Đề tài Tìm hiểu về Pushmail

Hiện nay có rất nhiều điện thoại của những hãng khác nhau hỗ trợ công nghệ Push Mail. Tùy theo từng đặc tính của từng loại điện thoại khác nhau mà ta có cách sử dụng Push Mail trên thiết bị riêng.

Với dòng Windows Mobile, đặc biệt là từ version 6.0 trở đi, thì tính năng Direct Push của Microsoft được tích hợp sẵn trong điện thoại, nghĩa là người dùng không cần sử dụng bất kỳ chương trình nào của hãng thứ 3 nữa. với các version cũ hơn, đòi hỏi phải cài công cụ bổ sung.

Tương tự như vậy, BlackBerry cũng tích hợp sẵn chức năng Push Mail trong điện thoại. chỉ cần 1 đường truyền hỗ trợ, người dùng có thể xem thư tại bất cứ nơi đâu.Mỗi thiết bị di động BlackBerry có 1 số ID gọi là BlackBerry PIN dùng để nhận dạng thiết bị với BES.

Hiện tại iPhone chưa tích hợp chức năng Push Mail, tuy nhiên trong thời gian ngắn nữa, người dùng có thể sử dụng Push Mail trên iPhone

Những thiết bị di động sử dụng Hệ điều hành Symbian như dòng Nokia Series60,80 có thể sử dụng tính năng Push Mail. Tuy nhiên, cũng phải sử dụng thêm chương trình.Hoặc dòng Symbian của Sony Ericsson như P990,P1, đòi hỏi chúng ta phải cài thêm 1 ứng dụng nữa trên điện thoại.Ví dụ chương trình Exchange AcitiveSync.

 

doc47 trang | Chia sẻ: netpro | Lượt xem: 2474 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu về Pushmail, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ụng khác. Mỗi một giao thức liên quan đến một vấn đề riêng. Tuy nhiên hầu hết các giao thức này đều quan trọng, và nó tuỳ thuộc vào giao thức nào hợp với bạn. Có thể công ty của bạn cho là IMAP thiết thực hơn POP3 vì ngày nay IMAP thường được sử dụng phổ biến hơn POP3, mặc dù vậy cả hai đều có những ưu nhược điểm riêng. Chính vì vậy chúng ta hãy xem xét một chút về những ưu nhược điểm này. IMAP phổ biến hơn vì mail vẫn nằm trong máy chủ. Hầu hết các máy khách mail (MUA) đều cho phép người dùng có thể đồng bộ dữ liệu với ổ cứng cục bộ - sự cần thiết khi di động, như trên các chuyến bay chẳng hạn – tuy nhiên, vị trí chính của các thư tín là trên máy chủ. IMAP cho phép việc quản trị trở lên dễ dàng hơn đối với các nhà quản lý CNTT vì chỉ có một máy tính để backup và nó cũng dễ dàng kiểm soát lượng không gian ổ tiêu tốn bằng việc hạn chế kích thước mailbox. Người dùng hiểu rõ giá trị khả năng truy cập mail của họ từ bất kỳ máy tính nào đang sử dụng MUA nào đó phù hợp, và vì IMAP có thể lưu trạng thái thư tín (như xem một thư đã được đọc hoặc được reply hay chưa) và giữ các thư đã được gửi đi. IMAP (riêng SSL IMAP, có bổ sung thêm các tính năng mới) cũng có thể kích hoạt sử dụng băng tần một cách hiệu quả. Thay vì download các thư đến hòm thư của người dùng, mặc định IMAP gửi header của thư (người gửi, người nhận và dòng tiêu đề,…). Chỉ có các thư đã được chọn gửi đến hộp thư và máy khách mới có thể lấy về phần văn bản mà không lấy về các file đính kèm. Tuy vậy, IMAP cũng có nhược điểm. Nếu một công ty giữ tất cả các mail trên một máy chủ, trong trường hợp không backup kịp thời cộng với số lượng email có thể là rất lớn, điển hình như các đính kèm hoặc các ảnh nhúng; nhiều công ty giải quyết vấn đề này bằng cách tạo các nguyên tắc về không gian đĩa (như tối đa là 100MB), điều đó sẽ làm khó chịu cho người dùng, nhất là những người thực sự cần đến nhiều nhu cầu. Rõ ràng, IMAP