MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỶ GIÁ
VÀ THỊ TRƯỜNG TỶ GIÁ 2
1. Tỷ giá hối đoái 2
2. Thị trường hối đoái 6
3. Vàng, bạc, đá quý 8
CHƯƠNG II: DIỄN BIẾN TỶ GIÁ 9
I. DỊCH CHUYỂN TỶ GIÁ MỘT SỐ NGUYÊN NHÂN GIẢI THÍCH 9
1. Chênh lệch tỷ giá có kỳ hạn và kỳ vọng mong đợi sự thay đổi tỷ giá 10
2. Bệnh lan truyền của việc phá giá các nước đang phát triển đều có những mặt hàng xuất khẩu nằm trong danh mục hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam nên mức độ cạnh tranh rất cao. 11
3. Điều chỉnh tỷ giá và khuyến khích xuất khẩu 11
4. Tiếp cận của fisher về tỷ giá và lãi suất quốc tế 12
5. Sự dịch chuyển tỷ giá có tính chu kỳ ? 13
6. Tác động của sự dịch chuyển tỷ giá 13
II. BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ TRONG THỜI GIAN QUA 13
III. LỰA CHỌN CƠ CHẾ TỶ GIÁ PHÙ HỢP 17
1. Xác định cung cầu trên thị trường ngoại hối 18
2. Kết hợp chính sách quản lý ngoại hối với chính sách lãi suất 18
3. Cơ chế điều chỉnh lãi suất từ từ dần tiến tới một sự cân bằng hợp lý. 19
4. Điều chỉnh tỷ giá theo mức độ và cơ chếcung ứng tiền. 19
CHƯƠNG III: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TRONG VIỆC ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ 20
I. MỘT SỐ BIỆN PHÁP TRONG ĐỔI MỚI CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
CỦA NHNN. 20
II. KIẾN NGHỊ 21
KẾT LUẬN 22
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1962 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu về công cụ tỷ giá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ả cả, thời hạn và giao vốn.
Thị trường hối đoái hiểu theo nghĩa rộng là thị trường có tính chất quốc tế, hoạt động không có giờ giấc nhất định, liên tục suốt 24/24 giờ trong ngày trên phạm vi toàn cầu, xuất phát từ châu á sang châu âu, đóng cửa ở châu mỹ cũng đồng thời là mởi cửa ở châu á. Với phạm vi toàn cầu và thời gian hoạt động như vậy, thị trường hối đoái là nơi phản ánh kịp thời mọi diễn biến của tỷ giá, của lãi suất các loại tiền tệ trên thế giới.
Trong phạm vi một quốc gia, thị trường hối đoái được xem như một dạng thị trường liên ngân hàng. Nó là nơi giao dịch mua, bán, chuyển đổi các ngoại tệ được chấp nhận ra nội tệ, hoặc giữa các loại ngoại tệ dựoc hoán đổi cho nhau trên cơ sở các điều kiện được xác định (tức là giá cả và giao vốn).
Dù là thị trường hối đoái quốc tế hay thị trường hối đoái quốc gia, những thành viên tham ra trực tiếp hay gián tiểptên thị trường đều là ngân hàng trung ương, Ngân hàng thương mại và người môi giới. Tuỳ theo luật định của mỗi nước, cơ cấu tổ chức và người tham gia vào thị trường hối đoái được qui định cụ thể.
Ví dụ, ở cộng hoà Pháp các thành viên tham gia vào thị trường hối đoái bao gồm ngân hàng trung ương Pháp, các ngân hàng thương mại tương đối lớn(khoảng 30 ngân hàng) và các nhà môi giới. Họ đều lànhững thành viên tham gia trực tiếp vào kinh doanh hối đoái trên thị trường. Còn ở Vương quốc Anh, trên thị trường hối đoái người giao dịch trực tiếp mua, bán, trao đổi, vay mượn đồng bảng Anh(GBP) với các ngoại tệ khác chỉ là người môi giới hoặc công ty kinh doanh lớn(không phải nghề ngân hàng), còn các ngân hàng thương mại và ngân hàng trung ương tham gia gián tiếp, họ muốn trao đổi, mua, bán, ngoại tệ thì phải thông qua người môi giới.
Tuy nhiên dù tham gia trực tiếp haygián tiếp, chức năng cúa các ngân hàng thương mại ở đây vẫn là kinh doanh cho bản thân và cho khách hàng của họ. Ngân hàng trung ương tham gia trên thị trường hối đoái một mặt nhằm phục vụ khách hàng của mình(chủ yếu là các cơ quan hành chính nhà nước và các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế), mặt khác nhằm phục vụ quỹ bình ổn hối đoái, theo dõi tỷ giá và trong trường hợp cần thiết sẽ can thiệp để hạn chế những biến động tỷ giá có thể xảy ra giữ ngoại tệ với nội tệ. Những người môi giới tham gia vào thị trường hối đoái thực hiện thuần tuý một chức năng kinh doanh phục vụ khách hàng khi có yêu cầu.
