách nhiệm. 42

2. Giấy chứng nhận bất khả kháng như thế nào được coi là hợp lý. 44

3. Cần quy định thêm trường hợp miễn trách khi người thứ ba có quan hệ hợp đồng với bên vi phạm gặp bất khả kháng. 45

Kết luận 46

Tài liệu tham khảo 47

 

 

doc53 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7562 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu về chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá theo luật thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g về thời hạn giao hàng. Tuy nhiên, trên thực tế trường hợp này cũng thường hay gây tranh cãi. Ví dụ, A chậm giao hàng hai tháng, B tính toán các khoản thiệt hại bao gồm: tiền lương công nhân hai tháng, ngừng sản xuất hai tháng, thuế nộp trong hai tháng, tiền khấu hao nhà xưởng, các chi phí khác... Song đây không phải là những khoản lợi đáng lẽ được hưởng mà chỉ là những thiệt hại do suy đoán vì nếu A không giao hàng, B phải đi mua hàng với giá cao hơn, do đó sẽ được coi là thiệt hại thực tế. Mặc dù, lỗi được xác định trên cơ sở suy đoán lỗi nhưng khi áp dụng loại chế tài này, bên đòi bồi thường thiệt hại có nghĩa vụ phải chứng minh tổn thất và mức độ tổn thất (Điều 231, Luật thương mại). Ngoài nghĩa vụ chứng minh tổn thất và mức độ tổn thất, “bên đòi bồi thường thiệt hại phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất kể cả khoản lợi đáng lẽ được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra; nếu bên đòi bồi thường thiệt hại không áp dụng các biện pháp đó, bên vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu giảm bới tiền bồi thường thiệt hại bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được.” (Điều 232, Luật thương mại) Quy định này của Luật thương mại Việt Nam cũng giống với quy định của Công ước Viên 1980 khi áp dụng chế tài này. Riêng đối với trường hợp bên vi phạm chậm thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán phí dịch vụ và các chi phí khác, Điều 233, Luật thương mại Việt Nam quy định “bên kia có quyền đòi tiền lại trên số tiền chậm trả đó theo lãi suất nợ quá hạn do Ngân hàng nhà nước Việt Nam quy định tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.” Như vậy, số tiền lãi này cũng giống như khoản tiền bồi thường thiệt hại mà bên vi phạm phải trả cho bên có quyền lợi bị vi phạm bởi vì trên thực tế, việc chậm trả tiền này có thể làm bên có quyền lợi bị vi phạm thất thu những khoản lợi hay bỏ lỡ các thương vụ làm ăn khác. Trong thực tiễn thương mại, có thể thấy không phải lúc nào chế tài đòi bồi thường thiệt hại cũng được bên vi phạm chấp hành nghiêm chỉnh. Đó là vụ việc tranh chấp giữa ba công ty của Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc. Công ty TICO Ltd. (Nhật Bản) ký hợp đồng mua của công ty Sunkuong Ltd. (Hàn Quốc) số lượng 1.300 tấn phân Urê để bán lại cho công ty xuất khẩu rau quả III thuộc Tổng công ty rau quả Việt Nam (VEGETEXCO). Hàng đến cảng Hải Phòng ngày 6/9/1996, VEGETEXCO đã làm tờ khai hải quan tiếp nhận lô hàng và hải quan thành phố cũng đã làm thủ tục kiển hàng thông qua Tổng cục đo lường chất lượng (Quatest 3). Kết quả giám định cho biết độ biuret của lô hàng trên là 1,8% (trong khi hợp đồng quy định là 1% và độ biuret tối đa mà kỹ thuật cho phép là dưới 1,5%). Như vậy tức là lô hàng không đảm bảo chất lượng so với