email không thể truy cập mà không có kết nối Internet hoặc việc đồng bộ với một máy tính cục bộ nào đó. Nhiều tranh luận giữa các chuyên gia về POP email chỉ là một khía cạnh của IMAP. Vì các thư được tải về vào một máy tính riêng, nên kích thước hộp thư bị hạn chế bởi không gian đĩa có sẵn của người dùng, và các thư có thể được xem vào bất kỳ lúc nào khi đã tải về – tuy vậy nó chỉ có thể xem từ trên chính máy đã tải về nếu người dùng không có thiết lập cụ thể lưu lại mail đã tải trên máy chủ. Nó cũng cho người dùng một cảm giác về sự riêng tư, POP3 được sử dụng rộng rãi cho các kết nối dial-up và nó làm việc với một máy khách email cũ hơn (do người dùng giữ) Về phía người dùng, họ check mail trên máy tính nhiều hơn là điện thoại. Điện thoại hỗ trợ check mail còn ít. Nếu có, chỉ là check mail qua GPRS, nhưng qua giao diện web của nhà cung cấp mail ( giống như truy cập internet bình thường), chưa có một chuẩn nào cho check mail trên di động. 2.2 Lợi ích khi dùng Pushmail 2.2.1 Tính tiện lợi và lưu động của pushmail: Không thể 1 ngày chúng ta bật máy tính lên và check email liên tục.Đối với công việc văn phòng thì có thể làm được nhưng đối với những công việc quan trọng thì rất bất lợi,ví dụ như chứng khoán yêu cầu phải di chuyển nhiều và liên tục, người dùng có thể không cần check mail mà mail sẽ tự động alert khi nó đến như SMS.Nếu dùng SMS để liên lạc thì vấn đề nghẽn mạng và SMS tới trễ là điều không thể tránh khỏi.Đối với chứng khoán việc chậm trễ vài giây cũng gây nên thiệt hại lớn.Pushmail có cơ chế khắc phục việc pushmail chậm và trách time out dẫn tới mất kết nối tới server mail. 2.2.2. Xóa bỏ khoảng cách địa lý: So với SMS cũng có nhiều tính năng giống pushmail thì pushmail có ưu điểm hơn.Thiết bị smartphone dùng pushmail không phụ thuộc vào khu vực địa lý đang sử dụng.Mỗi khi qua một nước khác ta lại phải dùng mạng di động khác thì SMS mới hoạt động được.Vấn đề ở đây ta phải nhớ mã nước,mã vùng và mạng di dộng đang dùng.Với pushmail chỉ cần có smartphone và wireless đây là những chuẩn ở bất kỳ đâu cũng dùng.Đồng thời một đặc điểm nữa là việc gửi mail tính theo dung lượng chứ không tính theo ký tự như SMS nên nội dung gửi nhiều hơn,ta có thể đính kèm các tập tin quan trọng trong pdf,excel,doc….mà hầu hết các thiết bị martphone có thể đọc được mà không cần cần máy tính. 2.2.3 Tính bảo mật: Việc check mail bằng máy tính có thể gây vấn đề về bảo mật như mất mail,mail bị đọc trộm hay người dùng có thể bị dính virus,trojan,spy…có thể mất tài khoản mail.Ngoài ra máy tính thường hư hỏng hơn smartphone dẫn tới mất mail.thất thóat mail…..Vấn đề đó được khắc phục phần lớn khi có pushmail.Không ai có thể sử dụng smartphone ngoài người sở hữu nó,các chương trình mã độc cho smartphone không nhiều và smartphone có cơ chế quản lý tài khoản,thông tin cá nhân,lịch làm việc….rất tiện lợi. Hạn chế khi dùng Pushmail 2.3.1. Đồng bộ: Đã nói tới pushmail thì rmail phải được push ngay khi tới server, server mail quả lý không tốt thì email không được push kiệp thời dẫn đến chậm trễ mail gây thiệt hai cho người dùng. 2.3.2. .Dung lượng: Email ngoài dạng text,người dùng còn đính kèm các file PDF, DOC, XLS, PPT, PPS, ZIP, RAR, HTML, pictures…gây việc push và nhận mail chậm hơn.Nếu media dùng để pushmail thì GPRS nhận mail chậm nhất và gây khó khăn khi nhận mail.Vì vậy cần phải nén mail có dung lượng nhỏ hay chỉ nhân dạng text còn file đính kèm có thể nhận trên máy tính. 2.3.3. Bảo mật: Wireless là media không an toàn nhất,dễ bị mất thông tin nếu bảo mật smartphone không kỹ,những sơ xuất do chúng ta tạo ra có thể lam mất các mail quan trọng. 