Trong khi xu thế FDI vào khu vực nông nghiệp của cả thế giới đang ngày một tăng, thì ở Việt Nam lại đang xảy ra điều ngược lại. Nếu như lượng giải ngân FDI trung bình trong khu vực nông – lâm – ngư nghiệp của Việt Nam trong 20 năm, từ 1988 đến 2007 là khoảng 100 triệu USD/năm, thì con số này giảm xuống còn 62 triệu trong giai đoạn 2002-2004 và chỉ còn 51 triệu trong giai đoạn 2005-2007. Tỷ trọng của FDI trong khu vực nông – lâm – ngư nghiệp cũng giảm một cách tương ứng.
Trong năm 2009, tỷ trọng 0,4% của vốn FDI đăng ký trong lĩnh vực nông – lâm – ngư nghiệp cũng có thể thấy vai trò của FDI trong lĩnh vực nông nghiệp ở Việt Nam đang tiếp tục suy giảm. Lĩnh vực nông lâm nghiệp, thuỷ sản vẫn là lĩnh vực kém hấp dẫn nhất trong thu hút FDI, cả năm 2010 mới cấp mới cho được 11 dự án và 8 lượt dự án tăng vốn, tổng vốn đăng ký cả cấp mới và tăng vốn chỉ được 18,6 triệu USD, chưa chiếm tới 1% tổng vốn đăng ký
Trong khi nông – lâm – ngư nghiệp chiếm tới hơn 50% lực lượng lao động, đóng góp khoảng 20% cho GDP và chiếm khoảng 23% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước thì tỷ trọng đầu tư cho khu vực này lại giảm gần một nửa, từ 13,8% vào năm 2000 xuống chỉ còn 7,1% vào năm 2008, chủ yếu do sự suy giảm của đầu tư nhà nước. Hiện có 45 quốc gia quốc gia đầu tư vào nông nghiệp Việt Nam, dẫn đầu danh sách vấn là các quốc gia đến từ Châu Á như Hàn Quốc, Thái Lan, Nhật Bản. Hầu hết các dự án được đầu tư đều nhỏ lẻ, thiếu chiều sâu và tính bền vững. Việc tiếp cận, thu hút đầu tư đối với các quốc gia có nền nông nghiệp công nghệ cao hầu như là không có.
37 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4673 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu về FDI tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tích cực:
Nguồn vốn này cũng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả các nguồn vốn trong nước. Vốn trong dân được kích thích đưa vào sản xuất, kinh doanh. Các doanh nghiệp Nhà nước phải tăng cường đầu tư và chú ý đến hiệu quả đầu tư trong điều kiện phải cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn FDI. Các doanh nghiệp có vốn FDI tạo ra các liên kết với các công ty trong nước nhận đầu tư thông qua các mối quan hệ cung cấp dịch vụ, nguyên vật liệu, gia công. Qua đó FDI thúc đẩy đầu tư trong nước phát triển, gắn kết các công ty trong nước với thị trường thế giới. Nhờ vậy, các tiềm năng trong nước được khai thác với hiệu quả cao.
§ FDI góp phần giải quyết các vấn đề liên quan tới vốn đầu tư để đảm bảo cho tốc độ tăng trưởng cao và bền vững:
Một là, tỷ lệ huy động vốn trong nước thông qua kênh tiết kiệm và các khoản thu của Nhà nước không đáp ứng đủ nhu cầu vốn đầu tư. Hiện nay, tỷ lệ huy động của Việt Nam khoảng 22% GDP, trong khi đó tỷ lệ vốn đầu tư phải 30-35% GDP. Khoản lệch này nếu không tìm được nguồn vốn nước ngoài thì sẽ tác động tiêu cực đến tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Hai là, tình trạng nhập siêu không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá đất nước đã dẫn đến sự thiếu hụt ngoại tệ trong một thời gian dài. Cả hai vấn đó có thể được giải quyết bằng cách thu hút vốn nước ngoài, trong đó có FDI.§ FDI là một nhân tố tích cực cho công cuộc CNH,HĐH ở nước ta có hiệu quả: đối với một nước có trình độ phát triển chưa cao, thu nhập thấp thì nguồn vốn FDI là vô cùng quan trọng§ FDI góp phần nâng cao năng lực quản lý, tiếp thu công nghệ, trình độ tay nghề cho người lao động, thúc đẩy tính cạnh tranh giữa các doanh nghiệp.tạo thêm nhiều cơ hội việc làm cho người lao động, tăng thu nhập cho người dân, cải thiện và đổi mới các hệ thống giáo dục và đào tạo để nân cao trình độ tay nghề cho người lao động phù hợp với yêu cầu của thời đại mới.§ FDI lại gắn với thương mại, thúc đẩy ngoại thương cũng như quan hệ ngoại giao đối với nhiều nước trên thế giới.. FDI giúp mở cửa thị trường xuất khâu, tạo điều kiện cho các sản phẩm nước ta ngày càng đạt đến chuẩn quốc tế.