hợp đồng. Do đó, VEGETEXCO không những phải lưu giữ lô hàng mà còn bị hải quan xử phạt hành chính vì đã nhập hàng không đạt tiêu chuẩn, phạt 18 triệu VNĐ và buộc phải tái chế lô hàng trước khi phân phối. Hơn nữa, kết quả giám định tiếp tục của Vinacontrol cho thấy, hầu hết khối lượng của các bao dưới mức tiêu chuẩn là 50 kg và không đồng nhất, có bao chênh tới 9 kg. Như vậy, lô hàng trên cả về chất lượng và khối lương đều không đúng quy định của hợp đồng. Vì vậy, VEGETEXCO đã kiện TICO ra trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, đòi bồi thường tổng giá trị thiệt hại gồm cả lãi suất đọng vốn do phải giám định, tái chế, bốc dỡ, đóng gói lô hàng là 35.719,48 USD trong thời gian 30 ngày kể từ ngày 23/10/1997 (là ngày trọng tài ra phán quyết). Ngoài ra, trọng tài còn tuyên bố TICO phải chịu chi phí trọng tài là 1.259,03 USD. Song đến nay, VEGETEXCO vẫn chưa được TICO bồi thường với lý do phía Hàn Quốc chưa bồi thường thiệt hại cho TICO. Từ vụ việc nêu trên, có thể thấy cho dù có áp dụng các hình thức trách nhiệm khi có vi phạm hợp đồng, song nếu bên vi phạm cố tình không thực hiện dù đó là phán quyết của trọng tài đi nữa thì bên chịu thiệt nhiều nhất vẫn là những doanh nghiệp làm ăn lương thiện. 4. Chế tài hủy hợp đồng. Hủy hợp đồng là chế tài nặng nhất áp dụng cho việc vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa. Chế tài này thường chỉ được áp dụng khi các bên đã sử dụng những biện pháp khác song không mang lại kết quả. Luật pháp về buôn bán ngoại thương của các nước chưa quy định thống nhất nhau trường hợp vi phạm nào được quyền hủy hợp đồng. Theo luật mua bán năm 1893 của Anh, một bên có quyền hủy hợp đồng khi bên kia vi phạm điều khoản chủ yếu của hợp đồng. Điều khoản chủ yếu là những điều khoản đi vào gốc rễ, đi vào mục đích chính của hợp đồng. Đây là một quy định chung chung, còn cụ thể điều khoản nào là chủ yếu còn phụ thuộc vào cách xem xét của các bên, và quyết định của Tòa án hoặc trọng tài. Theo thực tiễn tư pháp của Anh, vi phạm điều khoản chủ yếu thường bao gồm: vi phạm thời hạn giao hàng, vi phạm phẩm chất bán hàng theo mẫu, vi phạm phẩm chất khi mua bán hàng theo mục đích sử dụng... Theo luật của Pháp, nếu một bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ hợp đồng thì bên kia có quyền đòi họ thực hiện thực sự hoặc đòi hủy hợp đồng cùng với việc bồi thường thiệt hại xảy ra. Nhưng không phải bất kỳ trường hợp vi phạm hợp đồng nào cũng dẫn đến hủy hợp đồng, mà chỉ hủy hợp đồng khi có sự vi phạm nghiêm trọng. Nhìn chung, theo luật của các nước TBCN, chế tài hủy hợp đồng được áp dụng khi: Ø Vi phạm thời gian giao hàng; Ø Giao hàng có phẩm chất quá kém; Ø Vi phạm phẩm chất hàng khi phẩm chất được quy định theo mẫu; Ø Hàng giao không đáp ứng được công dụng thông thường; Ø Hàng thuộc loại cá biệt và có mục đích chuyên dụng nhất định nhưng hàng giao không đạt được mục đích đó... Theo Công ước Viên 1980, việc hủy hợp đồng được áp dụng khi không giao hàng trong thời gian gia hạn thêm, khi không trả tiền hàng trong thời gian đã gia hạn thêm, khi vi phạm cơ bản hợp đồng. Đề cập đến chế tài này, Điều 235, Luật thương mại Việt Nam quy định như sau: “Bên có quyền lợi bị vi phạm tuyên bố hủy hợp đồng nếu việc vi phạm của bên kia là điều kiện để hủy hợp đồng mà các