2.3.4. Spam mail: Việc nhận mail bằng alert rất tiện lợi,nhưng đôi khi gây cho chúng ta khó chịu với các mail spam,không cần thiết. Chúng ta không thể 1 ngày nhận mấy trăm mail gây rất nhiều phiền toái,ảnh hưởng tới cong việc,vì vậy việc thiết lập các bộ lọc rất quan trọng. 2.3.5. Các trang web lừa đảo: Việc sử dụng máy tính có web browser tích hợp nhiều add on cảch báo các trang web độc hại,có hệ thống firewall,internet security bảo về chúng ta trước mọi virus,trojan,spy….còn trên smartphone việc hỗ trợ rất hạn chế nên chúg ta cần cản thận với các email không rõ nguồn gốc,yêu cầu xác nhận thông tin quan trọng liên quan tới ngân hàng….. 2.3.6. Server busy: Việc pushmail sẽ bị gián đoạn vì lỗi time out (client yêu cầu server và server không xử lý kịp).Vì vậy việc xác dịnh thời gian gửi các yêu cầu đến server cần phải hợp lý. 3. Quá trình nhận mail và gửi mail 3.1 Quá trình xử lý client và server Một công nghệ mới mang lại nhiều hiệu quả của DirectPush đó là nó có khả năng duy trì kết nối HTTPS giữa máy chủ Exchange và thiết bị di động, mỗi một session được duy trì bằng các xung nhịp. Bằng cách này, máy chủ Exchange có thể thông báo cho thiết bị di động xem có cần thay đổi mailbox liên kết hay không và nếu có sự thay đổi trong mailbox thì máy chủ có thể chỉ thị một đồng bộ. Khi thiết bị giữ được một session mở đối với máy chủ Exchange thì một số người có thể cho rằng điều này là khá xa xỉ. Tuy nhiên ở đây thiết bị đơn giản chỉ đặt và đợi đáp ứng, nó không cần phải gửi hoặc nhận dữ liệu trong trạng thái này. Nói cách khác, không cần việc trao đổi dữ liệu trừ khi có một sự thay đổi nào đó được phát hiện trong mailbox hoặc xung nhịp bị hết hạn. . Hình 1: quá trình kết nối client và server Quá trình Direct push giống như những request HTTP nhỏ tới những website mà mất một khoảng thời gian đáp ứng dài. Nội dung của những gói này được mã hóa bằng cách sử dụng Secure Sockets Layer (SSL), khiến cho quá trình nhận dạng direct push trở nên khó hơn.. 3.2. Các bước thực hiện. Những bước dưới đây cung cấp cái nhìn tổng thể về quá trình direct push: 1. Client đưa ra 1 thông điệp HTTP message được biết như là 1 request Ping tới Exchange server, hỏi Server xem có bất kỳ thay đổi nào xuất hiện trong mailbox của user trong 1 thời gian giới hạn trước.Trong request ping, client xác định những thư mục mà cần Exchange theo dõi những thay đổi. cụ thể như trong Inbox, Calendar, Contacts, và Tasks. 2. Khi Exchange nhận được request này, nó theo dõi xem những thư mục được chỉ định cho đến khi xuất hiện những thay đổi: • ] Thời gian giới hạn đã hết. Nếu nó xảy ra, Exchange đưa ra 1 đáp ứng HTTP 200 OK tới client. • ] Có thay đổi trong một trong những thư mục chẳng hạn như có mail tới.Nếu xảy ra Exchange đưa ra 1 đáp ứng và nhận diện thư mục nào có thay đổi. 3. Client trả lời lại những phản hồi từ Exchange server theo những trường hợp sau đây: • ] Nếu là 1 đáp ứng HTTP 200 OK nói rằng không có thay đổi gì xảy ra, nó lại đưa ra request Ping. ] Nếu nhận được đáp ứng