Những người tham gia giao dịh trên thị trường hối đoái có thể thực hiện mua, bán, vay mượn lẫn nhau thông qua các ký hiệu giao dịch đã qui ước, hoặc có thể thông qua hình thức liên lạc viễn thông để thực hiện giao dịch. Song dù ở hình thức nào thì các giao dịch đều thực hiện theo nguyên tắc trao đổi tài sản Có trên tài sản được nghi bằng hai bằng hai đồng tiền giao dịch.
Sở dĩ chính phủ các nước phải quản lý và điều tiết vĩ mô thị trường hối đoái, vì thông qua thị trường hối đoái quan hệ cung cầu về ngoại tệ, “giá cả” của giao dịch tức là tỷ giá hối đoái, lãi suất của các ngoại tệ theo quan hệ cung - cầu và các yếu tố của thị trường được thể hiện và xác định, trên cơ sở đó Chính phủ Ngân hàng Trung ương thực hiện việc điều tiết thị trường hối đoái bằng cách mua, bán ngoại tệ từ qỹu bình ổn hối đoái để tác động lên tỷ giá, nhằm mục đích đạt được một tỷ giá phù hợp ôứi nhu cầu phát triển của nền kinh tế quốc dân.
3. Vàng, bạc, đá quý
Một nhân tố không thể không đề cập đến trong hoạt động kinh doanh của thị trường hối đoái và trong thị trường quản lý ngoại hối đó là lĩnh vực vàng, bạc, đá quý.
Thời kỳ đầu của chủ nghĩa tư bản (thế kỷ XVII - XVIII) vang, bạc, đá quý nói chung được coi như là biểu tượng của sự giàu có của một quốc gia. Vàng được coi là mọi của cải của xã hội, là phương tiện thanh toán, trao đổi, dự trữ quốc tế duy nhất ở thời kỳ này. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế - xã hội, các quan hệ kinh tế cũng như sự hiện đại hoá mọi lĩnh vực từ sản xuất, kinh doanh đến dịch vụ, đầu tư…đã tạo ra những công ụ trong thanh toán, trao đổi và dự trữ quốc tế rất đa dạng, khiến cho vàng không còn chiếm vị trí độc tôn như trước.
Cho đến giai đoạn hiện nay ngươì ta hoàn toàn không dùng vàng để thanh toán trong thương mại quốc tế, tuy vậy, vàng vẫn chiếm một vị trí xứng đáng trong kho dự trữ của mỗi quốc gia, và được sử dụng như một chiếc “phao cứu hộ” đắc lực cho việc cân bằng Cán cân thanh toán quốc tế. Đồng thời, sự can thiệp của vàng vào thị trường sẽ tác động tích cực lên TGHĐ trong trường hợp cần thiết. Chính vì lẽ đó, vấnđề vàng, bạc, đá quý nói chung và vàng nói riêng được các quốc gia hết sức coi trọngvà chú ý, đươc đề cập đến như một đối tưọng trong chính sách quản lý ngoại hối.
Ngày nay vàng là hàng háo phi tài chính duy nhất được mua bán tự do liên tục 24/24 giờ trong ngày trên thế giới. Bởi vậy, thị trường vàng quốc tế và thị trường vàng khu vực luôngluôn tác động vào thị trường vàng của mỗi quốc gia. Biến động trong quan hệ cung - cầu vàng trên thị trường gây ra giá vàng lên, xuống sẽ tác động vào giá trị tiền tệ, lam TGHĐ biến động. Ngược lại, khi tỷ giá biến động ở một chừng mực nhất định sẽ tác động lên giá vàng.