bên đã thỏa thuận.” Như vậy, Luật thương mại Việt Nam không quy định cụ thể các điều kiện theo đó các bên có được hủy hợp đồng mà theo Luật thương mại, để có thể hủy hợp đồng, trước hết các bên phải thỏa thuận trong hợp đồng. Điều này có nghĩa là Luật thương mại chỉ thừa nhận duy nhất một trường hợp hủy hợp đồng là khi các bên có thỏa thuận sẵn rằng việc vi phạm đó sẽ áp dụng chế tài hủy hợp đồng. Việc hủy hợp đồng do hai bên tùy ý thỏa thuận và luật không quy định các trường hợp hủy. Do vậy, nếu các bên không có thỏa thuận gì về trường hợp vị nào hủy hợp đồng thì theo Luật thương mại Việt Nam là không được hủy hợp đồng. Các bên có thể thỏa thuận bằng điều khoản hợp đồng hoặc bằng văn bản bổ sung hợp đồng. Trên thực tế, chế tài hủy hợp đồng thường được áp dụng khi thụ trái có sự vi phạm cơ bản các nghĩa vụ của hợp đồng: Ø Người bán cố tình không giao hàng trong trường hợp người mua đã gia hạn giao hàng; Ø Người bán giao hàng thiếu khi đã hết thời gian gia hạn cho việc giao hàng mà số hàng đã giao không thể đưa vào khai thác sử dụng được; Ø Người bán giao hàng kém phẩm chất đến mức hàng hóa đã giao không thể đáp ứng được mục đích sử dụng của hợp đồng; Ø Người bán giao hàng sai chủng loại, sai mẫu mà hợp đồng quy định (nếu sai mẫu nhỏ thì có thể áp dụng chế tài phạt); Ø Người mua cố tình không thanh toán, dù người bán đã gia hạn; Ø Người mua không nhận hàng trong thời gian đã gia hạn thêm. Muốn áp dụng chế tài này, “Bên hủy hợp đồng phải thông báo ngay cho bên kia biết về việc hủy hợp đồng, nếu không thông báo ngay mà gây thiệt hại cho bên kia thì bên hủy hợp đồng phải bồi thường.” (Điều 236, Luật thương mại) Trong luật pháp các nước, đây cùng là một điều kiện bắt buộc: muốn chế tài hủy hợp đồng có giá trị pháp lý thì trái chủ, người muốn áp dụng chế tài này phải thông báo cho thụ trái biết về việc mình hủy hợp đồng. Như vậy, muốn áp dụng chế tài hủy hợp đồng, bên bị vi phạm phải chứng minh việc vi phạm hợp đồng của bên kia thuộc trường hợp bị hủy (Theo Luật Thương mại là trường hợp đã được quy định trong hợp đồng.) và tiến hành gửi thông báo quyết định hủy hợp đồng cho bên vi phạm. Mục đích của việc thông báo này chính là để các bên thương lượng, cho bên vi phạm biết để mà tính toán, dự kiến tổn thất và có cách xử lý. Trên thực tế, một khi hai bên đã quy ước với nhau sẽ áp dụng chế tài hủy hợp đồng trong trường hợp vi phạm đã được quy định trong hợp đồng thì bên bị vi phạm có quyền tiến hành hủy hợp đồng cùng lúc với việc thông báo hủy hợp đồng được gửi tới bên kia. Còn nếu không có quy định trong hợp đồng thì bên bị vi phạm muốn áp dụng chế tài này phải được sự đồng ý của bên vi phạm. Thực tế là không có người vi phạm nào đồng ý hủy hợp đồng, kể cả khi cố tình vi phạm, vì nếu thế có nghĩa là họ tự nhận mình là có lỗi và sẽ gây hậu quả lớn. Do đó, họ thường phản đối hay im lặng. Vì vậy phải có quyết định của trọng tài, tòa án nếu vụ việc được đưa ra giải quyết ở các cơ quan xét xử. Điểm này cũng là một điểm khác biệt của Luật thương mại Việt Nam so với Công ước Viên 1980 vì Công ước Viên theo quan điểm cho rằng hủy hợp đồng là một biện pháp bảo hộ pháp lý mà bên bị vi phạm có quyền áp dụng để bảo vệ quyền lợi của mình khi quyền lợi đó bị vi phạm nghiêm trọng. Do đó, sự hủy hợp đồng là đương