khác HTTP 200 OK,client đưa ra 1 request đồng bộ hóa lần nữa giữa những thư mục có thay đổi. khi quá trình đồng bộ hoàn thành, client lại đưa ra 1 request Ping. • ] Nếu không nhận được bất kì phản hồi nào từ Exchange server trong khoảng thời gian định trước, nó hạ thấp khoảng thời gian trong request Ping và sau đó gửi lại 1 request. Client nhận được phản hồi rỗng sẽ biết đã hết thời gian và phát một tín hiệu request khác tới Exchage, Và cứ như thế lặp lại, Client yêu cầu Exchage phản hồi,hết thời gian Exchange báo rỗng và client phát request mới,cứ tiếp tục có sự kêt nối client và server thường xuyên- quá trình gọi là “heartbeat.".Trước khi gửi request mới từ client ,client sẽ gửi tín hiệu đồng bộ cho server báo có sự thay đổi. Giữa client và server duy trì kết nối liên tục để nhận mail.Trong lúc chúng ta không nhận hay gửi mail thì kết nối vẫn còn.Client duy trì bằng cách thực hiện kết nối TCP liên tục với server mặc dầu không gửi packet nào.Giữa client và server mã hóa dữ liệu (mã hóa mail) cho mục đích bảo mật bằng SSL hỗ trợ cho HTTP. 3.3. Đồng bộ trong gửi và nhận: (hình minh họa) Hình 2: đồng bộ trong gửi và nhận Kí hiệu “T” mô tả thời gian thực hiện Quá trình trao đổi thông tin diễn ra như sau: 1. Client “thức dậy” và gửi 1 HTTP request trên Internet tới Exchange Server, và sau đó đi vào tình trạng “ngủ” - sleep. Để giữ cho phiên làm việc hoạt động, request định khoảng nhịp - heartbeat interval, là khoảng thời gian mà server chờ đợi PIM hay mail mới đến trước khi gửi tín hiệu OK tới client. Trong hình trên,heartbeat interval là 15 phút. Heartbeat interval được xác định động; Client tự nó xác định dựa vào các điều kiện của mạng và 1 kết nối HTTP nhàn rỗi bao lâu thì được quy định dựa vào mạng - operator network. 2. Bởi vì không có PIM hay mail nào đến trong thời gian Heartbeat interval, server trả về giá trị HTTP 200 OK. 3. Việc trả lời của Server đánh thức client. Bởi vì kết nối không hết hạn thời gian suốt quá trình chờ đợi ở trên, client xác định rằng mạng có thể hỗ trợ những kết nối nhàn rỗi - idle connections cho ít nhất trong khoảng thời gian này. Vì thế client tăng thời gian rỗi lên. 4. Client gửi lại 1 request, có thề với khoảng thời gian chờ lớn hơn, vì thế nó khởi tạo lại quá trình. 5. Suốt khoảng thời gian heartbeat interval, server nhận được 1 thay đổi PIM change (chẳng hạn như thông tin Calendar mới) và ngay lập tức thông báo tới client. ở hình trên,nó xuất hiện 23 phút sau khi khoảng nhịp đầu tiên bắt đầu. 6. Đáp ứng của Server đánh thức Client. Sau đó client đồng bộ thông tin. Khi mà quá trình đồng bộ kết thúc, client lại gửi lại 1 HTTP request và sau đó vào trạng thái ngủ - sleep. 3.4 Vấn đề bảo mật trong quá trình Pushmail. 3.4.1 Password Policy và Data Encryption( Mã hóa dữ liệu): Pushmail sử dụng media truyền dẫn là wireless, GPRS là những media không an toàn,media cùng chung rất dễ theo dõi ,nghe trộm,lấy cắp thông tin.Vì vậy vấn đề quan trọng là có một chính sách bảo mật mật khẩu cũng như dữ liệu (email) cũng rất quan trọng. Trong quá trình gửi mail và nhận mail giữa client và server,mật khẩu được mã hóa sử dụng SSL . SSL(Secure Socket Layer) là một giao thức(protocol) cho phép truyền đạt thông tin một cách an toàn qua mạng.SSL mã hóa không chỉ là mật khẩu mà còn mã hóa cả dữ liệu truyền đi đảm bảo độ an toàn bằng cách mã hóa và giải mã sự liệu bằng các thuật toán và sử dụng cặp khóa public và private. 