Như vậy nếu chính phủ thực hiện đượcviệc quản lý, điều tiết và khống chế thị trường vàng trong nước, thì trong một mức độ nhất định có thể tác động tích cực ổn định được tỷ giá theo mong muốn. Điều đó khẳng định thị trường vàng có tầm quan trọng, và việc quản lý vàng, bạc, đá quý là không thể thiếu được trong chính sách quản lý ngoại hối của mỗi quốc gia.
chương II
DIễn BIếN Tỷ GIá
I. Dịch chuyển tỷ giá một số nguyên nhân giải thích
Thực tế tốc độ tăng tỷ giá VND/USD trong năm 2000 đến thời điểm hiện nay cũng không lớn hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng trong năm 1999. Nhưng sự dịch chuyển tỷ giá trong 2 thời kỳ này được đánh giá bởi một số nhân tố cơ bản khác nhau. điều chỉnh tỷ giá VND/USD trong năm nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu VN;giảm bớt sự mất cân bằng của đồng việt nam so cới USD, dịch chuyển tỷ giá dần tới trạng thái cân bằng của nó. Sự dịch chuyể tỷ giá VND/USD trong năm 2000, ngoài những nhân tố trên, chụi sức ép của nhiều nhân tố khác như mức chênh lệch lớn tỷ giá kỳ hạn và giao ngay, chênh lệch lãi xuất USD trên thị trường tiền tệ quốc tế và trong nước quá cao, thâm hụp gia tăng, lạm phát thấp, …
Diễn biến dịch chuyển tỷ giá VND/USD có thể nhìn tổng thể qua biểu đồ 1.
Nếu trong năm 1999, đồng Việt Nam chỉ giảm giá 1%, thì đến tháng 9/2000, đã giảm 1, 33% so với cuối năm 1999. Tuy nhiên, tốc độ dịch chuyển tỷ giá VND/USD thời gian gần đây tăng cao. Tỷ giá tăng dồn dập đã đặt ra câu hỏi Tại sao chênh lệch tỷ giá NHNN công bố giữa 2 ngày giao dịch có chênh lệch lớn như vậy? Nếu duy trì tỷ giá ổn định, có điều chỉnh tăng dần như thời gian tù tháng 7/2000 trở về trước có hợp lý hay không trong tình hình cung cầu ngoại tệ căng thẳng? Những nhân tố nào có thể giải thích sự dịch chuyển tỷ giá cao hơn mức bình thường trong tháng 9?
1. Chênh lệch tỷ giá có kỳ hạn và kỳ vọng mong đợi sự thay đổi tỷ giá
Trên cơ sở lý thuyết, kỳ vọng mong đợi tỷ giá giao ngay trong tương lai sẽ tương đương với tỷ giá giao dịch có kỳ hạn. nếu trong năm 1999, số lượng giao dịch ngoại tệ có kỳ hạn chỉ là con sô tượng trưng, thì giao dịch này đã bùng nổ trong năm 2000. Sự mở rộg hình thức giao dịch có kỳ hạn chỉ là một phần nào giải thích các ngân hàng và doanh nghiệp sử dụng cong cụ này để tự phòng ngừa rủi ro tỷ giá. ĐIều rõ hơn có thể nhìn thấy là các ngân hàng đã sử dụng công cụ này để mua được ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng hay tăng khả năng đầu cơ. Bởi sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng để mua được ngoại tệ, nên chênh lệch giữa tỷ giá giao ngay và có kỳ hạn tăng cao. Sự chênh lệch thái quá này thể hiện tính bất ổn của ngoại tệ hay quan hệ cung cầu; do đó, kỳ vọng tỷ giáVND/USD có thể tăng lên.
Khoảng cách giữa tỷ giá giao dịch ngay và có kỳ hạn mở rộng ra được bộc nộ thông qua dấu hiệu dư cầu ngoại tệ kéo dài. Nghĩa là, cầu ngoại tệ lớn hơn số lượng cung ngoại tệ sẵn sàng muốn bán trên thị trường ngoại tệ. Sự chênh lẹch lãi xuất của đồng USD giữa thị trường trong nước và thị trường quốc tếcũng tạo cho một số ngân hàng nhanh chóng chớp thời cơ kiếm lợi nhuận ngắn hạnthông qua việc mua ngoại tệ kết hợp với gửi / cho vay trên thị trường quốc tế. Kỳ vọng tỷ giá tăng lên khiến cho họ sẵn sàng cạnh tranh để đầu cơ, trong khi vẫn được hưởng chênh lệch lãi xuất. Hơn nữa, kiểm soát ngoại tệ từ nguồn xuất khẩu dầu thô chặt chẽ mà nhu cầu nhập khẩu xăng dầu, máy móc thiết bị tăng đột biến trong năm 2000, do đó những doanh nghiệp muốn có ngoại tệ nhập khẩu hàng tiêu dùng hoặc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thứ tự ưu tiên mua ngoại tệ Tại ngân hàng thấp phải chấp nhận mua kỳ hạn. Vậy là, để có nguồn ngoại tệ các ngân hàng phải cạnh tranh thông qua hình thức giao dịch có kỳ hạn. Cạnh tranh qua công cụ tỷ giá giao ngay theo quy định của NHNN sẽ không hấp dẫn bởi người bán muốn bán với giá cao hơn theo tín hiệu cung cầu. giả sử tỷ giá giao ngay vào ngày 31/5/2000 là 14071 VND/USD, các ngân hàng mua kỳ hạn một tháng với tỷ giá 1410 - 14120 VND/USD
- Như vậy chênh lệch tỷ giá giữa 2 kỳ hạn trên khoảng 20 – 30 đồng/USD. Nếu thị trường ngoại tệ hoạt động hoàn hảo, kiểm soát ngoạitệ không có thì tỷ giá giao ngay đến 30/6/2000 có thể lên tới 14120 VND/USD. Tuy nhiên, tỷ gía giao ngay thực tế ngày 30/6/2000 chỉ là 14087 VND/USD, thấp hơn tỷ giá mong đợi 45 đồng/USD. Nhưng trong tháng 9/200, tỷ giá tăng nhanh hơn đã phần nào lý giả được sứcép của tỷ giá giao dịch có kỳ hạn lên tỷ giá giao dịch ngay theo quy định của NHNN. Việc điều chỉnh tỷ giá với tần suất nhỏ trong tình trạng cung cầu ngoại tệ căng thẳng càng làm cho chênh lệch tỷ giá giao ngay và có kỳ hạn khó thu hẹp. Chính vì vậy, giảm giá đồng việt nam nhanh hơn trong thời gian gần đây cóthể được giả thích trên cơ sở quan hệ giữa kỳ vọng tỷ giá mong đợi với tỷ giá giao dịch có kỳ hạn.
Tuy nhiên để ngăn chặn các NHTM mở rộng khoảngcách giữa tỷ giá giao ngay và có kỳ hạn và có lợi dụng nó là công cụ cạnh tranh đắc lực trong kinh doanh ngoai tệ, NHNN đã điều chỉnh giảm mức tăng tỷ giá kỳ hạn so với giao ngay. Chẳng hạn theo quyết định số 65/1999/QĐ_ NHNN7, NHTM được phép tăng tối đa 0, 58%của tỷ giá giao ngay kịch trần để xác định tỷ giá kỳ hạn 1 tháng, nhưng nay theo quyết định 289/2000/QĐ _ NHNN7, ngày 30/8/2000, các ngân hàng chỉ được phép tăngtối đa 0, 2%. Như vậy, các ngân hàng không lợi dụng được chênh lệch lớn giữa tỷ giá giao ngay và có kỳ hạn cho cuộc cạnh tranh mua bán ngoại tệ. Nhưng nếu chỉ thực hiện giải pháp này đơn lẻ thì sẽ không hữu hiệu bởi tình trạng căng thẳng cung - cầu ngoại tệ. Giải pháp đi kèm theo quyết định này là NHNN điều chỉnh tỷ giá giao ngay tăng nhanh cao hơn từ đầu tháng 9/2000 so với các tháng trước. Như vậy, đây có phải là ngụ ý giải thích sự điều chỉnh mạnh của tỷ giá VND/USD trong thời gian gần đây?
2. Bệnh lan truyền của việc phá giá các nước đang phát triển đều có những mặt hàng xuất khẩu nằm trong danh mục hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam nên mức độ cạnh tranh rất cao.
Theo quy luật sức mua ngang giá, đồng tiền của quốc gia nào tương đối rẻ sẽ có lợi thế cạnh tranh cao hơn. Chẳng hạn, Việt Nam và Thái Lan cùng xuất khẩu gạo 25% tấn thì lợi thế cạnh tranh nghiêng về Thái Lan. Bởi vì, đông Baht của thái lan giảm giá 12, 7% trong 9 tháng năm 2000 hay đồng Rupi của Pakistan cũng giảm 8, 4% …. Trong khi đó, đồng việt nam chỉ giảm 1, 33% Như vậy, nới lỏng giá trị đồng việt nam là điều kiện cần để tăng cường khả năng cạnh tranh.