ª Trong từng khía cạnh cụ thể
Bổ sung nguồn vốn cho nền kinh tế:
Các số liệu tại Bảng xếp hạng V1000 - TOP 1.000 doanh nghiệp đóng thuế thu nhập lớn nhất Việt Nam năm 2010 - do Công ty Vietnam Report phối hợp với Báo VietNamNet công bố ngày 23/09 tiếp tục cho thấy vai trò ngày càng quan trọng của khối các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Chiếm tới 31,3% tống số doanh nghiệp lọt vào Bảng xếp hạng, khối doanh nghiệp FDI trong V1000 đã đóng góp trên 20.000 tỷ đồng thuế thu nhập, tương đương khoảng 24,38% tổng số thuế thu nhập đóng góp của 1.000 doanh nghiệp đóng thuế lớn nhất Việt Nam trong 3 năm 2007-2009.
Sự có mặt của nguồn vốn này ngoài bổ sung vốn cho nền kinh tế đã góp phần tạo điều kiện cho nguồn vốn Nhà nước tập trung vào các vấn đề kinh tế xã hội ưu tiên (cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi xã hội, ...). Nguồn vốn này cũng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả các nguồn vốn trong nước. Vốn trong dân được kích thích đưa vào sản xuất, kinh doanh. Các doanh nghiệp Nhà nước phải tăng cường đầu tư và chú ý đến hiệu quả đầu tư trong điều kiện phải cạnh tranh với các doanh nghiệp có vốn FDI. Các doanh nghiệp có vốn FDI tạo ra các liên kết với các công ty trong nước nhận đầu tư thông qua các mối quan hệ cung cấp dịch vụ, nguyên vật liệu, gia công. Qua đó FDI thúc đẩy đầu tư trong nước phát triển, gắn kết các công ty trong nước với thị trường thế giới. Nhờ vậy, các tiềm năng trong nước được khai thác với hiệu quả cao.
Chuyển giao công nghệ
Nước ta đang rất cần vốn cũng như công nghệ để phát triển kinh tế. Họ có thể có được công nghệ tiên tiến hiện đại thông qua hoạt động ngoại thương, cấp giấy phép sử dụng công nghệ hoặc đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong đó công nghệ có được thông qua FDI có thể nói là có nhiều ưu điểm hơn cả. Thứ nhất, doanh nghiệp có thể có được “Công nghệ trọn gói”, thứ hai, nó giúp Phá vỡ sự cân bằng hiện thời của thị trường và buộc các hãng nội địa đổi mới, thứ ba, Công nghệ mới và hiện đại thường chỉ có được thông qua quan hệ nội bộ công ty, thứ tư, Lợi thế của một công ty đa quốc gia giúp cho khai thác tiềm lực công nghệ hiệu quả.
Tác động tràn liên quan đến phổ biến và chuyển giao công nghệ thông qua FDI thường được coi là một mục tiêu quan trọng của các nước nghèo. Thông qua FDI, các công ty nước ngoài sẽ đem công nghệ tiên tiến hơn từ công ty mẹ vào sản xuất ở nước sở tại thông qua thành lập các công ty con hay chi nhánh. Sự xuất hiện của các công ty nước ngoài tuy nhiên xuất phát từ mục tiêu lợi nhuận trên cơ sở tận dụng những lợi thế có được từ công ty mẹ để sẵn sàng cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong nước. Vì vậy, hoạt động của các doanh nghiệp FDI sẽ khuyến khích nhưng cũng gây áp lực về đổi mới công nghệ nhằm tăng năng lực cạnh tranh đối với các doanh nghiệp trong nước.
