MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài. 1
2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn. 2
. Ý nghĩa khoa học. 2
. Ý nghĩa thực tiễn. 3
3. Mục tiêu nghiên cứu. 3
4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu, mẫu nghiên cứu. . . 3
4.1. Đối tượng nghiên cứu. 3
4.2. Khách thể nghiên cứu. 3
4.3. Phạm vi nghiên cứu. 4
5. Phương pháp nghiên cứu. 4
6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết. 4
6.1. Giả thuyết nghiên cứu. 4
6.1. Khung lý thuyết. 5
PHẦN NỘI DUNG CHÍNH : 7
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI. 7
1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài. 7
1.1. Cơ sở lý luận. 7
1.2. Lý thuyết áp dụng. 7
1.2.1. Lý thuyết về sự biến đổi xã hội. 7
1.2.2. Lý thuyết phân tầng xã hội. 8
2. Các khái niệm công cụ. 9
3. Tổng quan địa bàn nghiên cứu và vấn đề nghiên cứu. 10
3.1. Tổng quan địa bàn nghiên cứu. 10
3.1.1. Xã Ái Quốc 11
3.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu. 12
CHƯƠNG II : KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU. 14
1. Thực trạng về thu nhập của các hộ gia đình xã Ái Quốc. 14
1.1. Thu nhập. 14
1.2. Nghề nghiệp chính đóng góp vào tổng thu nhập của xã Ái Quốc. 15
1.3. Số người sống chung ( Số khẩu ) trong hộ gia đình ở xã Ái Quốc. 27
1.3.1. Mối quan hệ giữa số người sống chung và tổng thu nhập của hộ gia đình ở xã Ái Quốc. 19
1.4. Phân loại tổng thu nhập theo loại hình gia đình và diện tích bình quân hộ ở xã Ái Quốc. 23
1.5. Thu nhập bình quân và diện tích bình quân của các hộ gia đình xã Ái Quốc. 29
2. Các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập của các hộ gia đình xã Ái Quốc. 33
Yếu tố nghề nghiệp. 33
2.1.1 Nghề nghiệp chính của các hộ gia đình xã Ái Quốc. 33
2.1.2 Mối tương quan giữa nghề nghiệp và tổng thu nhập của các hộ gia đình xã Ái Quốc. 35
Yếu tố độ tuổi. 39
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ. 46
1. Kết luận. 46
2. Khuyến nghị. 47
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 60
48 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2177 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu về thu nhập của các hộ gia đình vùng ven khu công nghiệp (Qua khảo sát thực tế tại địa bàn xã Ái Quốc, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an tâm xây dựng cơ sở vật chất trang thiết bị hoàn chỉnh, đội ngũ y bác sĩ đảm bảo theo qui định, có tinh thần trách nhiệm, nhiệt tình trong công tác’’. Đặc biệt là trong lĩnh vực về DSKHHGĐ thì “được tổ chức biên chế cán bộ cộng tác viên có trách nhiệm làm tốt công tác tuyên truyền, tư vấn kiến thức KHHGĐ, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em. Trong năm 2006 tỷ lệ người sinh con thứ 3 giảm 2 so với năm 2005. Tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên còn dưới 1%, y tế xã năm 2006 được huyện đơn giá là đơn vị xuất sắc, duy trì tốt danh hiệu chuẩn y tế xã’’.[12]
1.3.1. Mối quan hệ giữa số người sống chung và tổng thu nhập của hộ gia đình xã Ái Quốc.
Như đã phân tích ở trên, tuy vấn đề về “số người sống chung’’ trong hộ gia đình cũng là một vấn đề rất đáng quan tâm. Nhưng nếu chỉ xét riêng về “số người sống chung’’ thì điều đó chỉ đơn thuần nói lên được phần nào về công tác dân số, KHHGĐ ở địa phương. Điều mà chúng ta quan tâm ở đây đó là ta xem xét mối quan hệ giữa số người sống chung và tổng thu nhập của hộ gia đình để thấy được rằng: giữa những hộ gia đình có số khẩu ít với những hộ gia đình có số khẩu nhiều thì chúng sẽ ảnh hưởng gì và nếu có thì nó ảnh hưởng theo chiều hướng nào, tích cực hay tiêu cực tới thu nhập của các hộ gia đình ở đây? Điều này được thể hiện qua bảng số liệu sau đây:
Bảng 4: Tương quan giữa số người sống chung và tổng thu nhập của các hộ gia đình xã Ái Quốc.
Số người sống chung
Tổng thu nhập
≤ 17000
17001¸28000
28001¸45000
> 45000
Độc thân
27
13
9
6
12,9%
6,4%
4,6%
2,9%
2 ¸ 3 khẩu
35
34
32
26
16,7%
116,7%
16,4%
12,4%
4 ¸ 5 khẩu
129
138
130
136
61,7%
67,6%
66,7%
64,8%
6 khẩu trở lên
18
19
24
42
8,6%
9,3%
12,3%
20,0%
Tổng
209
204
195
210
100%
100%
100%
100%
Theo kết quả phân tích thống kê giữa hai biến số người sống chung (số khẩu) và tổng thu nhập hộ gia đình ta thấy giữa hai biến có mối liên hệ chặt chẽ với nhau (r = 0,179).