3. Điều chỉnh tỷ giá và khuyến khích xuất khẩu
Mặc dù kim ngạch xuất khẩu dầu thô tăng coa nhưng thâm hụt thương mại trong 9 tháng qua mở rộng so với năm1999. Thâm hụt thương mại nới rộng có thể nhìn thấy rõ qua kim ngạch nhập khẩu của một số mặt hàng tăng cao so với năm 1999, trong khi đó, kim ngạch xuất khẩucủa một số mặt hàng chủ lực lại tăng chậm, thậm chí có giảm so với năm 1999. Tính đến hết tháng 9/2000 kim nghạch xuấtkhẩu ước đạt 10. 489 triệu USD tăng 28% so cùng kỳ năm trước; kim ngạch nhập khẩu đạt khoảng 11. 310 triệu USD, tăng 33, 3%. Như vậy 9 tháng nhập siêu 513 triệu USD, trong khi đó, 9tháng năm 1999 nhập siêu là 74 triệu. Nhập siêu tăng cao bởi cả hai; xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực như gạo, cà phê giảm so với năm trước và nhập khẩu một số mặt hàng tăng cao. Do đó, nguồn ngoại tệ cho nhu cầu nhập khẩu tăng cao hơn so với nguồn ngoại tệ thu được từ xuất khẩu, kếtquả thị trường ngoại tệ bị tác động mạnh. Thêm vào đó, Nhà nước đã có văn bản triển khai hạn chế nhập khẩu tiêu dùng. Mục đchs nhằm khuyến khích tiêu dùng hàng hoá sản xuất trong nước và tăng nguồn ngoại tệ cho nhâpj khẩu công nghệ, kỹ thuật chuyên gai tư vấn …. Như vậy, có nhiều ý kiến cho rằng giảm giá đồng nội tệ sẽ có tác dụng “kép” một mặt tăngcường hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới, mặt khác giảm bớt tâm lý của dân cư thích sử dụng hàng ngoại.
4. Tiếp cận của fisher về tỷ giá và lãi suất quốc tế
Phương trình fisher quốc cho rằng, khi không có sự kiểm soát luồng vốn hoặc tài khoản vốn thì kỳ vọng mong đợi tỷ giá thay đổi có mối quan hệ chặt chẽ với sự khácbiệt lãi suất giữa hai quốc gia. Như vậy, các nhà đầu tư sẽ dịch chuyển vốn tới nơi có mức lãi suất hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, dưới sự kiểm soát tài khoản vốn chặt chẽ, giá trị đồng Việt Nam có tính chuyển đổi thấp, các nhà đầu tư lại lệch về khoản kiếm lợi nhuận ác – bít từ sự chênh lệch lãi suất đồng USD trong nước và quôc tế. Trog khi quý 11/2000 lãi suất
Libor USD trênthị trường quốctế mà các ngân hàng có thểkiếm được khoảng 7 -7, 1% / năm, chênh lệch với lãi suất trong nước khoảng 1, 5 - 1, 6%/năm. Hơn nữa, lãi suất vay VND trên thị trường liên ngân hàng ở mức 0, 5 - o, 555%/tháng. TạI thời điểm 31/5/2000một số ngân hàng sẵn sàng bỏ ra 14110 triệu đồng mua giao ngay 1 triệu USD của doanh nghiệp thông qua các hình thức đã đề cập. Như vậy, ngân hàng sẽ đồng thời gửu cho vay trên thị trường quốc tế thời hạn một tháng, đồng thời bán kỳ hạn 1 thàng cho các doanh nghiệp chấp nhận tỷ giá có kỳ hạn 14125 VND/USD. Qua giao dịch này, ngân hàng có thể kiếm được ít nhất 24 triệu đồng. Tuy nhiên, trong thực tế ngân hàng có thể kiếm được khá hơn. Để kiếm được lợi nhuận từ hành vi trên, ngoài hình thức sử dụng giao dịch ngoại tệ để có nguồn đầu tư trên thị trường quốc tế, các ngân còn huy động USD trên thị trường. Như vậy khoản sinh lời từ hoạt động đầu tư ra thị rường quốc tế sẽ bù đắp khoản lỗ từ hoạt động giao dịch ngoại tệ. Với mức lợi nhuạn hấp dẫn như vậy, để chớp thời cơ lợi nhuận trong ngắn hạn, nên cácngân hàng đã cạnh tranh mạnh hơn nhằm mua được ngoại tệ lớn nhất có thể được. Cuộc chạy đua này đã tạo sức ép lên thị trường ngoại tệ cũng là nhântố tiềm ẩn đẩy kỳ vọng tỷ tăng lên. Tỷ già tăng sẽ giảm bớt được lỗ trong hoạt động giao dịch ngoại tệ, ngân hàng vừa có lợi trong đầu tư quốc tế vừa đầu cơ mong tỷ giá tăng.
5. Sự dịch chuyển tỷ giá có tính chu kỳ ?
Cũng có ý kiến cho rằng, theo tính chất chu kỳ, tỷ giá được điều chỉnh tăng theo thời gian dịch chuyển về cuối nă. Lý do này giải thích cho sự dịch chuyển nhanh của tỷ giá vào cuối quý 11/2000 không có tính thuyết phục cao bnởi sức ép của các nhân tố khác lên sự giao động của tỷ giá lớn hơn nhiều như tình trạng căng thẳng ngoại tệ, kiểm soát nguồn ngoại tệ cho nhập khẩu hàng tiêu dùng chặt chẽ hơn, thâmhụt thương mại ra tăng, kỳ vọng mong đợi tỷ giá tăng…. màđã đề cập ở trê.