nhiên mà không cần tới sự can thiệp của tòa án hay trọng tài vì thủ tục này thường rất rườm rà, phức tạp và là một sự can thiệp không cần thiết vào quyền tự do hợp đồng và thực chất, tòa án cũng chỉ xét xen đơn xin hủy hợp đồng có hội tụ đủ các điều kiện hủy theo luật định hay ước định không. Thực tiễn hoạt động kinh doanh cũng cho thấy có những trường hợp không cần phải thông báo cũng không cần quyết định của trọng tài, tòa án mà vẫn hủy. Sau đây là một ví dụ minh chứng cho điều đó. Người bán không giao hàng trong thời gian đã gia hạn. Người mua điện hủy nhưng người bán không chịu, vẫn tiến hành giao hàng. Lúc này, người mua không cần phải nhận hàng mà mọi phí tổn vẫn do người bán chịu. Nếu hợp đồng quy định phương thức thanh toán bằng tín dụng chứng từ thì trong trường hợp này, người bán đã giao hàng nhưng vẫn không lấy được tiền hàng do người mua không tiến hành sửa đổi thời hạn hiệu lực đã hết của L/C. Như vậy, người mua không phải đưa vụ việc ra tòa án mà vẫn được hủy. Nếu hợp đồng quy định phạt 5% nếu một bên không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, người mua vẫn có quyền quy kết người bán không giao hàng để đòi phạt 5%. Nếu người bán không chấp nhận, người mua có quyền kiện ra tòa. Việc áp dụng chế tài hủy hợp đồng để lại cho các bên những hậu quả pháp lý nhất định. Theo Điều 237, hậu quả của việc hủy hợp đồng là: Ø Sau khi hủy hợp đồng, các bên không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng Ø Mỗi bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ thỏa thuận trong hợp đồng; nếu các bên đều có nghĩa vụ bồi hoàn thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện đồng thời. Ø Bên bị thiệt hại có quyền đòi bên kia bồi thường. Quy định “không phải tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa thuận” có nghĩa là nếu các bên chưa thực hiện hợp đồng thì không thực hiện nữa, nếu đang tiến hành thì phải ngừng lại, nếu đã thực hiện xong thì thôi. Còn trường hợp hai bên đã nhận được quyền lợi của nhau thì phải hoàn trả song song bằng hiện vật (trả lại hàng) hoặc bằng tiền, ví dụ người bán trả lại tiền cho người mua, người mua trả lại hàng cho người bán, mọi chi phí liên quan do thụ trái gánh chịu. Mọi chi phí, thiệt hại và các phí tổn, tổn thất phát sinh do việc áp dụng chế tài hủy hợp đồng gây ra đều do thụ trái, người vi phạm cơ bản của hợp đồng phải gánh chịu. Thực tế các nước phát triển như Đông Nam Á cho thấy “việc bồi hoàn nghĩa vụ phải được thực hiện đồng thời” là rất khó khăn (do thường chỉ có một bên trả, bên phải trả sau thường không trả nữa) nên để bảo vệ quyền lợi của mình, các bên hay áp dụng biện pháp bảo lãnh là thông qua người thứ ba, thường là ngân hàng. Ví dụ như người bán gửi tiền vào tài khoản phong tỏa của ngân hàng, khi người mua bốc hàng lên tàu, xuất trình chứng từ thì được lấy tiền. Việc hủy hợp đồng không có nghĩa là hai bên có thể trở lại trạng thái ban đầu như khi chưa ký hợp đồng. Về mặt pháp lý thì có thể coi các bên đương sự không còn nghĩa vụ gì với nhau, do đó trở lại trạng thái ban đầu. Song nếu đã có vi phạm hợp đồng hoặc một bên gặp bất khả kháng dẫn đến hợp đồng bị hủy thì ít nhất một bên của hợp đồng đã chịu thiệt hại hay đã phải bồi thường thiệt hại cho bên kia thì không thể coi là vẫn ở trạng thái ban đầu