Nhìn vào bảng tương quan này ta thấy được là:
Trong tất cả 4 nhóm thu nhập được mã lại từ thấp đến cao, cụ thể là các nhóm thu nhập: dưới 17 triệu đồng/ năm, từ 17¸ 28 triệu, từ 28¸ 45 triệu và từ 45 triệu đồng trở lên thì chiếm số lượng lớn nhất chính là số hộ gia đình nằm trong nhóm thu nhập cao nhất. (từ 45 triệu trở lên ) : gồm 210 hộ gia đình, đứng thứ 2 về số lượng và kém 1 hộ gia đình so với hộ chiếm số lượng nhiều nhất là 209 hộ gia đình nằm trong mức thu nhập dưới và bằng 17 triệu đồng/năm. Đứng thứ 3, là hộ gia đình nằm trong mức thu nhập từ 17 ¸ 28 triệu đồng/năm: Cuối cùng, chiếm số lượng ít nhất là 195 hộ gia đình nằm trong nhóm thu nhập từ 28 ¸ 45 triệu/ đồng/năm.
Trong nhóm thu nhập dưới và bằng 17 triệu đồng/hộ/năm, có tất cả 209 hộ gia đình thì chiếm số lượng và % lớn nhất là những hộ gia đình có 4 ¸ 5 khẩu với 129 hộ và chiếm tỷ lệ 61,7%. Những hộ gia đình có 2 ¸ 3 khẩu đứng thứ 2, chiếm tỷ lệ 16,7% với 35 hộ gia đình trong tổng số. Tiếp theo, đứng thứ 3 là những hộ gia đình độc thân với 27 hộ và chiếm 12,9%. Đứng thứ 4 là 18 hộ gia đình và chiếm tỷ lệ 8,6% là những hộ gia đình có 6 khẩu trở lên.
Có thể thấy được rằng, trong nhóm thu nhập này ( được coi là nhóm thu nhập thấp nhất ) thì chiếm số lượng nhiều nhất là những hộ gia đình có 4 ¸ 5 khẩu. Với số lượng này thì chiếm 1/2 số hộ gia đình trong tổng số, đồng thời nó gấp 7,1 lần số hộ gia đình có 6 khẩu trở lên - đây cũng là số hộ gia đình chiếm số lượng ít nhất trong nhóm thu nhập này.
Còn trong nhóm thu nhập từ 17 ¸ 28 triệu đồng/hộ/năm với tổng số là 204 hộ gia đình thì chiếm số lượng lớn nhất trong tổng số là 138 hộ gia đình và chiếm tỷ lệ 67,6% thuộc về những hộ gia đình có 4 ¸ 5 khẩu. Đứng thứ 2 là những hộ gia đình có 2 ¸ 3 khẩu, chiếm tỷ lệ 16,7% chiếm số lượng lớn thứ 3, đồng thời cũng chiếm tỷ lệ là 9,3% là những hộ gia đình có 6 khẩu trở lên. Và chiếm số lượng cũng như tỷ lệ thấp nhất trong nhóm thu nhập này là những hộ gia đình độc thân, chiếm 6,7%.
Như vậy là cũng giống như trong nhóm thu nhập bằng hoặc dưới 17 triệu đồng/hộ/năm thì ở trong nhóm thu nhập này, chiếm số lượng và tỷ lệ lớn nhất vẫn là những hộ gia đình có 4 ¸ 5 khẩu. Nó cũng chiếm hơn một nửa trong tổng số và gấp những hộ gia đình có từ 6 khẩu trở lên – nhóm chiếm tỷ lệ thấp nhất trong mức thu nhập này là 10,6 lần.
Ở mức thu nhập từ 28 ¸ 45 triệu đồng/hộ/năm thì chiếm tỷ lệ lớn nhất: 66,7% là những hộ gia đình có 4 ¸ 5 khẩu. Đứng thứ 2, chiếm tỷ lệ 16,4% là những hộ gia đình có 2 ¸ 3 khẩu. Đứng thứ 3 là những hộ gia đình có 6 khẩu trở lên, chiếm tỷ lệ là 12,3%. Và đứng thứ 4, chiếm 4,6% là những hộ gia đình độc thân.
Trong nhóm thu nhập này, mức độ chênh lệch giữa nhóm chiếm tỷ lệ nhiều nhất với nhóm chiếm tỷ lệ ít nhất là 14,4 lần. Mức độ chênh lệch trong nhóm thu nhập này cao hơn hẳn so với mức độ chênh lệch ở trong hai nhóm thu nhập trên.