6. Tác động của sự dịch chuyển tỷ giá
Tuy nhiên, sự dịch chuyển tỷ giá nhanh hơn trong thời gian gần đây cũng có thể gây sức ép lớn đến thị trường ngoại tệ. Tính nhạy cảm của công chúng đối với sự giao động của tỷ giá rất lớn. đấu hiệu của tỷ giá tăng lên hay sự bất ổn của thị trường ngoại tệ ngầm tăng lên. Chẳng hạn, tính đến 26/9/2000 tỷ giá giao ngay tăngkhoảng 250 - 270 đồng/USD. Như vậy trong khung cảnh dư cầu ngoại tệ, tỷ giá VND/USD tăng nhanh cũng là mộtnhân tố làm cho những người có ngoại tệ muốn bán ghìm lại trong một thơì gian. Chẳng hạn, người bán ra ngoại tệ chậm lại một ngày ghiao dịch sẽ được lợi thêm12 triệu đồng cho số lượng ngoạitệ muốn bán 1triệu USD (chênh lệch tỷ giá giữa 2 ngày giao dịch 26 - 25/9/2000). Thay thế phần vốn đồng việt nam cần dùng với một số lượng vốn tương đương 1triệu USD doanh nghiệp vay các TCTD thìcần phải trả khoảng 2, 8 triệu đồng/ ngày cho khoản vay 14, 3 tỷ đồng. Như vậy, chi phí cơ hội củaviệc bán ngoại tệ so vớivay vốn Việt Nam đồng và giữa USD lại thêm một thời gian là 9, 2 triệu đồng.
II. biến động tỷ giá trong thời gian qua
Kể từ đầu tháng 5/2001 đến 25/6/2001, việc TGHĐ của USD so với VND tăng liên tục trong nhiều tuần trên cả thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và thị trường tự do đã tạo ra những phản ứng rất khác nhau. Có thể nhận thấy tỷ giá USD có những biểu hiện nóng lên “đột ngột “ kể từ cuối năm 2000, nhưng đã phần nào dịu xuống trong 3/2001 khi ảnh hưởng giảm lãi suất của đồng USD (do sự đảo CHIều trong chính sách tiền tệ của FED trước nguy cơ suy thoái của nền kinh tế Mỹ) thực sự tác động đến Việt Nam. Nhưng kể từ đầu 5/2001, tỷ giá tăng liên tục qua từng tuần và nhiều khi qua từng ngày trên cả hai thị trường chính thức và tự do. Trên thị trường liên ngân hàng, tỷ giá tăng khoảng 96 đ/USD trong tháng 5 và kể từ giữa tháng 6 tỷ giá tăng liên tục từ 8 - 14đ/USD mỗi ngày. Tỷ giá USD Tại thị trường tự do cũng có những biến động tương tự nhưng với mức giao động cao hơn và chênh lệch tỷ giá tại hai thị trường có xu hướng dãn rộng. Nếu chỉ xét trong quãng thời gian ngắn xảy ra biến động, không ít ngân hàng, các doanh nghiệp và cả bộ phận dân cư đã phát sinh những tâm lý lo ngại trước những biến động về tỷ giá và được coi là “bất bình thường này “
Diễn biến tỷ giá USD trong năm 2000 và nửa đầu năm 2001.
Trong năm 2000
1/2001
2/2001
3/2001
4/2001
5/2001
6/2001
Tỷ giá liên ngân hàng (VND/USD)
14.02214.501
14.534
14.558
14.573
14.595
14.696
14.865
Tăng so với tháng trước (%)
33
24
15
22
101
169
Tỷ giá thị trường tự do (VND/!USD)
14.16014.540
14.630
14.680
14.730
14.790
14.910
15.050
Tăng so với tháng trước (VND/!USD)
90
50
50
60
120
140
Để có một cái nhìn xuyên suốt về nguyên nhân của những biến động trên chúng ta hãy xem lại những nhân tố chủ chốt quyết định TGHD của VND so với USD trong quãng thời gian đủ dài để có một bức tranh toàn cảnh về ảnh hưởng của những nhân tố này.