được. Trên thực tế, việc hủy hợp đồng còn dẫn đến một hậu quả nữa là gây sự mất tín nhiệm đối với nhau, ảnh hưởng đến quan hệ làm ăn sau này là điều mà không bên nào muốn. Trách nhiệm do hủy hợp đồng cũng thường lớn hơn thiệt hại thông thường, gồm: làm giảm tài sản, chi phí phải chi thêm, lợi mất hưởng, chi phí đã chi ra cho đến lúc vi phạm nhưng không đạt được mục đích của hợp đồng (chi phí giao dịch, đàm phán, rồi chi phí mở L/C cộng với lãi của số tiền ký quỹ...) Chế tài hủy hợp đồng có thể được áp dụng đồng thời hay kết hợp với các chế tài khác như: phạt, bồi thường, phạt và bồi thường và thường chỉ áp dụng khi các bên không thể áp dụng các chế tài khác. Do đó, các bên khi thỏa thuận áp dụng chế tài hủy hợp đồng phải cân nhắc kỹ để tránh thiệt hại nhiều. 5. Mối quan hệ giữa các chế tài theo Luật thương mại Việt Nam. Việc lựa chọn hình thức trách nhiệm là khi có vi phạm hợp đồng là do bên bị vi phạm ấn định hoặc do các bên đã thỏa thuận sẵn trong hợp đồng. Các chế tài thương mại này được bên bị vi phạm trực tiếp áp dụng đối với bên kia hoặc thông qua cơ quan nhà nước có thẩm quyền (nộp đơn khởi kiện tại tòa án hay trọng tài). Khi lựa chọn áp dụng các hình thức trách nhiệm, các bên có liên quan cần tìm hiểu kỹ mối quan hệ giữa các chế tài và tính toán kỹ sao cho để giảm thiểu thiệt hại phát sinh nhằm đảm bảo quyền lợi chính đáng của mình. Một chế tài thương mại có thể được áp dụng song song với một chế tài khác đối với cùng một vi phạm, song cũng có thể chỉ được phép lựa chọn giữa hai chế độ trách nhiệm. * Về mối quan hệ giữa chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng và các loại chế tài khác. Theo Luật thương mại Việt Nam thì nếu không có thỏa thuận trước, trong thời gian áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, Khoản 1, Điều 225 Luật thương mại quy định: “bên có quyền lợi bị vi phạm không được áp dụng các chế tài phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại hoặc hủy hợp đồng.” Theo tinh thần của luật này thì vi phạm đó đã được áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng thì các bên không thể viện một lý do nào khác để tiếp tục bắt bên kia phải bồi thường thiệt hại hay nộp phạt cho chính vi phạm đã được giải quyết xong. Ví dụ như không thể bắt bên bán khi giao hàng kém phẩm chất phải nộp phạt 5% trị giá lô hàng đó, ngoài ra phải tiến hành sửa chữa khuyết tật hay thay thế hàng. Còn trong trường hợp bên vi phạm không thực hiện chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng trong thời hạn ấn định, Khoản 2, Điều 225 của Luật thương mại Việt Nam quy định tiếp: “bên có quyền lợi bị vi phạm được áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.” Điều này có nghĩa là chỉ khi bên kia tuyên bố hoặc thông báo rằng anh ta sẽ không thực hiện yêu cầu mà bên bị vi phạm đề xuất, bên bị vi phạm mới được đem các hình thức trách nhiệm khác ra áp dụng. Quy định này trong Luật thương mại Việt Nam có phần cứng nhắc so với Công ước Viên 1980 vì Công ước cho phép bên bị vi phạm hợp đồng vẫn được quyền đòi bồi thường thiệt hại trong khi áp dụng chế tài buộc thực hiện nghĩa vụ. Luật thương mại Việt Nam cũng không quy định các bên có thể áp dụng chế tài phạt và bồi thường thiệt hại cho những vi phạm tiếp theo sau khi đã áp dụng chế tài thực buộc