3.4.2 Certificate và authentication ( vấn đề xác thực) Lần đầu kết nối với server,Việc xác thực và chứng thực rất quan trọng trong pushmail nhằm xác định chính xác client có thực sự đúng đang truy cập vào server tránh trường hợp kẻ xấu mạo danh để nghe trộm và đánh cắp thông tin. Chứng thực cũng bảo vệ việc bị kẻ xấu ngồi ở giữa hai bên, lừa gạt cả hai bên nghĩa là kẻ xấu sẽ nói với server nó là client và nói với client nó là server để đọc được dữ liệu trao đổi giữa hai bên. Sau khi chứng thực thì quá trình xác thực giữ client và server diễn ra theo kiểu truyền thống là mật khẩu để xác định client có quyền truy cập hay không. Công nghệ Direct Push là công nghệ tích hợp trong exchange server dùng để pushmail khi mail tới server và được push ngay tới smartphone tương tự với khả năng chuyển đổi e-mail của thiết bị cầm tay BlackBerry do hãng Research In Motion phát triển. Công nghệ Direct Push (nhận mail bằng thời gian thực tức có thể nhận mail ngay tức thời, đồng bộ máy tính check mail) thể hiện sự mạnh mẽ từ phiên bản 5. Sang phiên bản mới, khả năng tìm kiếm email, gửi thư từ danh bạ, linh hoạt ghi chép, danh bạ, e-mail... đều thực hiện suôn sẻ. Chưa hết, nó còn có thể hiển thị e-mail dưới dạng html. Khi tin gửi hoặc nhận email gửi đến bằng đường link, bạn chỉ cần trỏ bút, mọi việc sẽ tự kết nối.Direct Push, Exchange 2003 SP2 còn được trang bị công cụ nén dữ liệu mới, tăng khả năng đồng bộ hoá với Outlook; và các trình điều khiển bảo mật an toàn hơn. Direct Push làm việc bằng việc giữ kết nối HTTPS tồn tại giữa thiết bị di động và Exchange 2007 CAS(Client Access Server). Vì công nghệ Direct Push sử dụng các yêu cầu HTTPS dài, do đó sóng mang và tường lửa của bạn phải được cấu hình với một giá trị time-out mặc định trong khoảng 15 đến 30 phút. Nếu giá trị này ngắn hơn thì việc thiết bị khởi tạo một yêu cầu HTTPS mới sẽ xảy ra nhiều hơn. Điều này không những tốn kém nguồn cấp mà còn gây ra nhiều vấn đề khác khi mà dữ liệu sẽ phải truyền tải nhiều hơn. Nếu giải pháp tường lửa trong tổ chức dựa trên ISA Server 2004 hoặc 2006, thì bạn có thể tham khảo những thông tin chi tiết về nó tại đây. 4. Điều kiện sử dụng Pushmail 4.1. Loại SmartPhone: Mặc dù Push Mail đã tồn tại nhiều năm trên những hệ thống có dây, một trong những hệ thống đầu tiên sử dụng với di động, những thiết bị không dây “always on” bên ngoài Châu Á là dịch vụ BlackBerry của Research In Motion. Tại Nhật Bản, “Push Mail” đã trở thành chuẩn trong thiết bị di động kể từ năm 2000. BlackBerry: BlackBerry sử dụng những thiết bị Mail User Agent (trạm mail người dùng) không dây và BlackBerry Enterprise Server được gắn vào 1 hệ thống mail bình thường ví dụ như Mail Exchange Server của Micrsoft. BES theo dõi E-Mail Server, và khi nó nhìn thấy có thư mới cho 1 người dùng BlackBerry, nó sẽ kéo 1 bản bản copy và sau đó sẽ “đẩy” đến thiết bị cầm tay BlackBerry qua mạng di động. BlackBerry trở nên rất quan trọng,là 1 phần tất yếu bởi vì nó đưa ra 1 phương thức thông báo mail từ xa 1 cách tức thời, nghĩa là khi có mail mới thì ngay lập tức họ sẽ nhận được trên thiết bị di động, không cần bất kỳ sự can thiệp nào của người dùng. Thiết bị cầm tay Handheld trở thành 1 di động, cập nhật động, copy mailbox của người dùng. Dựa trên thành công của BlackBerry, những nhà sản xuất khác cũng đã phát triễn những hệ thống Push Mail trên thiết bị cầm tay khác, ví dụ như điện thoại di động hệ điều hành Symbian. Windows Mobile: Microsoft cũng đã bắt đầu đưa ra hệ thống Push Mail giả lập với Windows Mobille 5.0, và công nghệ Push Mail thật sự trong năm 2007 với việc phát hành Windows Mobile 6.0 dưới cái tên “Direct Push Technology”. Công nghệ “Direct Push” là 1 chức năng mở rộng thêm vào Microsoft Exchange 2003 với bản Service Pack mới thêm chức năng tin nhắn và bảo mật, hiện tại được biết đến với cái tên AKU2. iPhone: Hãng điện thoại Apple của iPhone cũng bắt đầu sử dụng Push Mail trong thiết bị của mình vào mùa xuân hoặc mùa hè 2008. Đó sẽ là 1 chức năng chuẩn cho thiết bị iPhone thương mại, khiến cho iPhone trở thành thiết bị phù hợp với doanh nhân nhiều hơn. 4.1.4. Các thiết bị khác: Những Smartphone của Sony Ericsson (M600,P990,W950,P1,P5,W960,K850) có chức năng Push Mail thì sử dụng IMAP IDLE hoặc với Active Sync tích hợp. hầu hết các thiết bị di động khác của SE hỗ trợ push mail IMAP IDLE rất tốt (tuy nhiên chỉ trong hộp Inbox). Các giải pháp Push Mail khác cũng có sẵn hiện nay là NotifyLink, SEVEN, Visto và Good Technology ( của Motorola). NotifyLink hỗ trợ những ứng dụng đầu cuối sau: Alt-N Technologies, Communigate Pro, Kerio, Meeting Maker, Microsoft Exchange 2000/03/07, Mirapoint, Novell GroupWise, Oracle, Scalix, Sun Communication Suite, and Zimbra. Các thiết bị di động hỗ trợ bao gồm Windows Mobile, BlackBerry, Symbian OS và Palm OS. Visto Solution thì làm việc trên những Smartphone Treo680,700w và MotoQ mới đây. SEVEN hỗ trợ hơn 200 thiết bị chay hệ điều hành Symbian, Palm, Microsoft Mobile, BREW và Java/J2ME. Good Mobile Messaging của Good Technology (còn gọi là GoodLink) hỗ trợ Microsoft Exchange 2000, 2003 và 2007, Lotus Notes. Visto hỗ trợ tất cả các bản Exchange và phiên bản Domino bổ sung POP và IMAP. 4.2. Application sử dụng trên client (SmartPhone): Hiện nay có rất nhiều điện thoại của những hãng khác nhau hỗ trợ công nghệ Push Mail. Tùy theo từng đặc tính của từng loại điện thoại khác nhau mà ta có cách sử dụng Push Mail trên thiết bị riêng. Với dòng Windows Mobile, đặc biệt là từ version 6.0 trở đi, thì tính năng Direct Push của Microsoft được tích hợp sẵn trong điện thoại, nghĩa là người dùng không cần sử dụng bất kỳ chương trình nào của hãng thứ 3 nữa. với các version cũ hơn, đòi hỏi phải cài công cụ bổ sung. Tương tự như vậy, BlackBerry cũng tích hợp sẵn chức năng Push Mail trong điện thoại. chỉ cần 1 đường truyền hỗ trợ, người dùng có thể xem thư tại bất cứ nơi đâu.Mỗi thiết bị di động BlackBerry có 1 số ID gọi là BlackBerry PIN dùng để nhận dạng thiết bị với BES. Hiện tại iPhone chưa tích hợp chức năng Push Mail, tuy nhiên trong thời gian ngắn nữa, người dùng có thể sử dụng Push Mail trên iPhone Những thiết bị di động sử dụng Hệ điều hành Symbian như dòng Nokia Series60,80 có thể sử dụng tính năng Push Mail. Tuy nhiên, cũng phải sử dụng thêm chương trình.Hoặc dòng Symbian của Sony Ericsson như P990,P1, đòi hỏi chúng ta phải cài thêm 1 ứng dụng nữa trên điện thoại.Ví dụ chương trình Exchange AcitiveSync. Đường truyền: Hiện tại, có 2 cách chủ yếu để sử dụng Push Mail trên di động: Wifi hay GPRS. GPRS đòi hỏi mạng tại địa phương hỗ trợ. Tuy nhiên, hiện nay cước phí còn cao. Wifi tối ưu nhất, rẽ và tốc độ nhanh,tiện lợi. tuy nhiên, nó cũng yêu cầu 1 điểm truy cập (Host), bán kính của 1 điểm truy cập chỉ khoảng vài chục mét. Wifi chuẩn N ra đời sẽ giảm bớt nhược điểm này. Các công nghệ khác như 3G,HSPDA hay Wimax trên thế giới cũng đã có, cung cấp đường truyền tốc độ cao, nhưng chưa phổ biến ở Việt Nam. 4.4. Application sử dụng trên Server Ứng dụng chạy trên Server để hỗ trợ tính năng Push Mail, hiện tại có 2 hệ thống chính: Microsoft Exchange Server và gói phần mềm BlackBerry Enterprise Server (BES). Một công ty có thể xây dựng 1 Domain với Microsoft Exchange Server để hỗ trợ Direct Push, cũng như cung cấp dịch vụ mail cho nhân viên. BlackBerry chủ yếu phục vụ khách hàng ở Bắc Mỹ. Gói phần mềm BES hiện tại hỗ trợ cho Microsoft Exchange, Lotus Domino và Novell GroupWise. BES là gói phần mềm thưc hiện chức năng liên kết giữa thiết bị di động, mạng di động, các tổ chức. Nó cung cấp 1 sự an tâm, cấu trúc mở cho việc mở rộng thông tin di động toàn cầu và trao đổi thông tin tới thiết bị di động. Người dùng cá nhân có thể sử dụng dịch vụ mail mà không cần phải cài thêm BES trên Server. Với những công ty có số lượng nhân viên lớn, thì việc xây dựng BES trong hệ thống mạng là cần thiết. 5. Giới thiệu về Windows Mobile: Windows Mobile là một hệ điều hành loại thu gọn kết hợp với một bộ các ứng dụng cơ bản cho các thiết bị di động dựa trên giao diện lập trình ứng dụng Win32 của Microsoft. Các thiết bị chạy Windows Mobile bao gồm Pocket PC, Smartphone, Portable Media Center, và các máy tính lắp sẵn (on-board) cho một số loại ô tô. Ngoài ra, một số máy tính xách tay loại nhỏ (ultra-portable notebook) cũng có thể sử dụng hệ điều hành này.Windows Mobile được thiết kế để có vẻ ngoài và các tính năng tương tự với các phiên bản mặt bàn (desktop) của Windows. Xuất hiện lần đầu với tên hệ điều hành Pocket PC 2000, Windows Mobile đã được nâng cấp vài lần, phiên bản hiện hành là Windows Mobile 6 một phiên bản mới sẽ được ra mắt vào năm 2008. Các tính năng: Nhiều lựa chọn bảo vệ thông tin: Đây là một điều được người dùng trông đợi, phiên bản hệ điều hành mới đã mang đến nhiều cách tác động khác nhau trên các cơ sở khác nhau để có thể bảo vệ tốt nhất thông tin cho ban. Bảo vệ nội dung: Tổ chức sử dụng thông tin bằng công nghệ Information Rights Management (IRM) cho phép người sử dụng có thể đặt các dạng hiển thị, bộ nhớ, và in ấn các thông tin bí mật trên PC từ PDA. Quan trọng hơn, tính năng bảo mật mới cho phép xóa sạch thông tin từ xa khi thiết bị mất hoặc bị trộm. Ứng dụng Line-of-business: Windows Mobile 6 tích hợp sẵn phần mềm Microsoft .NET Compact Framework và Microsoft SQL Server giúp dễ dàng cài đặt các ứng dụng khác trên Windows Mobile.  Chia sẻ Internet: Biến smartphone thành một modem cho PC với một bước “one–click easy” thông qua kết nối Bluetooth và qua dây cáp. Lựa chọn truyền thông VoIP: Giao thức Internet protocol (VoIP) trong WM6 mang đến một khả năng kết nối khác ngoài tính năng phone truyền thống. 6. Giới thiệu về Exchange Server 2003 6.1. Giới thiệu sơ lược Exchange Server là phần mềm của Microsoft chạy trên các máy chủ, cho phép gửi và nhận thư điện tử cũng như các dạng khác của truyền thông thông qua mạng máy tính. Được thiết kế chủ yếu để giao tiếp với Microsoft Outlook nhưng Exchange Server cũng có thể giao tiếp tốt với các phần mềm khác như Outlook Express hay các ứng dụng thư điện tử khác. Exchange Server được thiết kế cho cả các doanh nghiệp lớn và nhỏ với các ưu điểm nổi trội là dễ quản trị, hỗ trợ nhiều tính năng và có độ tin cậy cao. Tin nhắn được gửi từ các thiết bị Client như máy tính cá nhân (PC), máy trạm hay các thiết bị di động như điện thoại di động hay Pocket PC. Các thiết bị Client này kết nối với mạng máy tính tập trung, Server hay các máy Mainframe - nơi lưu trữ các hộp thư. Các Server kết nối với mạng Internet hoặc mạng riêng (Private Network) để nhận thư cho người sử dụng. 6.2. Các tính năng truy cập của Client Exchange Server hỗ trợ các thiết bị di động như Pocket PC hay Smart Phone cho phép ồng bộ hoá các thư mục Inbox, Calendar, Contact và danh sách các công việc Task, qua đó có thể kiểm tra các thư mục cá nhân của mình từ xa thông qua các thiết Các loại Clients hỗ trợ bởi Exchange Server Hình 3: Các loại Clients được hỗ trợ bởi Exchange Server Các chức năng hợp tác của Exchange Server cho phép chia sẻ thông tin một cách nhanh chóng và hiệu quả. Có nhiều tính năng được hỗ trợ bởi Exchange Server cho phép sử dụng phần mềm một cách thoải mái và tiện lợi nhất, các tính năng như đặt chế độ trả lời thư tự động, tham gia vào các phòng hội thảo, tất cả đều hỗ trợ trong phiên bản Exchange Server 2003. Để có thể phát huy một cách tốt nhất các tính năng liên kết, hãy kết hợp Exchange Server với Outlook 2003. 6.3. Những cải tiến của Exchange Server 2003 Trong Exchange Server 2000, account của người dùng (dùng để chạy Setup) được yêu cầu phải có quyền Exchange Full Administrator đúng với cấp độ của tổ chức. Trong Exchange 2003, mặc dù người dùng có Exchange Full Administrator đúng với cấp độ của tổ chức nhưng vẫn phải cài server đầu tiên lên vùng trung tâm (domain), bây giờ bạn có thể cài server khác thêm vào nếu bạn có Exchange Full Administrator tương ứng với cấp độ của nhóm quản lý. Exchange 2003 đã được củng cố phương pháp đồng bộ dữ liệu trên một máy chủ Exchange và một thiết bị client mà người dùng có thể làm việc từ chế độ thư lưu và truy cập vào bản copy hộp thư mới nhất. Ngoài ra, sản phẩm cũng được tăng cường nhiều tính năng khác như cách quản lý email và những thông tin doanh nghiệp. Phần mềm mới cũng cho phép kết nối tới nhiều thiết bị điện toán khác sử dụng Compact HTML, Wireless Application Protocol 2.0 và công nghệ iMode của NTT DoCoMo. Chương trình hỗ trợ kết nối e-mail không dây qua Outlook Mobile Access và hỗ trợ nhiều khả năng khác cho thiết bị di động. - Giao thức sử dụng để liên kết Outlook và Exchange gọi là Mail Application Programming Interface (MAPI), cũng được nâng cấp. Microsoft củng cố cả việc xử lý e-mail bằng cách giảm lượng lưu thông mạng giữa máy khách và máy chủ. Ngoài ra, người dùng còn có thể truy cập máy chủ Exchange bằng việc sử dụng MAPI từ một địa điểm từ xa qua kết nối HTTP bảo mật. Đây có thể sẽ là một giải pháp thay thế cho kết nối mạng riêng ảo. Trong các phiên bản trước, bạn phải cài đặt Microsoft Mobile Information để hỗ trợ các thiết bị Mobile. Bây giờ, Exchange 2003 bao gồm việc xây dựng hỗ trợ cho thiết

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBai viet Pushmai.doc
  • docphuluc.doc