Ở đây có một điểm đáng lưu ý là nếu xét về trật tự số khẩu trong các nhóm thu nhập thì hai vị trí đầu gần như là không thay đổi. Trong cả 3 mức thu nhập thì chiếm số lượng nhiều nhất là những hộ gia đình có 4 ¸ 5 khẩu, đứng thứ 2 là những hộ gia đình có 2 ¸ 3 khẩu. Nhưng có sự hoán đổi về vị trí giữa, hộ gia đình độc thân và hộ gia đình có 6 khẩu trở lên cụ thể là. ở trong nhóm thu nhập bằng hoặc dưới 17 triệu/hộ/năm thì trật tự đó là: đứng thứ 3 là những hộ gia đình độc thân và đứng thứ 4 là những hộ gia đình có 6 khẩu trở lên. Còn ở hai nhóm thu nhập: từ 17 ¸ 28 triệu đồng và từ 28 ¸ 45 triệu đồng/hộ/năm thì đứng thứ 3 lại là những hộ gia đình có từ 6 khẩu trở lên và đứng thứ 4 là những hộ gia đình độc thân.
Cuối cùng, ở mức thu nhập từ 45 triệu trở lên ( mức thu nhập cao nhất ở đây ) lại có một sự thay đổi rất đáng kể. Tuy vị trí đứng đầu thì vẫn là những hộ gia đình có số khẩu từ 4 ¸ 5 khẩu, chiếm 64,8%. Vị trí này vẫn không thay đổi ở trong 3 mức thu nhập trước. Nhưng ở vị trí thứ 2 lần này không phải là những gia đình có 2 ¸ 3 khẩu nữa mà là những hộ gia đình có từ 6 khẩu trở lên, chiếm 20%. Vị trí thứ 3 chính là những hộ gia đình có 2 ¸ 3 khẩu, chiếm 12,4%. Và đứng cuối cùng thì vẫn là những hộ gia đình độc thân, chiếm 2,9%. ở trong nhóm thu nhập này, vị trí đầu và vị trí cuối không thay đổi mà là sự thay đổi, hoán đổi vị trí thứ 2 và thứ 3.
Ta có thể thấy được rằng, trong tất cả các nhóm thu nhập thì nhóm hộ gia đình có 4 ¸ 5 khẩu luôn là nhóm tỷ lệ cao nhất. Còn chiếm tỷ lệ thấp nhất thì luôn là những hộ gia đình độc thân. Qua đó chúng ta có thể thấy được rằng giữa thu nhập và số khẩu trong gia đình có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Những hộ gia đình độc thân luôn chiếm tỷ lệ thấp trong hầu hết các nhóm thu nhập, mà đặc biệt trong các nhóm thu nhập cao. Điều này có thể lý giải là do thiếu lao động nên không làm ra được nhiều của cải cho tích luỹ. Đồng thời, những hộ gia đình có số khẩu 4 ¸ 5 khẩu, đây được coi là vừa đủ cho một gia đình: vừa đủ cả về số lao động lẫn vừa đủ về chỉ tiêu và tích luỹ. Bởi thế mà những hộ gia đình có 4 ¸ 5 khẩu cũng là những hộ có thu nhập cao nhất. Mà cũng bởi thế mà trong chính sách phát triển dân số của Quốc Gia, cũng chỉ khuyến khích mỗi gia đình chỉ nên sinh 1 ¸ 2 con.
1.4. Phân loại tổng thu nhập theo nhóm loại hình gia đình và diện tích bình quân hộ.
Ở phân tích trên ta thấy đước mối tương quan giữa số người sống chung với tổng thu nhập của hộ gia đình. Vậy thì để góp phần làm sáng tỏ hơn nữa về tổng thu nhập của các hộ gia đình ở đây bằng việc thông qua xem xét mối liên hệ giữa tổng thu nhập, số người sống chung và diện tích bình quan đất. Liệu chúng có mối liên hệ với nhau như thế nào, chặt chẽ hay lỏng lẻo? Chúng ta cùng xem xét bảng số liệu sau:
Bảng 6: phân loại tổng thu nhập theo nhóm loại hình gia đình và diện tích bình quân hộ ở xã Ái Quốc
Số khẩu
Tổng
Độc thân
2-3 khẩu
4-5 khẩu
Từ 6 trở lên
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
Số lượng
%
Tổng thu nhập
£ 17000
S đất BQ hộ
£ 360
3
6,3
7
14,6
33
68,8
5
10,4
48
100
360¸1000
14
10
21
15,0
92
65,7
13
9,3
140
100
> 1000
10
52,6
6
31,6
3
15,8
6
12,8
19
100
17001¸28000
£ 360
2
4,3
8
17,0
31
66,0
6
12,8
47
100
360¸1000
5
3,6
17
12,3
103
74,6
13
9,4
138
100
>1000
6
35,3
7
41,2
4
23,5
17
100
28001¸45000
S đất BQ hộ
£ 360
6
13,6
32
72,7
6
13,6
44
100
360¸1000
5
3,6
23
16,7
92
66,7
18
13,0
138
100
>1000
4
40,0
3
30,0
3
30,0
10
100
>45000
S đất BQ hộ
£ 360
4
7,1
38
67,9
14
25,0
56
100
360 ¸1000
1
8
15
11,6
88
68,2
25
19,4
129
100
>1000
5
29,4
5
29,4
6
35,3
1
5,9
17
100
55
6,8
122
15,2
525
65,4
101
12,6
803
100
Nhìn vào bảng phân loại trên cho ta biết tương quan giữa tổng thu nhập đã được nhóm lại bao gồm: mức bằng hoặc dưới 17 triệu đồng/ hộ/ năm, từ 17 triệu ¸ 28 triệu đồng/hộ/năm, từ 28 triệu ¸ 45 triệu đồng/hộ/năm và từ 45 triệu đồng trở lên với diện tích đất bình quân hộ được nhóm lại gồm 3 nhóm: bằng hoặc ít hơn 360 mét, từ 360 ¸ 1000 mét và 1000 mét trở lên và số người sống chung được nhóm lại thành 4 nhóm đó là: hộ gia đình độc thân, hộ gia đình có 2 ¸ 3 khẩu, hộ gia đình có 4 ¸ 5 khẩu và hộ gia đình có từ 6 khẩu trở lên. Dựa vào đây ta có thể phân loại tổng thu nhập theo nhóm loại hình gia đình và diện tích bình quân hộ ở xã Ái Quốc được thể hiện như sau:
+ Trong nhóm tổng thu nhập của hộ gia đình đạt được ít hơn hoặc bằng 17 triệu đồng/hộ/năm tương ứng với diện tích đất bình quân hộ và số khẩu lần lượt:
Với diện tích bình quân hộ ít hơn 360 mét thì chiếm tỷ lệ cao nhất là những hộ gia đình có 4 ¸ 5 khẩu, chiếm 68,8%. Tiếp theo, chiếm 14,6% là những hộ gia đình có 2 ¸ 3 khẩu. Chiếm tỷ lệ 10,4% và đứng thứ 3 là những hộ gia đình có 6 khẩu trở lên. Đứng thứ 4, chiếm 6,3% trong tổng số là những hộ gia đình độc thân.
Có thể thấy rằng ở nhóm thu nhập thấp nhất và có diện tích bình quân hộ thấp nhất mà chiếm tỷ lệ nhiều nhất là những hộ gia đình có 4 ¸ 5 khẩu và thấp nhất là những hộ gia đình độc thân.
Với diện tích bình quân hộ đạt từ 360 ¸ 1000 mét, trong tổng số 140 hộ thì chiếm số lượng 92 hộ tương đương tỷ lệ 65,7% là những hộ có 4 ¸ 5 khẩu, cũng là hộ chiếm tỷ lệ cao nhất ở trong nhóm diên tích bình quân này. Chiếm tỷ lệ 15% và đứng thứ 2 là những hộ có 2 ¸ 3 khẩu. Vị trí thứ 3 là của những hộ gia đình độc thân, chiếm 10%. Cuối cùng là những hộ gia đình có 6 khẩu trở lên, chiếm 9,3%.
Có thể thấy rằng có sự chênh lệch rất lớn giữa nhóm gia đình chiếm tỷ lệ cao nhất và những gia đình chiếm tỷ lệ thấp nhất, gấp 7,1 lần.
Với diên tích bình quân hộ đạt được từ 1000 mét trở lên, chiếm tỷ lệ cao nhất 52,6% trong tổng số là những hộ độc thân. Đứng thứ 2 và chỉ chiếm có 31,6% là những hộ gia đình có 2 ¸ 3 khẩu. Cuối cùng, đứng thứ 3, chiếm 15,8% là những hộ gia đình có 4 ¸ 5 khẩu. ở đây, những hộ gia đình từ 6 khẩu trở lên không chiếm 1% nào. Điều đáng nói là tưởng như những hộ gia đình có số khẩu lớn phải tỷ lệ thuận với diện tích đất bình quân. Nhưng ở đây những hộ gia đình có số khẩu nhiều ( mà cụ thể ở đây là những gia đình có từ 6 khẩu trở lên ) không chiếm % nào trong khi những hộ gia đình độc thân lại là những hộ có diện tích bình quân chiếm nhiều nhất.