Có bốn nhân tố căn bản quyết định tỷ giá giữa hai đồng tiền là : Tương quan về tiềm năng tăng trưởng kinh tế; diễn biến về lạm phát; tình hình cán cân thanh toán và tương quan lãi suất. Trên lý thuyết thì tương quan về tiềm năng tăng trưởng và lạm phát là hai nhân tố quyết định tỷ giá trong dài hạn còn hai nhân tố cán cân thanh toán và lãi suất lại có ảnh hưởng rõ rệt trong ngắn hạn và trung hạn.
Có thể tóm tắt ảnh hưởng của các yếu tố trên lên tỷ giá như sau:
Trong đó:
- e : Tỷ giá của USD so với VND(eVND/USD, e tăng tương đương USD tăng).
- BP: Thặng dư (thâm hụt)cán cân thanh toán của việt Nam
- gm, gv: Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế lần lượt của Mỹ và Việt Nam
- ifm, ifv: Mức lạm phát tại Mỹ và Việt Nam
- irm, irv: Lãi suất của USD và VND
+: Tác động thuận chiều với e, -: tácđộng ngược chiều với e, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi.
Khi xem xét biến động của tỷ giá USD Tại vệt nam trong gần hai năm qua, chúng ta không thể giải thích được nếu dựa vào phân tích tương quan về tăng trưởng và lạm phát Tại hai nền kinh tế Mỹ và Việt Nam. Nếu xét về tương quan tăng trưởng, cản trở chính là sự chênh lệch quá lớn về qui mô và trình độ giữa hai nền kinh tế. Đơn cử, GDP của Mỹ gấp hơn 100 lần GDP của Việt Nam và trình độ phát triển và ứng dụng công nghệ trong sản xuất, kinh doanh Tại Mỹ luôn được xem là đứng đầu thế giới. Nhân tố lạm phát cũng không giải thích được USD vẫn tăng giá so với VND nhẹ qua từng năm trong ngay cả giai đoạn dài hơn từ n1998-2000: Năm 1998, USD tăng 5, 1%; năm 1999 tăng 1, 1%; năm 2000 tăng 2, 3%. Nếu áp dụng lý thuyết một cách máy móc thì đây có thể coi là “nghịch lý “ vì lạm phát Tại Mỹ luôn cao do kinh tế tăng quá nóng trong khi kinh tế Việt Nam lại trảI qua giai đoạ được xem là thiểu phát trầm trọng “trong năm 99và 00 lạm phát Tại Mỹ duy trì ở mức 3, 5%, khá cao so với mức của nền kinh tế phát triển, còn Tại Việt Nam chỉ số giá tiêu dùng tăng 0, 1% năm 1999 và giảm 0, 6% năm 2000”. Hơn nữa, ngay cả khi kinh tế Mỹ bộc lộ nguy cơ suy thoái kể từ cuối năm 2000, trong khi tăng trưởng GDP của Việt Nam vẫn được phục hồi và duy trì “năm 2000 đạt 6, 75 %và nửa đầu năm 2001 ước đạt 7, 1%” thì đồng USD lại tăng giá mạnh hơn (chỉ trong nửa đầu năm2001, USD tăng 3, 7%).
Vì vậy, chỉ có thể phân tích biến động tỷ giá USD Tại Việt Nam trong thời gian qua thông qua hai nhân tố còn lại là cán cân thanh toán và lãi suất.
Trong hai nhân tố này thì tình hình cán cân thanh toán có ảnh hưởng trực tiếp và thường xuyên hơn đối với TGHĐ của USD Tại Việt Nam. ĐIều này có thể xem là dễ hiểu vì sự hội nhập còn hạn chế vệ hoạt động của thị trường tiền tệ của Việt Nam với quốc tế. Tuy vậy, trong thời gian qua nhân tố tương quan lãi suất đến TGHĐ của USD Tại VIệt Nam lại có những biểu hiện gia tăng rõ rệt về mức độ ảnh hưởng. Từ năm 1999, thực hiện chủ trươngkích cầu khuyến khích đầu tư chúng ta đã liên tục hạ lãi suất VND, trong khi đó lãi suất USD trên thị trương thế giới lại liên tục tăng dẫn đến lãi suất USD trên thị trường Việt Nam buộc phải tăng theo và đã có lúc lãi suất hai đồng tiền VND và USD cân bằng nhau. Hậu quả là đã có sự chuyển dịch từ VND sang USD, thể hiện ở những hiện tượng sau; các doanh nghiệp không muốn vay USD mà chuyển sang vay VND; dân cư và kể cả doang nghiệp không muốn chuyển đổi USD sang VND, ngược lại muốn gửi USD trên tài khoản. Điều đó đã làm cho nhu cầu về USD tăng và cung USD giảm đáng kể. Thêm vào đó, do chênh lệch lãi suất tiền gửu của USD Tại Việt Nam với thị trường quốc tế dãn rộng trong vòng 1 năm kể từ cuối năm 1999, việc các NHTM trong nước tăng lãi suất huy động tiền gửu USD để đẩy mạnh đầu tư tại thị trường tiền tệ quốc tế lại càng làm tăng cầu tiền gửu bằng USD, hạn chế chuyển đổi các nguồn thu vãng lai bằng ngoại tệ ra VND, qua đó có tác động đáng kể làm tăng giá USD. ảnh hưởng này rất đáng kể nếu biết rằng tổng cả hai năm 1999 và 2000 nguồn thu vãng lai, trong đó có kiều hối và thu nhập của lao động xuất khẩu đạt hơn 3 tỷ USD. Phải nói thêm thị Việt Nam (VN) có một đặc điểm mang tính truyền thống là chuộng USD, thể hiện qua tình trạng khá phổ biến là ngoại tệ được thanh toán trong dân cư dưới hình thức tiền mặt, gử vào ngân hàng dưới hình thức tiết kiệm và ít được chuyển đổi ra VND ngay cả khi không có chênh lệch lớn về lãi xuất giữa hai đồng tiền. Thêm vào đó ảnh hưởng tâm lý bám rễ khá lâu này sẽ làm cho những biến động tỷ giá được khuyếch đại lên khi có những xáo trộn khác thường.
Trong nửa đầu năm 2001, tình hình trưởng xuất khẩu cũnh chững lại đặt ra thánh thức lớn cho việc hoàn thành mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu 25% và đạt kim ngạch 16, 7 tỷ USD. Hơn nữa nếu phân tích theo cơ cấu thì phần lớn những lĩnh vực có mức tăng cao lại không nhận cân đối ngoại tệ chính của ngân hàng. Các ngành dùng nhiều ngoại tệ vay của ngân hàng là nông nghiệp, hảI sản, may mặc, giầy da, có mức tăng nhẹ. ĐIều này lại càng làm cho tăng trưởng cung cầu ngoại tệ gia tăng, thể hiện qua những biến động dồn dập kể từ đầu năm 2001. Mặc dù tỷ giá có những biến động vẻ như “bất thường” nhưng NHNN không áp dụng những biện pháp can thiệp thị trường với liều lượng mạnh hoặc sử dụng trở lại những biện pháp hành chính(như tăng tỷ lệ kết hối). ĐIều này lại khẳng định thêm việc quyết tâm theo đuổi chính sách điều hành TGHĐ linh hạot theo cung cầu thi trường của ngân hàng nhà nước. Dao động của tỷ giá USD xét trong trung hạn là hoàn toàn phù hợp với các nhân tố căn bản quyết định tỷ giá hối đoái USD Tại VN. Những thay đổi với biên độ lớn trong nửa đầu 2001 là kết quả hợp lý của sự điều chỉnh tỷ giá sang một tỷ giá cân bằng mới. Sự giảm giá của VND voéi mức độ như vâỵ cũng không thể xem là bất thường nếu nhìn ra các nước láng giềng trong khu vực. Trong năm 2000 trong khi VND giảm giá 2, 3% thì đồng tiền các nước trong khu vực Châu á liên tục mất giá mạnh so USD với mức giảm giá ù 8-25%, trong đó đồng Baht Thái Lan, đôla Singapore và rupi ấn Độ mất giá mạnh nhất. Trên thị trường quốc tế từ đầu năm đến nay đồng USD đẫ lên giá chừng 12% so với đông Euro 4, 4% so với đồng Baht trong khi mới chỉ tăng 3, 7% so với VND. Trước những diễn biến liên tucj này nếu không để tỷ ngiá điều chỉnh theo quan hệ cung cầu thị trường một cách phù hợp, sức cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu VN sẽ bị sụt giảm đáng kể. ĐIển hình là các doanh nghiệp ngành dệt may, da giày, mặt hàng xuất khẩu chủ lực của VN đang gặp khó khăn lớn do đồng euro mất giá mạnh. Ngày 1/6 1 euro chỉ còn ăn 0, 84 USD, trong khi đó, nhiều doanh nghiệp ký hợp đồng xuất khẩu thanh toán bằng đồng euro ở thời điểm 1 euro ăn 0, 94 USD. Tỷ giá điều chỉnh như vừa qua sẽ tháo gỡ khó khăn của hoạt động xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của VN sang Châu Âu và Nhật Bản ( hai thị trường hàng đầu của hàng hoá xuất khẩu VN) khi phải cạnh tranh với hàng hoá của các nước châu á. Thông qua đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 72556.doc