Các công nghệ mà các chủ đầu tư nước ngoài chuyển giao cho nước ta thường dưới dạng những tiến bộ công nghệ, sản phẩm công nghệ, công nghệ thiết kế và xây dựng, kỹ thuật kiểm tra chất lượng, công nghệ quản lý, công nghệ marketing. Chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI luôn đi kèm với đào tạo nhân lực vận hành, quản lý và nhờ học qua làm (learning by doing), nhờ đó đã hình thành được đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật có trình độ, tay nghề khá cao. Khảo sát cho thấy, có 44% doanh nghiệp FDI thực hiện đào tạo lại lao động với các mức độ khác nhau (cho khoảng 30% số lao động tuyển dụng). Đối với một số khâu chủ yếu của dây chuyền công nghệ tiên tiến hoặc đặc thù, lao động sau khi tuyển dụng được đưa đi bồi dưỡng ở các doanh nghiệp mẹ ở nước ngoài. Đến nay, hầu hết các công nghệ có trình độ tiên tiến và đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật cao ở Việt Nam được tập trung trong khu vực có vốn FDI.
Về phía các doanh nghiệp trong nước, một mặt do năng lực yếu kém về đổi mới công nghệ, mặt khác công nghệ tiên tiến đều do các công ty quy mô lớn có tiềm năng công nghệ trên thế giới nắm giữ. Để vượt qua các yếu điểm này, các doanh nghiệp trong nước có xu hướng muốn được áp dụng ngay công nghệ tiên tiến hoặc trực tiếp thông qua thành lập các liên doanh với đối tác nước ngoài hoặc gián tiếp thông qua phổ biến và chuyển giao công nghệ từ các doanh nghiệp FDI. Các doanh nghiệp FDI mặc dù không muốn tiết lộ bí quyết công nghệ cho đối thủ trong nước nhưng cũng sẵn sàng bắt tay với đối tác trong nước để thành lập liên doanh, qua đó diễn ra quá trình rò rỉ công nghệ. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là liệu các điều kiện trong nước có đủ để đón nhận phổ biến và chuyển giao công nghệ hay không. Kết quả từ nhiều mô hình lí thuyết cũng rút ra là mức độ phổ biến và chuyển giao công nghệ còn phụ thuộc vào khả năng hấp thụ của doanh nghiệp trong nước, tức là năng lực của doanh nghiệp trong sử dụng một cách hiệu quả tri thức bên ngoài từ các nghiên cứu cơ bản, ứng dụng kỹ thuật tới triển khai dây chuyền sản xuất mới. Lao động gián tiếp có thể gấp đôi.
FDI không chỉ mang lại công nghệ cho các nước thông qua con đường chuyển giao từ nước ngoài vào mà còn bằng cách xây dựng các cơ sở nghiên cứu và phát triển, đào tạo cho đội ngũ lao động ở nước chủ nhà để phục vụ cho các dự án đầu tư. Chi phí cho nghiên cứu và phát triển của các chi nhánh nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí cho nghiên cứu và phát triển ở nhiều nước đang phát triển. Ngoài ra, chuyển giao công nghệ cũng có thế có được thông qua việc di chuyển lao động. Thông qua FDI, kiến thức, kĩ năng quản lí, kĩ năng tay nghề lao động được truyền bá vào nước nhận FDI. Tác động tràn này xuất hiện khi các doanh nghiệp FDI tuyển dụng lao động nước sở tại đảm nhận các vị trí quản lý, các công việc chuyên môn hoặc tham gia nghiên cứu và triển khai. Tổng hợp kết quả các cuộc điều tra gần đây cho thấy các doanh nghiệp FDI tích cực chuyển giao công nghệ cho lao động ở nhà máy và chuyển giao tri thức điều hành, quản lý cho kỹ sư, nhân viên quản lý cỏc cấp người Việt Nam. Khi nguời Việt Nam không hoặc chưa thoả món cỏc điều kiện về chuyên môn, doanh nghiệp nước ngoài mới đưa người ở các nước khác đến. Người nước khác ở đây không nhất thiết là người nước gốc của MNCs mà kể cả người ở các nước thứ ba. Đặc biệt nhiều công ty FDI gốc Đài Loan hoặc Hong Kong thường thuê kỹ sư người ở Trung Quốc, công ty FDI Nhật thường thuê người Đài Loan, v.v... Sau 3-4 năm hoạt động, các doanh nghiệp FDI dần dần tỡm người Việt Nam thay thế để giảm phí tổn sản xuất. Tiền lưong của một kỹ sư người Việt Nam bằng nửa người Trung Quốc và bằng 1/4 người cùng trình độ từ Đài Loan sang.
Tuy nhiên tác động này chỉ phát huy tác dụng khi đội ngũ lao động có trình độ này ra khỏi doanh nghiệp FDI và chuyển sang làm việc tại các doanh nghiệp trong nước hoặc tự thành lập doanh nghiệp và sử dụng những kiến thức tích lũy được vào công việc kinh doanh tiếp đó.
Mặc dù vậy, thành quả trong lĩnh vực này rất khiêm tốn. Do cách thức sản xuất theo công đoạn trong mạng lưới toàn cầu, mà nhà đầu tư còn giữ phần lớn bí quyết công nghệ, nên cán bộ và công nhân Việt Nam vẫn còn rất thụ động. Việc chuyển giao công nghệ rất ít và việc truyền bá kinh nghiệm quản lý cũng gần như không có gì. Đây là vấn đề đòi hỏi nỗ lực của cả các nhà khoa học và quản lý Việt Nam phải vươn lên để học hỏi trong công việc, từng bước vươn lên. Kinh nghiệm trong xây dựng các công trình lớn, khai thác dầu khí, điện, than... đáng để mở rộng, trong khi các kinh nghiệm trong gia công hàng hóa còn rất khiêm tốn.
Tạo việc làm, phát triển nguồn nhân lực
FDI giúp các nước ta tận dụng được lợi thế về nguồn lao động dồi dào. Khu vực có vốn FDI tạo ra số lượng lớn việc làm cho người lao động đặc biệt là trong lĩnh vực chế tạo. Nhìn chung, số lượng việc làm trong khu vực có vốn FDI và tỷ trọng trong tổng lao động có xu hướng tăng lên. Cho đến nay, có hơn 2 triệu lao động trực tiếp làm việc trong khu vực FDI, nếu tính cả lao động thời vụ. Lao động gián tiếp có thể lên gấp đôi.
Biểu đồ thể hiện lao động của khu vực kinh tế nhà nước, khu vực kinh tế tư nhân và khu vực FDI qua các năm.
Bên cạnh đó, FDI còn góp phần vào việc đào tạo, nâng cao trình độ cho người lao động. Năng suất lao động trong các doanh nghiệp có vốn FDI thường cao hơn trong các doanh nghiệp trong nước Với tiêu chí coi hiệu quả làm việc là ưu tiên hàng đầu trong tuyển dụng và sử dụng lao động, các doanh nghiệp có vốn FDI thường xây dựng được một đội ngũ công nhân, nhân viên lành nghề, có tác phong công nghiệp, có kỷ luật cao. Đội ngũ cán bộ của nước nhận đầu tư tham gia quản lý hoặc phụ trách kỹ thuật trong các dự án FDI trưởng thành nhiều mặt. Phần lớn số lao động cấp cao này được tham gia đào tạo, huấn luyện ở trong và ngoài nước, được tiếp thu những kinh nghiệm quản lý điều hành của các nhà kinh doanh nước ngoài. Đặc biệt với hình thức doanh nghiệp liên doanh, chủ đầu tư của nước chủ nhà tham gia quản lý cùng các nhà đầu tư nước ngoài nên có điều kiện tiếp cận và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước ngoài trong sản xuất kinh doanh, nâng dần kiến thức kinh doanh hiện đại của mình lên, ví dụ như: kinh nghiệm xây dựng và đánh giá dự án, kinh nghiệm tổ chức và điều hành doanh nghiệp, quản lý tài chính, kế toán, quản lý công nghệ, nghiên cứu thị trường, nghệ thuật tiếp thị, thông tin quảng cáo, tổ chức mạng lưới dịch vụ, ...
Năm 2007, mỗi người lao động làm trong khối doanh nghiệp này sinh lợi cho doanh nghiệp 25,1 triệu đồng. Ở doanh nghiệp nhà nước, mỗi người lao động chỉ sinh lợi cho doanh nghiệp 8 triệu đồng và ở doanh nghiệp tư nhân là 5,1 triệu đồng. Khả năng dùng người trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn được thể hiện từ hiệu quả của đồng lương được trả cho người lao động. Kết quả khảo sát cho thấy, 1 đồng tiền lương đã tạo ra 1,1 đồng lợi nhuận tại khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, trong khi chỉ tạo ra 0,5 đồng trong khối doanh nghiệp tư nhân và 0,3 đồng tại khối doanh nghiệp nhà nước. Năm 2008, NSLĐ khu vực FDI cao hơn 7 lần so với khu vực ngoài nhà nước và bằng 90% khu vực nhà nước, cao hơn 4 lần so với năng suất chung của nền kinh tế.
Nhiều nghiên cứu cho thấy tiền lương trả cho lao động trong các doanh nghiệp có vốn FDI lớn hơn trong các doanh nghiệp trong nước. Điều này không chỉ đúng ở các nước đang phát triển mà còn đúng cả ở các nước công nghiệp phát triển. Lý do chủ yếu là các doanh nghiệp có vốn FDI thường có xu hướng đầu tư vào các ngành hoặc các địa bàn có mức lương tương đối cao ở nước nhận đầu tư, hoặc thường thuê lao động có tay nghề cao, hoặc nhờ công nghệ chủ đầu tư đem vào hiện đại hơn nên có thể đem lại năng suất cao hơn, do đó tiền lương trả cho lao động cao hơn,... Tiền lương cũng là vấn đề cần thiết trong việc giữ chân nhân sự hiện nay. Năm 2009, tỷ lệ lao động chủ động rời doanh nghiệp là 14%, năm 2008 là gần 17%..
Tác động lan truyền của bộ phận lao động trong khu vực FDI rất có ý nghĩa. Các cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật trong nước được kích thích nâng cao trình độ khi giao dịch với các đối tác nước ngoài. Người lao động, nhất là lực lượng lao động trẻ, mong muốn tìm việc làm trong các doanh nghiệp có vốn FDI để được thử sức trong một môi trường năng động hơn và có thu nhập cao hơn đã quan tâm hơn đến việc nâng cao trình độ và tay nghề. Tuy nhiên có một thực tế là tỷ lệ lao động nữ rất cao trong các doanh nghiệp FDI, nhưng giá nhân công thấp và có thể gây các bệnh nghề nghiệp (như lệch mắt khi chuyên trách kiểm tra chất lượng lắp điện tử tự động của nhà máy sản xuất máy tính và linh kiện điện tử).
Cơ cấu và thu nhập lao động của các doanh nghiệp FDI trong BXH VNR500
2007
2008
Lao động nữ (%)
Thu nhập (tr.đ/ ng/năm)
Lao động nữ (%)
Thu nhập (tr.đ/ng/năm)
FDI
69.39%
79,026
67.59%
97,572
NN
35.00%
157,257
35.18%
192,550
Tư nhân
67.92%
111,371
48.86%
59,970
Nguồn: Dữ liệu các BXH VNR500, Vietnam Repo
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực
Những thập kỷ đầu sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, FDI vào các nước đang phát triển chủ yếu nhằm khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho các ngành công nghiệp ở chính quốc. Ngày nay, FDI đang trở thành một yếu tố tạo ra sự chuyển biến cơ cấu kinh tế tích cực ở các nước nhận đầu tư. FDI chủ yếu được tiến hành bởi các TNC và thường tập trung vào các ngành công nghiệp và dịch vụ, vì vậy FDI đáp ứng được nhu cầu phát triển các ngành này củaViệt Nam.
Năm 2009, dịch vụ lưu trú & ăn uống (40,9%) và đầu tư bất động sản (35,4%) là nhóm ngành thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nhiều nhất. Năm 2010, dẫn đẩu về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục là lĩnh vực dịch vụ ( cụ thể là bất động sản), kế đến là ngành công nghiệp chế biến. .
(Sài Gòn Tiếp Thị)
Top 5 ngành thu hút FDI lớn nhất năm 2010:
Thứ tự
Ngành
Số dự án cấp mới
Vốn đăng ký cấp mới (triệu USD)
Vốn đăng ký tăng thêm (triệu USD)
Vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm (triệu USD)
1
KD bất động sản
27
6.710,6
132,1
6.842,7
2
CN chế biến, chế tạo
385
4.032,2
1.048,9
5.081,2
3
Sản xuất, phân phối điện,khí,nước,đ.hòa
6
2.942,9
9,8
2.952,6
4
Xây dựng
141
1.707,8
26,8
1.734,6
5
Vận tải kho bãi
16
824,1
55
879,1
Nguồn: MPI& GSO
Với tỷ trọng vốn FDI vào các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng, nguồn vốn này đã góp phần tăng nhanh tỷ trọng về sản lượng, việc làm, xuất khẩu, ... của các ngành công nghiệp, dịch vụ trong nền kinh tế của các nước đang phát triển. Tỷ trọng của các ngành kinh tế truyền thống (nông nghiệp, khai thác, ...) giảm mạnh. Mặc dù khu vực chế biến, chế tạo vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng vốn đăng ký, mức độ giải ngân thực tế còn thấp. Điều này có thể cho thấy đầu tư vào khu vực này gặp nhiều khó khăn và đem lại nguồn lợi ít hơn so với đầu tư vào dịch vụ và bất động sản. Do đó, cần phải xem lại chính sách và các biện pháp ưu đãi để khuyến khích luồng vốn FDI đổ vào khu vực chế biến chế tạo, qua đó nâng cao năng suất và mang lại tác động lan toả cho cả nền kinh tế.
Quyết định chính sách của chính phủ Việt Nam cũng có thể có tác động lên cơ cấu FDI theo ngành. Đầu tư vào dự án bất động sản bị chỉ trích vì nhiều lí do, làm mất đất nông nghiệp, gây ra bong bóng đất. Vì vậy cần tập trung vào các ngành tạo ra giá trị gia tăng trong nước cao, và có hàm lượng công nghệ cao
FDI góp phần tích cực vào các cân đối lớn của nền kinh tế
Các dự án FDI góp phần ổn định kinh tế vĩ mô của các nước đang phát triển. Các cân đối lớn của nền kinh tế như cung cầu hàng hóa trong nước, xuất nhập khẩu, thu chi ngân sách đều thay đổi theo chiều hướng tích cực nhờ sự đóng góp của FDI.
FDI đối với cung cầu hàng hóa trong nước. Trong giai đoạn đầu mới phát triển, do trình độ phát triển thấp, công nghệ, máy móc thiết bị lạc hậu, thiếu vốn... nên năng lực sản xuất của khu vực kinh tế trong nước của các nước đang phát triển rất yếu kém, không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước, nền kinh tế phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Nguồn vốn FDI vào đã giúp các nước giải quyết được khó khăn trên. Khu vực có vốn FDI đáp ứng một phần nhu cầu hàng hóa trong nước, làm giảm căng thẳng cung cầu, giảm sự phụ thuộc hàng nhập khẩu. Trong những năm sau, khi FDI vào sản xuất vật chất ngày càng tăng thì các doanh nghiệp có vốn FDI tham gia cung ứng ngày càng nhiều các loại hàng hóa cho tiêu dùng trong nước. Trong cơ cấu nhập khẩu, tỷ trọng hàng tiêu dùng giảm xuống. Thêm vào đó, chất lượng hàng hóa đáp ứng được nhu cầu trong nước, chủng loại hàng hóa phong phú, từ hàng tiêu dùng cá nhân, hàng tiêu dùng gia đình đến hàng tiêu dùng cao cấp.
FDI đối với xuất nhập khẩu. Không chỉ đáp ứng nhu cầu nội địa, FDI ngày càng hướng mạnh vào xuất khẩu. Nguồn ngoại tệ đáng kể từ xuất khẩu đã giúp nước ta cải thiện cán cân thương mại. Do nhu cầu hàng hóa trong nước được đáp ứng tốt hơn và có nguồn ngoại tệ từ xuất khẩu mà nhập khẩu cũng thay đổi theo hướng tích cực. Cơ cấu nhập khẩu thay đổi mạnh, tỷ trọng hàng máy móc thiết bị, công cụ sản xuất tăng. FDI còn có những tác động tích cực đến cán cân vãng lai và cán cân thanh toán nói chung. Ngoài nguồn thu từ xuất khẩu, các nguồn thu khác trong cán cân vãng lai cũng chịu ảnh hưởng dây chuyền từ hoạt động FDI. Các dịch vụ phục vụ các nhà đầu tư thu ngoại tệ được mở rộng và phát triển. Khách quốc tế đến các nước đang phát triển với mục đích tìm hiểu cơ hội đầu tư tăng lên, dịch vụ du lịch, khách sạn, vận chuyển hàng không, … cũng theo đó mà phát triển.
Xu hướng thay đổi cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng các sản phẩm chế tác và sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao (2000-2008)
Kim ngạch xuất khẩu trong 4 tháng đầu năm 2011 của doanh nghiệp FDI đạt 12,7 tỷ USD, tăng hơn 36% so với cùng kỳ năm trước song kim ngạch nhập khẩu còn cao hơn, đạt tới 13,9 tỷ USD. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và đầu tư, kim ngạch xuất khẩu trong tháng 4/2011 ước đạt 7,3 tỷ USD, giảm 2% so với tháng trước, trong đó xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) ước đạt 3,5 tỷ USD. Tính chung 4 tháng đầu năm, tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước ước đạt 26,9 tỷ USD, tăng 35,7% so với cùng kỳ năm trước. Còn tổng kim ngạch nhập khẩu ước đạt 31,8 tỷ USD, tăng 29,1% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) (không kể dầu thô) ước đạt 12,7 tỷ USD, tăng 36,2% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, kim ngạch nhập khẩu của các doanh nghiệp FDI còn cao hơn, đạt tới 13,9 tỷ USD, tăng 35,5% so với cùng kỳ. Về thị trường xuất khẩu, Mỹ và EU vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất, đều gần 18%, tiếp đến là thị trường Asean với trên 15%, Nhật Bản hơn 10%... và đặc biệt là thị trường Trung Quốc tăng tới 57,3% so với cùng kỳ, chiếm tỷ trọng tới gần 11%.
Mặc dù ảnh hưởng của FDI đến cán cân thanh toán còn là vấn đề tranh cãi, do quan điểm cho rằng nguồn lợi nhuận chuyển ra nước ngoài dần sẽ lớn và có tác động bất lợi, nhưng về lâu dài FDI vẫn có ảnh hưởng tích cực cho cán cân thanh toán nói chung. Nguồn thu từ xuất khẩu và từ các dịch vụ thu ngoại tệ sẽ ngày càng tăng, còn nhu cầu nhập khẩu sẽ ổn định với các chính sách điều tiết vĩ mô của nhà nước.
FDI đối với tăng trưởng GDP và thu ngân sách Nhà nước
FDI giúp các nước tăng GDP, tốc độ tăng trưởng của khu vực có vốn FDI thường cao hơn tốc độ tăng trưởng của khu vực kinh tế có vốn trong nước, chính vì vậy FDI góp phần đẩy nhanh tốc độ phát triển và tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển. FDI cũng góp phần tăng thu cho ngân sách nước nhận đầu tư thông qua thuế và tiêu dùng các dịch vụ công cộng.
Đóng góp NS
Đóng góp giá trị CN
Đóng góp GDP
2006
2007
2008
2006
2007
2008
2006
2007
2008
NN
31.87%
28.89%
29.80%
22.4%
20.0%
18.5%
37.4%
35.9%
35.5%
Ngoài NN
15.18%
17.89%
18.94%
33.4%
35.4%
37.1%
45.6%
46.1%
46.0%
FDI
17.78%
18.02%
19.08%
44.2%
44.6%
44.4%
17.0%
18.0%
18.4%
Tỷ trọng đóng góp vào GDP của khu vực này đã tăng lên gấp gần 2,5 lần trong vòng 10 năm từ 1995-2005 lên xấp xỉ 16%, giai đoạn 2006-2008 tăng từ 17% lên 18,4%. Tỷ trọng đóng góp vào ngân sách cũng tăng gấp 2 trong vòng 8 năm (2001-2008) và đạt 19,08% vào năm 2008. Đáng kể nhất là đóng góp vào giá trị sản xuất công nghiệp của toàn nền kinh tế trong 10 năm 1996-2006 đã tăng hơn 1,5 lần và ở mức cao, đạt 44,4% vào năm 2008. Khu vực này cũng thu hút một lượng lao động lớn, chiếm 22,2% tổng số lao động tại DN. Năm 2008, khối doanh nghiệp FDI đã đóng góp vào ngân sách Nhà nước 1,982 tỷ USD, tăng 25,8% so với năm 2007 tạo ra 200.000 việc làm mới. Năm 2009, khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã đóng góp 18,33% GDP, bổ sung 2,5 tỷ USD vào nguồn thu ngân sách. Năm 2010 Năm 2010, các doanh nghiệp FDI nộp ngân sách Nhà nước đạt 3,1 tỷ USD, tăng 26% so với năm 2009, vượt 6% so kế hoạch đề ra và đóng góp 18,4% tổng thu ngân sách nội địa, đồng thời tạo ra nhiều việc làm mới, đưa tổng số lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp FDI đạt 1,9 triệu lao động, góp phần giải quyết về việc làm cho lao động Việt Nam.
Ví dụ, ở Hải Dương riêng thu thuế từ công ty lắp ráp ô tô Ford chiếm 50 phần trăm số thu nội địa trên địa bàn tỉnh năm 2006, Cty Conoco Phillips (Mỹ), DN liên doanh với Cty Thăm dò và Khai thác dầu khí cùng phát hiện dầu khí tại mỏ Sư tử nâu là DN có vốn nước ngoài nộp thuế nhiều nhất, đứng thứ 4 trong TOP 10 doanh nghiệp đóng thuế nhiều nhất TpHCM với 1.404 tỷ đồng năm 2010.
Như vậy, tính chung cả cấp mới và tăng vốn, trong 4 tháng đầu năm 2011, các nhà đầu tư nước ngoài đã đăng ký đầu tư vào Việt Nam 4,024tỷ USD, bằng 52,2% so với cùng kỳ 2010.
Các doanh nghiệp FDI đóng góp nguồn vốn không nhỏ cho Ngân sách Nhà nước xét về tổng thể. Tuy nhiên, nếu có tới 50% doanh nghiệp liên tục khai kinh doanh bị lỗ, và phần lớn các liên doanh đã chuyển sang hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài cho thấy có điểm gì đó chưa ổn cần quản lý chặt chẽ hơn. Tình trạng chuyển dự án dễ dàng sau Luật Đầu tư 2005 đã tạo ra kẽ hở để có thể “bán” dự án, làm cho quản lý tài nguyên và đất đai thêm khó khăn. Các dự án địa ốc gần đây cần được theo dõi sát hơn, vì có dự án 4,1 tỷ USD, nhưng vốn tự có (vốn pháp định hay vốn điều lệ) chỉ 100 triệu USD. Nhiều dự án đã bị các địa phương rút giấy đầu tư cũng có nguyên nhân đầu tư “ảo” rất đáng lo ngại này.
Mở rộng thị trường xuất khẩu và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường thế giới
Vai trò này của FDI thể hiện rất rõ nét ở các nước áp dụng chính sách thu hút FDI hướng vào xuất khẩu. Sự xuất hiện của các dự án FDI đi kèm với công nghệ, máy móc, thiết bị hiện đại đã giúp các nước nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các mặt hàng xuất khẩu. Các dự án FDI tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao hơn, phù hợp tiêu chuẩn quốc tế hơn. Bên cạnh đó thông qua các mối quan hệ sẵn có của các nhà đầu tư nước ngoài hàng hóa của các doanh nghiệp có vốn FDI tiếp cận được thị trường thế giới. Như vậy, FDI đã vừa làm tăng năng lực xuất khẩu vừa mở rộng thị trường xuất khẩu cho các nước nhận đầu tư. ở nhiều nước kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn FDI chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Cơ cấu hàng xuất khẩu cũng thay đổi theo hướng tích cực. Trị giá hàng công nghiệp ngày càng tăng. Một phần do các doanh nghiệp FDI chủ yếu xuất khẩu hàng công nghiệp chế biến.
Doanh nghiệp FDI tham gia xuất khẩu hầu hết các mặt hàng chủ lực và chiếm tỷ trọng cao trong xuất khẩu nhiều mặt hàng, đặc biệt là các mặt hàng công nghiệp như hàng dệt may chiếm tỷ trọng 59% trong 2 tháng đầu năm 2009, giày dép 69,5%, điện tử 96,6%, máy móc thiết bị 85%, dây cáp điện 81,7%... Theo thống kê, xuất khẩu 10 mặt hàng chủ lực của doanh nghiệp FDI chiếm 27,5% tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2008 và 24,9% trong 2 tháng đầu năm 2009.
Chỉ số đa dạng hóa thị trường của Việt Nam tăng từ 0,88 lên 1 giai đoạn 2000-2008 (xếp thứ I năm 2000 và xếp thứ II năm 2008 sau Trung Quốc) cho thấy mức độ đa dạng hóa thị trường cao của Việt Nam là một điểm mạnh giúp bảo vệ hàng xuất khẩu Việt Nam khỏi sự cạnh tranh mạnh mẽ trước sự nổi lên của các đối thủ trên các thị trường lớn.
Hàm lượng công nghệ của các sản phẩm chế tác x
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BAI_IN_FDI.doc