+ Tiếp theo, trong nhóm thu nhập từ 17001 ¸ 28000/hộ/năm thì với số diện tích đất bình quân và số khẩu tương đương là :
Với diện tích đất bình quân đạt ít hơn 360 mét thì : chiếm tỷ lệ nhiều nhất, 66% là những hộ gia đình có 4 ¸ 5 khẩu, tiếp theo là những hộ gia đình có 2 ¸ 3 khẩu – chiếm 17%. Thứ 3 là những hộ gia đình có từ 6 khẩu trở lên, chiếm 12,8%. Đứng thứ 4 là những hộ gia đình độc thân, chiếm 4,3%. Với diện tích bình quân được coi là thấp này thì chiếm nhiều nhất vẫn là những hộ gia đình có 4 ¸ 5 khẩu và chiếm ít nhất là những hộ gia đình độc thân.
Diện tích bình quân ở khoảng từ 360 ¸ 1000 mét, chiếm tỷ lệ cao nhất là những hộ gia đình có 4 ¸ 5 khẩu, chiếm 74,6%. Dường như ở đây có sự chênh lệch quá lớn trong nhóm thu nhập này về diện tích bình quân của từng số khẩu trong gia đình. Bởi lần lượt 3 vị trí còn lại thuộc về những hộ gia đình 2 ¸ 3 khẩu, hộ gia đình từ 6 khẩu trở lên và số những hộ gia đình độc thân với tỷ lệ % tương ứng là: 12,3%, 9,4% và 3,6%. Khoảng cách giữa những hộ gia đình chiếm tỷ lệ nhiều nhất với 3 vị trí còn lại là rất lớn. Sự chênh lệch ấy lần lượt là: 6,1 lần, 7,9 lần và 20,5 lần.
Diện tích bình quân từ 1000 mét trở lên thì trật tự lại có sự thay đổi như sau. Đứng đầu và chiếm tỷ lệ 41,2% là những hộ gia đình có 2 ¸ 3 khẩu, thứ 2 đó là những hộ gia đình độc thân, chiếm 35,3%. Và đứng cuối cùng, chiếm 23,5% là những hộ gia đình có 4 ¸ 5 khẩu. Tuy đứng ở vị trí đầu tiên, song sự chênh lệch về mức độ giữa nhóm dẫn đầu với 2 nhóm còn lại cũng không thật là quá lớn, sự chênh lệch ấy chỉ lần lượt gấp: 1,2 lần và 1,8 lần.
+ Nhóm thu nhập từ 28001 ¸ 45000 đồng/hộ/năm tương đương lần lượt với nhóm diện tích đất bình quân và số khẩu được thể hiện cụ thể như sau:
Với diện tích bình quân từ 360 ¸ 1000 mét, chiếm 66,7% - đứng thứ nhất là những hộ gia đình có 4 ¸ 5 khẩu. Đứng thứ 2, chiếm 16,7% là những hộ gia đình có từ 2 ¸ 3 khẩu. Tiếp theo, đứng thứ 3 là những hộ gia đình có từ 6 khẩu trở lên, chiếm 13%. Và đứng thứ 4, chiếm tỷ lệ không đáng kể: 3,6% là những hộ gia đình độc thân. ở đây, sự chênh lệch giữa nhóm đứng đầu và 3 nhóm còn lại cũng là khá lớn khi nó gấp lần lượt là 4 lần, 5,1 lần và cuối cùng là 18,4 lần.
Diện tích bình quân từ 1000 mét trở lên: chiếm tỷ lệ nhiều nhất 40% là những hộ gia đình độc thân. Còn lại cùng chiếm 30% là những hộ gia đình có từ 2 ¸ 3 khẩu và những hộ gia đình có từ 4 ¸ 5 khẩu. Sự chênh lệnh về mức độ giữa các nhóm ở đây là không đáng kể lắm.
+ Cuối cùng, ở mức tổng thu nhập từ 45 triệu đồng trở lên/hộ/năm được thể hiện tương đương với diện tích đất bình quân hộ và số khẩu diễn ra là:
Với diện tích bình quân dưới 360 mét, chiếm tỷ lệ nhiều nhất 67,9% là những hộ gia đình có từ 4 ¸ 5 khẩu. Tiếp theo, chiếm 25% là những gia đình có 6 khẩu trở lên. Và cuối cùng, đứng thứ 3, chiếm 7,1% là những gia đình có từ 2 ¸ 3 khẩu.
Diện tích bình quân từ 360 ¸ 1000 mét, chiếm tỷ lệ cao nhất, 68,2% là những hộ gia đình có từ 4 ¸ 5 khẩu, chiếm 19,4% là những gia đình có từ 6 khẩu trở lên. Đứng thứ 3, chiếm 11,6% là những hộ gia đình có từ 2 ¸ 3 khẩu. Đứng thứ 4, chiếm 8% là những hộ gia đình độc thân. Sự chênh lệch về mức độ giữa nhóm đứng đầu và 3 nhóm còn lại lần lượt gấp là: 3,5 lần, 5,9 lần và 8,5 lần.
Và với diện tích bình quân từ 1000 mét trở lên thì chiếm tỷ lệ cao nhất vẫn là những hộ gia đình có từ 4 ¸ 5 khẩu, chiếm 65,4%. Cùng chiếm tỷ lệ 29,4% là những hộ gia đình độc thân và những gia đình có từ 2 ¸ 3 khẩu. Đứng vị trí cuối cùng, chiếm 5,9% là những hộ gia đình có từ 6 khẩu trở lên.
ở trên qua phân tích bảng số liệu thấy nổi lên rất nhiều vấn đề cần quan tâm. Ta thấy rằng: ở các nhóm thu nhập dưới 17 triệu, từ 17 ¸ 28 triệu và từ 28 triệu ¸ 45 triệu thì trong đó ở những mức có diện tích bình quân được xem là thấp và trung bình ( dưới 360 mét và từ 360 ¸ 1000 mét ) thì chiếm tỷ lệ cao nhất hầu hết là những hộ gia đình có từ 4 ¸ 5 khẩu. Và chiếm tỷ lệ thấp nhất cũng luôn là những hộ gia đình độc thân. Còn nếu xem xét ở mức có diện tích bình quân cao ( từ 1000 mét trở lên ) thì những hộ gia đình độc thân luôn luôn là những hộ chiếm tỷ lệ cao nhất. Thấp nhất là những hộ gia đình có từ 6 khẩu trở lên, thậm chí còn không hề chiếm một đơn vị % nào trong tổng số.
Nhưng ở mức thu nhập từ 45 triệu trở lên ( được xem là mức thu nhập cao nhất ở đây ) thì quy luật này không còn lặp lại như ở trong các nhóm thu nhập trước mà tôi vừa mới nêu ra. ở đây, chiếm tỷ lệ cao nhất trong nhóm thu nhập cao nhất với diện tích cũng cao nhất không phải là những hộ gia đình có từ 4 ¸ 5 khẩu. Những hộ gia đình này chiếm tỷ lệ phần trăm rất lớn trong tổng số, thậm chí là lớn hơn rất nhiều lần so với nhóm khẩu còn lại. Và trong nhóm thu nhập cao với diện tích đất bình quân cao này cũng có sự xuất hiện trở lại của những hộ gia đình có từ 6 khẩu trở lên. Còn những hộ gia đình độc thân chỉ còn chiếm một phần trăm vừa phải chứ không quá lớn như trong các nhóm thu nhập khác nữa.
Có sự ảnh hưởng, tác động qua lại lẫn nhau và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau ở cả 3 yếu tố: tổng thu nhập, diện tích bình quân hộ và số khẩu. Như ta đã thấy ở trên thu nhập thay đổi kéo theo diện tích biến đổi và ngược lại. Cũng như số khẩu khác nhau cũng ảnh hưởng đến thu nhập sẽ khác nhau. Đồng thời số khẩu thay đổi cũng làm thay đổi theo về diện tích bình quân hộ. Chúng ta xem xét nhưng đồng thời phải dựa vào số khẩu và diện tích bình quân để phân loại được tổng thu nhập của các hộ gia đình.
1.5. Thu nhập bình quân và diện tích bình quân của các hộ gia đình xã Ái Quốc.
Đây là yếu tố cuối cùng mà tôi muốn đề cập. Bởi vì thu nhập bình quân góp phần tạo nên tổng thu nhập và ngược lại, tổng thu nhập chia ra theo năm, hay theo tháng tạo ra thu nhập bình quân. Cho nên thu nhập bình quân và tổng thu nhập gần như được nhận định là có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau: thu nhập bình quân tăng thì tổng thu nhập cũng sẽ tăng và thu nhập bình quân giảm thì thì tổng thu nhập cũng lập tức giảm. Hoặc ngược lại, tổng thu nhập tăng thì chia ra thu nhập bình quân cũng sẽ tăng. Nên thu nhập bình quân phản ảnh một phần của tổng thu nhập. Nếu nhìn vào thu nhập bình quân của một hộ gia đình nào đó cao thì đương nhiên, không cần giải thích gì thêm mà ai cũng tự hiểu rằng chắc chắn tổng thu nhập của gia đình đó sẽ phải là rất cao. ở đây ta xét mối tương quan giữa thu nhập bình quân và diện tích đất bình quân để thấy hai biến này có sự ảnh hưởng phụ thuộc vào lẫn nhau hay không ? Mức độ phụ thuộc của chung đến đâu. Bởi nếu tổng thu nhập bình quân phụ thuộc và diện tích đất bình quân thì chắc chắn rằng tổng thu nhập cũng sẽ phải phụ thuộc vào yếu tố diện tích đất bình quân.
Thu nhập bình quân với mức ý nghĩa = 2,70(0,49774) và diện tích bình quân với mức ý nghĩa = 1,83(0,54281), sau khi tiến hành kiểm định Khi bình phương thu được kết quả là Asymp.Sig(2-Side)=0,01 ta có bảng số liệu sau. Bảng 7 cung cấp thông tin về tương quan giữa thu nhập bình quân của hộ gia đình ở xã Ái Quốc.
Bảng 6: Tương quan giữa thu nhập bình quân và diện tích bình quân của các hộ gia đình xã Ái Quốc.
Diện tích bình quân hộ
< 360
360 ¸ 1000
> 1000
Thu nhập bình quân
< 250
7
7
1
3,6%
1,3%
1,6%
250 ¸ 1000
47
155
7
24,1%
28,4%
11,1%
> 1000
141
383
55
72,3%
70,3%
87,3%
Tổng
195
545
63
100%
100%
100%
Trong thu nhập bình quân được chia khoảng ra làm 3 mức thu: dưới 250 nghìn đồng/hộ/tháng, từ 250 ¸ 1 triệu đồng/hộ/tháng và từ 1 triệu đồng trở lên /hộ/tháng. Với diện tích bình quân hộ cũng được chia ra làm 3 khoảng tương ứng là: dưới 360 mét/hộ, từ 360 ¸ 1000 mét/hộ, từ 1000 mét trở lên/hộ.
Thì ở đây, trong nhóm thu nhập bình quân dưới 250 nghìn đồng/hộ/tháng, có tất cả 15 hộ gia đình. Trong đó có 7 hộ gia đình nằm trong nhóm những hộ gia đình có diện tích bình quân là dưới 360 mét. Cũng bằng với số lượng ấy là những hộ gia đình có diện tích bình quân từ 1000 mét trở lên. ở trong nhóm thu nhập này có thể thấy là những hộ gia đình có diện tích bình quân dưới 360 mét bằng với số lượng những hộ gia đình có diện tích bình quân từ 360 ¸ 1000 mét. Còn chỉ có duy nhất một hộ gia đình nằm trong nhóm có diện tích bình quân từ 1000 mét trở lên, chiếm tỷ lệ không đáng kể. Điều này có thể thấy ngay được rằng, những hộ trong nhóm thu nhập này phần lớn đều là những hộ gia đình có diện tích bình quân thấp và trung bình. Điều này hoàn toàn hợp lý. Bởi ở nông thôn chủ yếu thu nhập của các hộ gia đình được bắt nguồn từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Mà đất chính là tư liệu quan trọng nhất trong sản xuất nông nghiệp. Bởi vậy, nếu diện tích đất nông nghiệp lớn đồng nghĩa với việc sẽ phải đầu tư rất lớn vật chất và công sức. Kết quả cũng sẽ thu được khoản thu nhập cao, đủ để lo cho cuộc sống hàng ngày của các hộ gia đình và đủ để đầu tư ngược trở lại cho các hoạt động sản xuất nông nghiệp. Còn ngược lại, với một diện tích đất ít, lại không có quy hoạch lâu dài về cây trồng theo mùa vụ, với sản lượng và năng suất cao, không được đầu tư hợp lý cho sản xuất thì tất yếu thu nhập thu lại từ chính trên diện tích đất này là không cao. Thậm chí nhiều khi phải chi phí cho các khoản như giống, thuỷ lợi phí, thuế đất... có lẽ còn “ thất thu’’.
Trong nhóm thu nhập bình quân 250 ¸ 1 triệu đồng/hộ/tháng thì chiếm số lượng cao nhất 155 hộ là những hộ có diện tích đất bình quân từ 360 ¸ 1000 mét. Chiếm số lượng 47 hộ và đứng thứ 2 là những hộ có diện tích đất bình quân 360 mét. Và chiếm số lượng 7 hộ là những hộ gia đình có diện tích đất bình quân từ trên 1000 mét trở lên.
Có thể thấy là nhóm thu nhập bình quân đứng vào hàng trung bình như thế này thì tương ứng với nó cũng như là những hộ gia đình có thu nhập bình quân ở mức độ trung bình. Và đây cũng chính là nhóm chiếm số lượng nhiều nhất. Nhưng cũng thấy một điều rằng, có tới 47 hộ, số hộ có diện tích bình quân vào loại trung bình nhưng vẫn ở trong nhóm những hộ có thu nhập thấp nhất ở đây. Đó cũng không phải là một số liệu không đáng để chúng ta quan tâm. Và ngược lại, cũng có đến 7 hộ gia đình có thu nhập bình quân cao nhất ở đây song lại chỉ sở hữu về diện tích đất bình quân vào loại trung bình. Với những hộ gia đình này thì diện tích đất vừa phải nhưng nếu biết đầu tư, tính toán thì vần có thu nhập bình quân cao.
Cuối cùng trong nhóm thu nhập bình quân từ 1 triệu đồng trở lên/hộ/tháng thì ta thấy rằng, đây được xem là nhóm có thu nhập bình quân cao nhất, chiếm số lượng cao nhất trong nhóm thu nhập này là những hộ gia đình có diện tích bình quân đạt 360 ¸ 1000 mét, với số lượng là 383 hộ gia đình. Chiếm số lượng 141 hộ, đứng thứ 2 là những gia đình có diện tích bình quân dưới 360 mét. Đứng cuối cùng là những hộ gia đình có diện tích bình quân trên 1000 mét. Tuy những hộ này chiếm tỷ lệ % là 87,3%. Nhưng đây chỉ là số liệu % được quy ra trong tổng 100% của những hộ có diện tích bình quân từ 1000 mét trở lên. Còn số liệu thực thì những hộ gia đình này chỉ có số lượng là 55 hộ mà thôi.
Tính theo diện tích bình quân hộ thì: với nhóm diện tích bình quân hộ dưới 360 mét có 195 hộ gia đình. Trong đó, chiếm tỷ lệ lớn nhất là những hộ gia đình có thu nhập từ 1 triệu đồng trở lên/hộ/tháng. Và chiếm 3,6% là những hộ gia đình có thu nhập bình quân dưới 250 đồng/hộ/tháng.
Còn trong nhóm diện tích bình quân hộ từ 360 ¸ 1000 mét có tổng cộng 545 hộ thì chiếm tỷ lệ cao nhất là 70,3% - những hộ có thu nhập bình quân đạt được từ 1 triệu đồng trở lên. Đứng thứ 2 là những hộ gia đình có thu nhập bình quân từ 250 ¸ 1 triệu, chiếm tỷ lệ là 28,4 %. Cuối cùng, chiếm 1,3% là những hộ gia đình có thu nhập bình quân dưới 250 nghìn đồng.
Và với nhóm từ 1000 mét trở lên, có 63 hộ. Trong đó, chiếm tỷ lệ lớn nhất là những hộ gia đình có thu nhập bình quân 1 triệu đồng trở lên chiếm 87,3%. Chiếm gần 2/3 trong tổng số. Chiếm 11,1% là những hộ gia đình có thu nhập bình quân từ 250 ¸ 1 triệu đồng. Và chỉ chiếm 1,6% là những hộ gia đình có thu nhập bình quân dưới 250 nghìn đồng/hộ/tháng.
Qua phân tích theo thu nhập bình quân hay diện tích bình quân thì cũng đưa ra một kết quả chung đó là giữa thu nhập bình quân và diện tích bình quân có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Bởi có thể thấy được rằng hầu hết các trường hợp nghiên cứu đều cho thấy với những hộ gia đình có thu nhập bình quân cao đồng nghĩa với việc họ có diện tích bình quân cao và ngược lại những hộ gia đình có diện tích bình quân thấp thì họ có thu nhập bình quân thấp. Cũng không loại trừ có một vài trường hợp: có diện tích bình quân cao trong khi thu nhập bình quân lại thấp và có diên tích bình quân thấp nhưng lại có thu thu nhập bình quân cao. Những trường hợp này vẫn có nhưng nó không nhiều và không mang tính đại diện cao. Nhìn chung, chúng ta thấy rằng thu nhập bình quân và diện tích bình quân có mối liên hệ chặt chẽ, có tác động qua lại thậm chí là tác động rất mạnh, tượng hộ lẫn nhau. Để nâng cao được thu nhập bình quân và tiến tới quân bình lại diện tích bình quân đang là những vấn đề cấp bách và lâu dài đặt ra.
2. Các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập của các hộ gia đình xã Ái Quốc.
Thu nhập như đã định nghĩa ở trên thì: đó là việc nhân được tiền bạc, của cải vật chất từ một hoạt động nào đó hay còn có các khoản thu nhập trong một khoảng thời gian nhất định tính theo tháng, năm. Thu nhập được tính từ rất nhiều nguồn thu khác nhau, bởi vậy mà các yếu tố được xem là có ảnh hưởng đến thu nhập là rất lớn. Có những yếu tố tác động trực tiếp và cũng có những yếu tố tác động gián tiếp, khác nhau. Trong phạm vi bài viết này tôi chỉ xin đưa ra 3 yếu tố mà theo tôi đó là những yếu tố chính làm ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập của các hộ gia đình ở xã Ái Quốc: nghề nghiệp, độ tuổi.
2.1. Yếu tố nghề nghiệp.
2.1.1. Nghề nghiệp chính của các hộ gia đình xã Ái Quốc.
Bảng số liệu phản ánh về những nghề nghiệp chính hiện nay của các hộ gia đình ở xã Ái Quốc để xem đâu là nghề nghiệp có số lượng hộ gia đình tham gia nhiều nhất, đâu là những nghề nghiệp ít được làm nhất.
Bảng 7. Nghề nghiệp chính của các hộ gia đình xã Ái Quốc.
Nghề nghiệp chính
Số lượng hộ gia đình
Tỷ lệ ( % )
Thuần nông
150
18,3%
Hỗn hợp
460
56,2%
P
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- XHH01 (1).doc