thực hiện đúng hợp đồng. * Về quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm hợp đồng và chế tài đòi bồi thường thiệt hại Điều 234, Luật thương mại Việt Nam quy định: “Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận khác thì bên có quyền lợi bị vi phạm được lựa chọn một trong hai chế tài là phạt vi phạm hoặc buộc bồi thường thiệt hại đối với cùng một vi phạm.” Như vậy, Luật thương mại Việt Nam theo quan điểm rằng hai chế tài bồi thường thiệt hại và phạt vi phạm về bản chất có nhiều điểm tương đồng: phạt vi phạm được coi là bồi thường thiệt hại ước tính, còn bồi thường thiệt hại phải dựa trên thiệt hại thực tế của bên vi phạm. Do đó, nếu đã đòi tiền phạt (bồi thường thiệt hại ước tính) thì không được đòi bồi thường thiệt hại thực tế nữa. Ví dụ như hợp đồng quy định “nếu người bán không giao hàng thì phải nộp phạt 7% trị giá lô hàng” nhưng việc người bán không giao hàng trên thực tế đã làm cho người mua thiệt hại vượt quá mức phạt quy ước trên thì người có quyền lựa chọn áp dụng chế tài đòi bồi thường thiệt hại. Luật thương mại Việt Nam chỉ cho phép áp dụng cả hai chế tài trên nếu trong hợp đồng các bên có thỏa thuận với nhau: “người bán phải nộp phạt 7% trị giá lô hàng nếu không giao hàng, ngoài ra còn phải bồi thường thiệt hại cho người mua”. Trong khi đó, luật một số nước cũng như Công ước Viên lại thừa nhận các biện pháp bảo hộ pháp lý mà cả hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng và mọi trường hợp vi phạm hợp đồng gây thiệt hại cho bên kia thì bên bị vi phạm có quyền sử dụng chế tài bồi thường thiệt hại dù hợp đồng có quy định hay không. Ví dụ như hợp đồng chỉ ghi “phạt 5% nếu chậm giao hàng 10 ngày” thì người mua không chỉ được đòi tiền phạt khi người bán chậm giao hàng mà còn được đòi bồi thường thiệt hại. * Đối với chế tài hủy hợp đồng thì bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền áp dụng các hình thức trách nhiệm khác để bảo vệ quyền lợi của mình (Điều 237, Luật thương mại). Tóm lại, mặc dù được vận dụng trong những tình huống vi phạm khác nhau, các hình thức trách nhiệm lại có quan hệ mật thiết bổ sung cho nhau, thậm chí không tách rời nhau. Cái khó là phải biết kết hợp các chế tài này để giải quyết vấn đề khi có vi phạm hợp đồng một cách hợp lý nhất nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của bên bị vi phạm. III. CÁC TRƯỜNG HỢP MIỄN TRÁCH DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRONG HOẠT ĐỘNG MUA BÁN HÀNG HÓA CỦA THỤ TRÁI. Trong quá trình thực hiện hợp đồng mua bán, nếu một bên vi phạm hợp đồng tức là thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ đã được quy định giữa hai bên trong hợp đồng thì phải chịu trách nhiệm trước bên kia. Tùy mức độ vi phạm mà các chế tài trong Mục II có thể được áp dụng. Tuy nhiên, bên vi phạm hợp đồng có thể được miễn trách nhiệm trước bên kia nếu họ chứng minh được vi phạm đó thuộc căn cứ miễn trách (căn cứ miễn trách đó do hợp đồng hay luật liên quan có quy định mà khi gặp phải dẫn tới vi phạm thì không phải chịu trách nhiệm). Theo quy định của Luật thương mại Việt Nam năm 1997 thì có hai trường hợp miễn trách. 1. Miễn trách khi gặp các trường hợp đã được thỏa thuận trong hợp đồng. Theo đó, “các bên được miễn trách nhiệm về việc không thực hiện một phần hay toàn bộ nghĩa vụ hợp đồng nếu trong hợp đồng có thỏa thuận về các trường hợp miễn trách nhiệm đó.” (Điều 77, Khoản 1, Luật thương mại) Quy định này có nghĩa là nếu việc vi phạm hợp đồng của một bên rơi vào các trường hợp miễn trách quy định trong hợp đồng thì bên đó được miễn trách nhiệm. 2. Miễn trách khi gặp bất khả kháng. “Các bên được miễn trách nhiệm về việc không thực hiện một phần hay toàn bộ nghĩa vụ hợp đồng nếu việc không thực hiện này do trường hợp bất khả kháng gây ra.” (Điều 77, Khoản2, Luật thương mại). Theo Công ước quốc tế và luật của các nước về hợp đồng mua bán hàng hóa thì sau khi ký hợp đồng, nếu một bên không thực hiện một phần hay toàn bộ hợp đồng vì gặp bất khả kháng thì không chịu trách nhiệm trước bên kia, tức là được miễn trách. Trường hợp bất khả kháng là căn cứ miễn trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng thường được quy định phổ biến trong các hợp đồng mua bán, đặc biệt là hợp đồng mua bán với các thương nhân nước ngoài. Tuy vậy, không có định nghĩa thống nhất về bất khả kháng và cũng không có luật hay bất kỳ tài liệu nào liệt kê hết các trường hợp, các sự kiện được công nhận là bất khả kháng. Tuy nhiên, để xác định một sự kiện nào là bất khả kháng, người ta cũng đưa ra một số tiêu chuẩn nhất định. Theo Luật dân sự Việt Nam, bất khả kháng là hiện tượng khách quan mà các bên không dự kiến hoặc khắc phục được. Còn theo Điều 77, Khoản 2 của Luật thương mại Việt Nam thì quy định: “Trường hợp bất khả kháng là trường hợp xảy ra sau khi ký kết hợp đồng, do những sự kiện có tính chất bất thường xảy ra mà các bên không thể lường trước được và không thể khắc phục được.” Từ quy định trên, ta có thể thấy bất khả kháng phải là một hiện tượng khách quan “do những sự kiện có tính chất bất thường xảy ra” mà “các bên không thể lường trước được”, tức là ngoài ý chí, dự đoán của các bên đương sự. Yếu tố lý trí của bất kỳ bên đương sự nào cũng không có ý nghĩa gì đối với hiện tượng khách quan. Còn thời điểm mà các bên không lường trước được là vào lúc ký hợp đồng. Điều này có nghĩa là vào lúc ký hợp đồng, các bên không dự kiến, không lường trước được hiện tượng khách quan sẽ xảy ra dù đã áp dụng mọi biện pháp và trình độ khoa học kỹ thuật sẵn có, nhưng sau khi ký hợp đồng, hiện tượng khách quan mới phát sinh. Như vậy, để đáp ứng được điều kiện “không thể lường trước” thì hiện tượng khách quan phải xảy ra sau khi ký hợp đồng. Điều này có nghĩa là một sự kiện bất thường khách quan xảy ra trước khi ký hợp đồng thì không được coi là bất khả kháng đối với bên vi phạm hợp đồng để được miễn trách nhiệm. Đặc biệt, để một sự kiện bất thường được coi là bất khả kháng thì đó phải là sự kiện “không thể khắc phục được”. Điều kiện này được giải thích là khi hiện tượng khách quan phát sinh, bên đương sự đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng hiện có để khắc phục hiện tượng này và hậu quả của nó nhưng vẫn không tài nào khắc phục được, và vì hậu quả không thể khắc phục được đó mà bên đương sự không thực hiện hoặc thực hiện không đúng hợp đồng tức là vi phạm hợp đồng. Chẳng hạn, bão lụt bất ngờ xảy ra sau khi ký hợp đồng bán gạo dẫn đến mất mùa, do đó người bán không có đủ gạo để giao theo hợp đồng. Nếu hiện tượng khách quan xảy ra mà bên gặp phải có thể khắc phục được hậu quả của nó, nhưng không khắc phục, cứ để hiện tượng đó xảy ra và do đó vi phạm hợp đồng thì hiện tượng này không được coi là bất khả kháng, bên vi phạm phải chịu trách nhiệm trước bên bị vi phạm. Ví dụ, sau khi ký hợp đồng bán lạc, bão kéo theo mưa lớn làm cho nước tràn vào kho chứa lạc, lạc bị ẩm nhưng người bán lại không chịu phơi sấy nên lạc bị mốc không giao được cho người mua. Trong trường hợp này, bão kéo theo mưa lớn đối với người bán không được coi là bất khả kháng để miễn trách. Để được miễn trách nhiệm, Luật thương mại Việt Nam quy định bên vi phạm phải có “trách nhiệm chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm.” (Khoản 3, Điều 77). Cụ thể hơn, Điều 78 Luật thương mại bên vi phạm phải thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa vụ sau: Ø Bên không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hợp đồng phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia về trường hợp được miễn trách nhiệm và những hậu quả có thể có; khi trường hợp miễn trách nhiệm chấm dứt, phải thông báo ngay bằng văn bản cho bên kia biết; nếu không thông báo hoặc thông báo không kịp thời cho bên kia thì phải bồi thường thiệt hại nếu có. Ø Các trường hợp bất khả kháng phải được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xác nhận. Quy định này được hiểu là khi gặp bất khả kháng, bên vi phạm hợp đồng phải gửi ngay thông báo bằng văn bản để phía bên kia được biết. Đây là quy định mà luật pháp các nước đều áp dụng. Tuy nhiên, hậu quả của việc không thông báo hay thông báo chậm về bất khả kháng theo luật pháp các nước lại có sự khác biệt. Các nước tư bản chủ nghĩa thì cho rằng: khi gặp bất khả kháng mà không thông báo hoặc thông báo chậm thì có nghĩa là không có bất khả kháng, do đó sau này không được vận dụng bất khả kháng làm căn cứ miễn trách nhiệm vì đã vi phạm nghĩa vụ thông báo, tức là không được miễn trách nhiệm. Còn theo luật của các nước XHCN như quy định trên của Luật thương mại Việt Nam, khi gặp bất khả kháng mà không thông báo hoặc thông báo chậm thì sau này vẫn được vận dụng bất khả kháng làm căn cứ miễn trách nhiệm, nhưng phải bồi thường thiệt hại phát sinh do việc không thông báo hay thông báo chậm gây ra. Rõ ràng là cách quy định này hợp lý hơn vì nó phù hợp với nguyên tắc vi phạm nghĩa vụ nào thì chịu trách nhiệm về việc vi phạm đó. Người vi phạm nghĩa vụ hợp đồng (không giao hàng hoặc giao hàng chậm...) do gặp bất khả kháng thì được miễn trách nhiệm, còn vi phạm nghĩa vụ thông báo về bất khả kháng thì phải chịu trách nhiệm bồi thường các thiệt hại do việc vi phạm này gây ra. Hơn nữa, nếu chỉ do sơ suất không thông báo hoặc thông báo chậm về bất khả kháng mà phải nộp phạt hoặc bồi thường thiệt hại do việc vi phạm hợp đồng thì trách nhiệm này quá nặng so với vi phạm nghĩa vụ thông báo. Còn thiệt hại do việc vi phạm nghĩa vụ thông báo về bất khả kháng gây ra là những chi phí phải chi cho việc xác minh về bất khả kháng. Ví dụ, do không thông báo về bất khả kháng, sau đó mới trình bày là đã gặp bất khả kháng để được miễn trách nhiệm nhưng bên bị vi phạm khô

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTìm hiểu về chế độ trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hoá theo luật thương mại Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan