Đề tài Tìm hiểu về triết học của Cantơ

MỤC LỤC

 

 

A. Lời nói đầu:

1. Lý do chọn đề tài

2. Tài liệu tham khảo

B. Nội dung

I. Khái quát về tiền đề ra đời và đặc điểm của triết học cổ điển Đức.

1.1. Tiền đề xuất hiện triết học cổ điển Đức.

1.2. Đặc điểm của triết học cổ điển Đức.

II. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của I.kant.

2.1. Thời kỳ tiền phê phán và những tư tưởng triết học khoa học tự nhiên.

2.2. Thời kỳ phê phán và những quan điểm triết học cơ bản.

2.2.1. Bước ngoặt trong quan điểm triết học và thế giới quan.

2.2.2. Bản chất, nhiệm vụ, chức năng của triết học

III. Nội dung cơ bản của triết học cantơ

3.1. Triết học nhận thức:

3.1.1. Thuyết hai thế giới và quan niệm về nhận thức.

3.1.1.1. Thuyết hai thế giới:

3.1.1.2. Quan niệm về nhận thức.Kinh nghiệm và tiên nghiệm.

3.1.2 Học thuyết về tri thức

3.1.3 Trực giác cảm tính. Khả năng phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong

toán học.

3.1.4 Giác tính phân tích (hay phân tích tiên nghiệm). Khả năng nhận thức

của khoa học tự nhiên lý thuyết.

3.1.5. Lý tính (hay biện chứng tiên nghiệm). Về khả năng của siêu hình học.

3.2 Triết học thực tiễn.

3.2.1 Đạo đức học của Cantơ.

3.2.2. Quan niệm về lịch sử, xã hội, pháp quyền.

3.2.3. Mỹ học và quan điểm triết học về con người và tương lai loài người

C. Kết luận.

 

doc47 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6858 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu về triết học của Cantơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iễn’’ theo Cantơ, về cơ bản độc lập với quá trình nhận thức của con người. Bản thân thực tiễn cũng được Cantơ hiểu theo hiều nghĩa. Theo nghĩa hẹp, đó là toàn bộ các hoạt động chính trị, pháp quyền, văn hoá của con người. Mặc dầu thiếu xót của Cantơ trong lĩnh vực này là ở chỗ, hoạt động thực tiễn sản xuất vật chất hầu như chưa được ông quan tâm. 3.2.1 Đạo đức học của Cantơ. Xuất phát từ tư tưởng khẳng định sự độc lập của nhân cách đạo đức với học thức và giáo dục của Rutxo, Cantơ cho rằng, các nguyên lý đạo đức là độc lập với mọi lĩnh vực hoạt động khác của con nguời. Nếu trong triết học lý thuyết, cảm giác là nguồn gốc duy nhất của tri thức, của giác tính với các phạm trù và quy luật của hiện tượng luận, thì ở đây, lý tính là nguồn gốc duy nhất sinh ra các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức. Trong lĩnh vực này, “ các nguyên lý cảm tính nói chung không thích hợp để có thể từ đó người ta xây dựng nên các quy luật đạo đức ’’. Nguyên lý đạo đức cơ bản của nhà sáng lập ra triết học cổ điển Đức là làm theo yêu cầu của lý trí, cái mà Cantơ gọi là “ mệnh lệnh tuyệt đối ’’. Mệnh lệnh tuyệt đối đòi hỏi người ta phải hành động như thế nào đó để những hành vicủa mình phù hợp với một pháp chế – phổ biến : Mỗi người hãy hành động tới mức tối đa sao cho điều đó được đưa vào cơ sở pháp chế phổ biến’’. Theo Cantơ, chỉ có hành động nào của con người phù hợp với mệnh lệnh tuyệt đối nói trên mới được coi là hành động có đạo đức. Cụ thể,một mệnh lệnh tuyệt đối đòi hỏi hoạt động của con người phải tuân theo các quy tắc sau: Mỗi ngưòi đều có quyền và cần phải hành động theo điều kiện và ý muốn sao cho ai cũng lam được như thế. Mỗi người đều có quyền và cần cho phép người khác cũng có được quyền như thế, đồng thời tạo điều kiện để họ thực hiện được quyền đó. Mỗi người điều có quyền và cần phải ngăn chặn những người khác hành động trái với mệnh lệnh tuyệt đối trong khả năng có thể làm được. Phạm trù trung tâm của đạo đức học của Cantơ là Tự do. Hai mạt mâu thuẫn trong con người của đạo đức theo quan niệm của Rútxô được Cantơ giải quyết bằng cách ông chuyển cái đạo đức trong tình cảm, lương tâm thành mệnh lệnh của lý trí. Cái lý trí mà ông hiểu là có sức mạnh từ bên ngoài. Thực chât, sự vươn tới đạo đức của cpn người đối với Cantơ chính là khát vọng vươn tới Tự do – hiểu theo con người vươn tới các ý niệm phổ quát và tất yếu cũng như theo nghĩa con người vươn tới lý tưởng cao đẹp của mình. Ngay từ cuối thời kỳ Tiền phê phán, Cantơ đã hình thành tư tưởng chia lý tính ra những thành tố khác nhau, tư đó hình thành các bộ phận khác nhau trong triết học. Bất kỳ một triết học nào theo ông cũng hoặc là triết học lý thuyết hoặc là triết học thực tiễn. Triết học lý thuyết là ly luận về nhận thức và từ đó tim ra nguyên tắc nhận thức. Triết học thực tiễn là lý luận về phẩm hạnh và tim ra nguyên tắc vươn tới phẩm hạnh – sự lựa chọn Tự do. Sự khác nhau giữa hai loại triết học đó là do ở đối tượng của chúng. Đối tượng của triết học lý thuyết chủ yếu là thế giới hiện tượng, của triết học thực tiễn là hành vi tự do và phẩm hạnh tự do – vươn tới vật tự nó. Tự do như vậy có thể hiểu theo ba cấp độ: 1. là khả năng tiên nghiệm đặc biệt cho phép giới tính hoạt động độc lập đối với các quy luật tất yếu của tự nhiên trong lĩnh vực hiện luận. 2. Là cái tồn tại một cách tương đối trong lĩnh vực hiện tượng luận, nơi ma mọi cái điều diễn ra một cách tất yếu. 3. Tự do với tư cách là cái thuộc lĩnh vực vật tự nó. Nếu trong lĩnh vực hiện tượng luận, tự do chỉ là tương đối thì trong lĩnh vực vật tự nó tự do là tuyệt đối. Tóm lại, đạo đức học của Cantơ tuy có nhiều điểm duy tâm, không mang vì tính phi lịch sử phi giai cấp cũng như thiếu cơ sở thực nghiệm nhưng nó chữa đựng nhiều tang nhân đạo sâu sắc. Đối lập với những quan niệm ích kỷ, thực dụng, hẹp hòi, nó là sự kết tinh những giá trị đạo đức chugcủa loài người trong lịch sử, đồng thời thể hiện những khát vọng của giai cấp tư sản ở Đức cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX nhằm giải phóng con người khỏi gông cùm của chế độ phong kiến, xây dựng một xã hội mới, đem lại tự do và hạnh phúc cho loài người. 3.2.2. Quan niệm về lịch sử, xã hội, pháp quyền. Các lĩnh vực lịch sử, xã hội pháp quyền của con người được Cantơ coi lĩnh vực đạo đức học ứng dụng ; vì theo ông, con người vơi tư cách là chủ thể đạo đức tích cực được thể hiện trong lĩnh vực đó. Các quan niệm về lịch sử, xã hôi, pháp quyền của Cantơ, một mặt có ý nghĩa triết học và xã hội to lớn, mặt khác nó mang tinh hai mặt và mâu thuẫn. Chịu ảnh hưởng của các nhà cách mạng tư sả pháp, Cantơ cụ thể hoá mệnh lệnh tuyệt đối trong đạo đức học thành theo yêu cầu chung ở mọi lĩnh vực thực tiễn: chính tri, xã hôi. Mỗi người hãy hành đông sao cho tự do của bạn phải tồn tại cùng với tự do của tất cả mọi người. Quan niệm về lịch sử, xã hội:Lịch sử, theo Cantơ là phương thức tồn tại của loài người mà cụ thể là của từng cá nhân như một chủ thể. lịch sử chính vì vậy tập trung cao ở lịch sử xã hội. Một mặt, lịch sử là quá trình mà ở đó, bằng hoạt động của chính mình, con người ngay càng phát triển bản chấtvà khả năng của mình ; mặt khác, đây là lĩnh vực để con người thể hiện mục đích và lý tang đạo đức. Cho nên, tiến trình lịch sử nhân loại là sự tiếp tục cho quá trình phát triển của lịch sử tự nhiên, nó diễn ra theo hướngngày càng tiến bộ và hoàn thiện, nó gạt bỏ dần những cản trở và đi ngược lại nó. Cách mạng tư sản pháp là môt bằng chứng điển hình về điều đó : Nó tiêu diệt ché độ chuyên chế bất công mở đường cho xã hội tiến lên một bước mới. Quan niệm về nhà nước, pháp quyền: Theo Cantơ, nhà nước là công cụ liên kết mọi thành viên của nó vào khuôn khổ pháp luật, nhằm giám sát và bảo đảm sự tự do và bình đẳng cho mọi công dân. Sự hình thành nhà nước một mặt là do khế ước mặt khác đó là sự hình thành có tính tất yếu, do yêu cầu xã hội yêu cầu – con người đòi hỏi. Theo Cantơ nói đến nhà nước là nói đến nhà nước pháp quyền nhân dân tập hợp lại để thực hiện tự do và bình đẳng Cantơ con cho rằng: Chế độ cộg hoà là chế độ phù hợp nhất với nhu cầu phát triể của xã hội, nhằm mục đích vì hạnh phúc con người Quan niệm về quyền sở hữu và bình đẳng: Phát triển quan điểm tư sản về xã hội, Cantơ bảo vệ chế độ tư hữu và cố gắng củng cố nó bằng những lập luận theo kiểu tư sản : Sự tồn tại của xã hội tư sản là có tính tiên thiên, tính tự nhiên và do đó nó có tính bất khả xâm phạm. Ông chứng minh rằng, quyền tư hữu tài sản là có nguồn gốc tiên thiên do đó nó là vĩnh cửu, phổ biến và tuyệt đối câng thiết. Cantơ cũng nêu lên tư tưởng độc đáo và sâu sắc về quyền bình đẳng của con người. Bình đẳng không phải là về tài năng mà là về cơ hội để phát triển và áp dụng tài năng ông cũng xác định là có quyền độc lập của người công dân. Nhưng quyền độc lập đó được ông hiểu theo kiểu cá nhân chủ nghĩa vốn có trong xã hội tư sản. Cantơ chia nhân dân trong xã hội ra hai loại nguời: Người công dân và người chỉ có quốc tịch. Người chỉ có quốc tịch không hề có một quyền thông thường nào trong xã hội. Người lao động thuộc loại người này. Quan niện về hoà bình về chiến tranh : Trong cuốn “Về hoà bình vĩnh viễn ’’1975 Cantơ kêu gọi tất cả các dân tộc hãy thiết lập mối quan hệ hoà bình hữu nghị. Ông phê phán các thế lực phản động ở Tây âu cuối thế kỷ XVIII đang liên kết chống cách mạng tư sản Pháp. Theo Cantơ, các cuộc chiến tranh nhiều khi phá hoại chuẩn mực đạo đức con người. Ông khẳng định “không cần có bất kỳ một cuộc chiến tranh nào cả.’’ cho nên ông kêu gọi tất cả các quốc gia trên hành tinh hãy đoàn kết xây dựng một “liên bang’’ tất cả các dân tộc trong khi vẫn đảm bảo cho mỗi dân tộc được độc lập và tự do về chính trị. Xây dựng một thế giới hoà bình và hữu nghị theo những lý tang nhân đạo cao cả phải được coi là mục đích cap đẹp nhất.Song ông lại thấy rằng việc thực hiện mục đích đó trong tình hình hiện tại có tính chất là một nghĩa vụ luân lý luôn là một nghĩa vụ lịch sử cụ thể Với những tư tang nêu trên Cantơ thự sự là người đặt nền móng cho nhiều quan niệm duy vật lịch sử sau này của Mác –Engen 3.2.3. Mỹ học và quan điểm triết học về con người và tương lai loài người Mặc dù có mâu thuẫn, có tính chủ quan và tính hình thức của nó, mỹ học của Cantơ vẫn là một sự đề xuất mới với những ý tưởng sâu sắc và độc đáo, là một bước tiến rất quan trong trong sự phat triển tư tưởng thẩm mỹ. Lý thuyết về thiên tài nghệ thuật mặc dù dựa trên cơ sở duy tâm chủ nghĩa, nhưng về mặt nhận thức luận lại quan trọng ở chỗ nó bác bỏ xu hướng tĩnh quan đặc tính của lý thuyết sao chép tự nhiên. Xu hướng chủ yếu trong phếp phân tích cái đẹp thuần khiết là xu hướng hình thức, nhưng phép phân tích ấy cũng vạch rõ chỗ khác nhau giữa chủ nghĩa duy tâm siêu nghiệm nói về timnhs tất yếu và tính phổ biến của phê phán thẩm mỹ – với xu hướng tương đối chủ nghĩa của cảm giác luận duy tâm chủ quan. Với lý thuyết về cái đẹp nương tựa –cái cao cả chứng tỏ trong chừng mực nào đó, Cantơ đã tiến sát tới quan niệm biện chứng và những phạm trù thẩm mỹ và mối liên hệ lẫn nhau giữa những yếu tố khách quan và cgủ quan trong những khái niệm thẩm mỹ. Cũng như các nhà tư tưởng khác Cantơ muốn trả lời câu hỏi: Con người từ đâu đến và nó sẽ đi về đâu? cái gì đang đợi nó?và nó sẽ đi tơi tương lai như nthế nào. Đối với chúng ta khog ai chờ đón chỉ ở một cá nhân lại có thể trả lời được câu hỏi lớn lao của cả loài người. Điều quan trọng là những vấn đề đã được nhà triết học nêu lên Cantơ đã đi sâu vào các quan hệ con ngưòi không chỉ từ khía cạnh nhận thức luận mà cả khiá cạnh bản thể luận, làm rã quan hệ tác động qua lại giữa cái sinh học và cái xã hộ trong con người. Nếu Cantơ chưa giải quyết được những vấn đề đó tì chỉ là vì ông chưa giải quyết được chúng trên cơ sở lý luận nhận thức duy vật biện chứng và duy vật lịch sử một cách triệt để. Ý nghĩa to lớn của việc nghiên cứu con người của Cantơ là ở chỗ, Cantơ đã: Thứ nhất, quan tâm đặc biệt tới những điều kiện tự nhiên – vật chất của sự nảy sinh và sự phát triển xã hội ; Thứ hai, Xây dựng học thuyết về vai trò của tính mâu thuẫn xã hộivà tính đối kháng như là động lực của tiến trình lịch sử;Thứ ba, tin vào tiến bộ xã hội và thắng lợi của các yếu tố đạo đức trong con người; thứ tư, xem mục đích của lịch sử là xây dựng một xã hội công bằng và con người phát triển hài hoà. Các qua điểm của Cantơ về tiến trình lịch sử là một trong những bứoc tiến lớn lao trên con đường loài người xây dựng lý thuyết duy vật –Biện chúng về sự phát triể C. KẾT LUẬN Giá trị lớn lao trước hết của triết học Cantơ là nó đã đặt ra một loạt vấn đề căn bản của nhận thức luận, về phương pháp biện chứng,về nguồn gốc của những khái niện và các phạm trù lôgíc chủ yếu và vị trí của chúng trong tư duy khoa học cũng như trong quá trình nhận thức. Cantơ cũng đã đề xuất nhiều tư tưởng có ý nghĩa quan trong trong các lĩnh vực chính trị, xã hội, pháp quyền, những vấn đề tôn giáo, chiến tranh và hoà bình…Trên con đường tim tòi đó Cantơ đã đư ra nhiều tư tưởg mới mẻ có ý nghĩa vạch thời đại Đóng góp quan trọng của Cantơ là đã phát ra được bức tranh của quá trình nhận thức qua ba giai đoạn từ thấp đến cao. Công lao của Cantơ là đã khẳng định tính phổ biến của các cặp phạm trù tìm ra những yếu tố của mối liên hệ biện chứng giữa các cặp phạm trù đó, Cantơ là một trong những người đầu tiên trong lịch sử triết học đặt ra ván đề mâu thuẫn trong nhận thức luận giải vân đề đó theo tinh thần biện chứng. Ý tưởng nhân đạo của triết học Cantơ cho đến hôm nay vẫn còn nguyên tính chất thời sự. No cho ta phương pháp nhìn nhận t ương lai để đấu tranh chống lại chủ nghĩa phi nhân đạo của thuyết vị khoa học-kỹ thuật hiện đại: chống lại quan niệm tách biệt mâu thuẫn và đối lập giữa tiến bộ khoa học –công nghệ với tiến bộ xã hội loài người; và ý ghĩa lớn lao nhất có tính quyết định có tính nhân loại bao trùm nhất là nó cho ta thấy rằng, ý nghĩa cuộc sống con người không phải là cái gì trừu tượng mà là thực tiễn cụ thể ; hơn nữa, không chỉ là cụ thể của hiện tại mà còn của tương lai, của những khả năng. 2. Tài liệu tham khảo: - Giáo trình Lịch sử Triết học, Bùi Thanh Quất, Vũ Tình, NXB GDHN 2001 - Giáo trình Lịch sử Triết học, Học viện Báo chí tuyên truyền - Khoa Triết học xuất bản năm 1998 - Lịch sử triết học, tập 1,2,3 - NXB Tư tưởng văn hoá Hà Nội 1992 - I.Kant các tác phẩm gồm VI tập Maxcơva 1963 - 1966 - V.F.Axmut. Mỹ học I.Kant - NXB nghệ thuật Maxcơva 1962 - A.A Karapetian Phân tích phương pháp triết học I.Kant erevan 1958 - Triết học I.Kant và thời đại Maxcơva 1974 - Triết học cổ điển Đức, NXB sự thật Hà Nội 1963 MỤC LỤC Trang 2 2 3 4 4 4 7 9 10 12 12 13 14 14 17 17 19 21 22 23 24 24 29 31 A. Lời nói đầu: 1. Lý do chọn đề tài 2. Tài liệu tham khảo B. Nội dung I. Khái quát về tiền đề ra đời và đặc điểm của triết học cổ điển Đức. 1.1. Tiền đề xuất hiện triết học cổ điển Đức. 1.2. Đặc điểm của triết học cổ điển Đức. II. Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của I.kant. 2.1. Thời kỳ tiền phê phán và những tư tưởng triết học khoa học tự nhiên. 2.2. Thời kỳ phê phán và những quan điểm triết học cơ bản. 2.2.1. Bước ngoặt trong quan điểm triết học và thế giới quan. 2.2.2. Bản chất, nhiệm vụ, chức năng của triết học III. Nội dung cơ bản của triết học cantơ 3.1. Triết học nhận thức: 3.1.1. Thuyết hai thế giới và quan niệm về nhận thức. 3.1.1.1. Thuyết hai thế giới: 3.1.1.2. Quan niệm về nhận thức.Kinh nghiệm và tiên nghiệm. 3.1.2 Học thuyết về tri thức 3.1.3 Trực giác cảm tính. Khả năng phán đoán tổng hợp tiên nghiệm trong toán học. 3.1.4 Giác tính phân tích (hay phân tích tiên nghiệm). Khả năng nhận thức của khoa học tự nhiên lý thuyết. 3.1.5. Lý tính (hay biện chứng tiên nghiệm). Về khả năng của siêu hình học. 3.2 Triết học thực tiễn. 3.2.1 Đạo đức học của Cantơ. 3.2.2. Quan niệm về lịch sử, xã hội, pháp quyền. 3.2.3. Mỹ học và quan điểm triết học về con người và tương lai loài người C. Kết luận. A. LỜI NÓI ĐẦU Vào thời mình, F.Engen đã từng nói: “ Một dân tộc đứng vững trên đỉnh cao của khoa học thì không thể có tư duy lý luận”, nhưng tu duy lý luận ấy “ cần phải được hoàn thiện và muốn hoàn thiện nó thì cho tới nay, không có một cách nào khác hơn là nghiên cứu toàn bộ triết học thời trước ” vì “ triết học là sự tổng kết lịch sử tư duy ” (Hêghen). Mặt khác vì lịch sử phát triển của tư duy được tổng kết trong lịch sử triết học, nên chính lịch sử triết học là cơ sở để hình thành phép biện chứng. Triết học cổ điển Đức là giai đoạn phát triển mới về chất trong lịch sử tư tưởng Tây Âu và thế giới cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX. Đây là đỉnh cao của thời kỳ triết học cổ điển phương Tây, đồng thời có ảnh hưởng to lớn tới triết học hiện đại triết học cổ điển Đức vì vậy, trở thành một trong ba nguồn gốc hình thành chủ nghĩa Mác – nguồn gốc triết học (cùng với kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp) Triết học Cantơ khởi xướng một phong trào lưu triết học mới – triết học duy tâm phê phán tiên nghiệm để tiếp đó, Phíchtơ Seu – ing tiếp tục tìm tòi mở rộng, đến Hêghen nó phát triển thành một hệ thống triết học duy tâm biện chứng và Phoiơ bắc đã kết thúc triết học cổ điển Đức với chủ nghĩa duy vật nhân bản của mình. Triết học Cantơ là một hiện tượng hết sức phức tạp. Cantơ là người đầu tiên có ý đồ và đã được thực hiện ý đồ tổng kết toàn bộ tri thức Triết học trong lịch sử tư tưởng loài người. Trên tinh thần phê phán, Cantơ đã phê phán các hệ thống triết học trước đó, gạn lọc kế thừa và phát triển những yếu tố mà ông cho là đúng giá trị, từ đó xây dựng một hệ thống triết học riêng theo một mẫu mực mới – Triết học vạn năng. 1. Lý do chọn đề tài: Imanuen Cantơ (Imanuel Kant) là một trong những nhà triết học vĩ đại của lịch sử tư duy phương Tây trước Mác. Triết học Cantơ “là nền tảng và điểm xuất phát của triết học Đức hiện đại, những hạn chế trong triết học của ông không làm lu mờ công lao đó của triết học triết học Cantơ” Triết học Cantơ có vị trí quan trọng trong triết học cổ điển Đức. Cantơ có vị trí quan trọng trong triết học trong triết học cổ điển Đức. Triết học Cantơ đi vào rất nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh, nêu lên những lý tưởng mới lạ, trừu tượng và hết sức khó hiểu. Chính vì vậy cho đến nay dù đã nhiều công trình nghiên cứu về Cantơ, song không phải những công trình đó đã đi sâu cặn kẽ vào hết các ý tưởng của Cantơ không phải ai cũng hiểu nó một cách hoàn toàn giống nhau. Tìm hiểu về triết học của Cantơ em muốn đi sâu nghiên cứu một cách khái quát về hệ thống triết học của Cantơ, nghiên cứu về triết học thực tiễn, triết học nhận thức về cuộc đời và sự nghiệp của ông. Do quá trình làm bài còn nhiều thiếu sót, cũng như kiến thức và tài liệu chưa được đầy đủ em mong được sự góp ý và chỉnh sửa và bổ sung của Thầy để bài viết được thực sự hoàn chỉnh hơn. . B. NỘI DUNG I. KHÁI QUÁT VỀ TIỀN ĐỀ RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC CỔ ĐIỂN ĐỨC. 1.1. Tiền đề xuất hiện triết học cổ điển Đức. Vào cuối thế kỷ XVIII, Tây Âu đã đạt được những thành tựu kinh tế - xã hội mới, khẳng định phương thức sản xuất TBCN, đưa giai cấp tư sản lên địa vị thống trị.Các cuộc cách mạng xã hội thế kỷ XVII - XVIII mở đường cho sự phát triển các tư tưởng xã hội tiến bộ, đẩy đến cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789 - 1794). Cách mạng công nghiệp Anh khẳng định sức mạnh của con người trong nhận thức thế giới, cùng với cách mạng tư sản Pháp thể hiện khả năng cải tạo thế giới, làm rung chuyển cả châu Âu, đánh dấu sự mở đầu của cách mạng công nghiệp. Hai cuộc cách mạng tiêu biểu đó ảnh hưởng rộng lớn đến phong trào giải phóng ở các nước châu Âu chống chủ nghĩa phong kiến, phát triển hệ tư tưởng tư sản - hệ tư tưởng mới và tiến bộ trong lịch sử. Các nhà tư tưởng tư sản đòi hỏi phải trả lại cho con người những cái mà hệ tư tưởng phong kiến đang phủ nhận. Quyền tự do, bình đẳng, quyền sở hữu riêng của mỗi cá nhân và quyền mưu cầu hạnh phúc. Hệ tư tưởng tư sản tuyên bố: con người là thực thể tối cao, con người phải vươn tới trí tuệ và tự do, phải thực hiện tiến bộ xã hội và hạnh phúc cho con người. Tuy nhiên về mặt chính trị, chủ nghĩa phong kiến chưa bị tiêu vong hoàn toàn. Ở những nước mà kinh tế TBCN chưa thể thực hiện việc cải tạo cách mạng tư sản, lực lượng phong kiến vẫn nắm chính quyền và không chịu phân quyền cho giai cấp còn non yếu. Sự phục hồi chế độ quân chủ nửa phong kiến Buốcbông ở Pháp, Hội nghị viên ở Áo thống nhất các lực lượng quân chủ - phong kiến toàn châu Âu. Chứng tỏ lực lượng phong kiến vẫn đang còn mạnh và đang chuẩn bị phản công lại giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản cảm nhận được khả năng thất bại của mình không chỉ từ sự phản công của thế lực phong kiến mà cả từ phía quần chúng bị áp bức, những người mà sự khẳng định của CNTB cang làm cho đời sống của họ tồi tệ hơn. Ngay từ những cuộc cách mạng tư sản trước đó trong “đẳng cấp thứ ba” này xuất hiện những mâu thuẫn và giờ đây chúng trở thành mâu thuẫn đối kháng. Tình hình đó dẫn đến trong hệ tư tưởng tư sản khuynh hướng thoả hiệp với các lực lượng phong kiến lại tăng lên, các thể chế phong kiến đến lượt mình lại thích nghi với trật tự tư sản và trong phạm vi đáng kể được tưu sản hoá. Những mâu thuẫn và thoả hiệp có biểu hiện rõ nhất ở nước Đức, nơi mà có sự phát triển của CNTB bị cản trở bởi điều kiện kinh tế và chính trị của nó. Trong thời kỳ đó, nếu nước Anh nhờ cách mạng tư sản và bước ngoặt công nghiệp mà trở thành quốc gia tư bản lớn mạnh nhất, và ở Pháp nhờ kết quả của cách mạng tư sản Pháp 1789, giai cấp tư sản đã tiêu diệt chủ nghĩa phong kiến, tiến nhanh trên con đường tư bản chủ nghĩa thì ở nước Đức hãy còn là một nước nửa phong kiến bị phân hoá cả về kinh tế lẫn chính trị. Những tàn tích của chế độ nông nô, chế độ phường hội, chúa đất, sự tồn tại của nhiều quốc gia nhỏ bé phụ thuộc lẫn nhau với các thể chế chính trị phản động..., không chỉ kìm hãm sự phát triển mà còn làm tăng thêm mức độ lạc hậu của nước Đức so với các nước đã phát triển quan hệ TBCN. F. Enghen nhận xét rằng: đó là “thời kỳ nhục nhã về mặt chính trị và xã hội”... “Mọi thứ đều nát bét lung lay, xem chừng sắp sụp đổ, thậm chí chẳng còn tới một tia hy vọng chuyển biến tốt lên vì dân tộc, thậm chí không còn đủ sức vứt bỏ cái thây ma rữa nát của chế độ đã chết rồi”. Nhưng đồng thời Enghen cũng viết rằng “thời kỳ nhục nhã” đó lại mang một nét đặc biệt rất đáng tự hào: Đó là thời kỳ vĩ đại trong lịch sử văn hoá, nghệ thuật và triết học Đức, mỗi tác phẩm xuất chúng của thời đại đó đều thấm đượm tinh thần phê phán, phản kháng, chống lại chế độ xã hội đương thời. Tinh thần đó tràn đầy trong các tác phẩm văn học nghệ thuật, triết học của: G.G.Heeđe (1744 - 1803), G.F.Lêxinh (1729 - 1791), G.F.Sinlơ (1759 - 1805), I.F.G.Phichtơ (1762 - 1814), S.V.Selling (1775 - 1854), G.V.F.Hêghen (1730 - 1831), Lútvích Phoiơbắc (1804 - 1872)... các đại biểu lỗi lạc của triết học cổ điển Đức. ở Đức cũng như ở Pháp, cách mạng đã chuẩn bị tư tưởng cho cách mạng tư sản. Nhưng khác với các nhà tư tưởng Pháp, các nhà triết học Đức không đồng thời là các nhà hoạt động cách mạng. Không như P.H.Hônbach (1723 - 1789), R.Điđirô và các nhà hoạt động khác ở thời kỳ khai sáng, các nhà triết học Đức là những nhà duy tâm. Điều đó được phản ánh trong sự bất lực tiến hành một cuộc cách mạng chống lại trật tự phong kiến, và cuối cùng thể hiện ở sự thoả hiệp của họ. Các học thuyết triết học duy tâm của các nhà triết học cổ điển Đức không thể làm tiền đề cho sự cải tạo tư sản nước Đức, theo mong muốn mà tuyên ngôn của họ đã nêu, tự do, trí tuệ, hạnh phúc và quyền con người. Mác gọi triết học Cantơ là học thuyết Đức của cách mạng tư sản Pháp. Định nghĩa đó cũng hoàn toàn đúng với triết học Phíchtơ, Sêling, Hêghen. Học thuyết của các nhà triết học Đức về sự phát triển đã gián tiếp hoặc trực tiếp chống lại các lực lượng phong kiến phản động. V.I.Lênin viết: “lòng tin của Hêghen vào lý tính của con người và vào quyền lợi của con người và nguyên lý cơ bản của triết học. Hêghen cho rằng trong thế giới luôn diễn ra một quá trình liên tiếp biến hoá và phát triển..., ngay cả cuộc đấu tranh chống hiện trạng, cuộc đấu tranh chống bất công đang tồn tại và chống điều ác tung hoành cũng bắt rễ từ quy luật phổ biến là sự phát triển không ngừng”. Song các học thuyết đó không biến thành cách mạng được, nó duy tâm và yếu hèn. Tính chất duy tâm và tinh thần yếu hèn đó đã dẫn đến những hạn chế trong triết học cổ điển Đức. Hạn chế của nnó là ở chỗ, các nhà triết học Đức hiểu sự phát triển như một quá trình tinh thần, một quá trình tự thức tỉnh và sự phát triển của lý tính. Cách hiểu đó đã xóa nhoà bản chất vật chất của sự cải tạo xã hội hiện thực và về lý thuyết nó biện hộ cho sự thoả hiệp chính trị với các thế lực phong kiến của giai cấp tư sản. Vấn đề dặt ra là tại sao các nhà duy tâm tư sản yếu hèn trong điều kiện kinh tế - xã hội thấp kém của nước Đức lại làm nên những thành tựu vĩ đại trong triết học. Lịch sử tư tưởng chứng minh rằng, các học thuyết tư tưởng tiến bộ có thể nảy sinh trong lòng một nước có trình độ kinh tế lạc hậu hơn nếu biết tiếp thu thành tựu mọi mặt của các nước tiến bộ khác. ở Pháp vào thế kỷ XVIII nền kinh tế kém phát triển hơn ở Anh, song lại hình thành chủ nghĩa duy vật: Hônbach, R.Điđro... Chính vì chủ nghĩa duy vật Pháp dựa trên những thành tựu của chủ nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII. ở Đức tình hình cũng tương tự. Triết học cổ điển Đức dựa trên những thành tựu triết học của các nước phát triển châu Âu, nó tiếp thu được tư tưởng giải phóng tư tưởng cách mạng của các nhà duy vật cách mạng Pháp. Những tiền đề cho sự phát triển thế giới quan biện chứng đối với lịch sử nhân loại và sự khái quát lý thuyết phép biện chứng của các nhà duy tâm Đức là: bước ngoặt kinh tế - xã hội có tính chất thời đại của Anh, bước ngoặt tư tưởng xã hội có tính lịch sử thế giới của cách mạng tư sản Pháp, sự kế thừa truyền thống triết học biện chứng Đức và đặc biệt là những thành tựu của khoa học tự nhiên. Những bậc tiền bối của triết học cổ điển Đức là nhà triết học - toán học Pháp R.Điđro, nhà vật lý học Anh I.Niutơn, C.Vônphơ... Các học thuyết của họ chứa đựng những tư tưởng biện chứng sâu sắc. Khoa học tự nhiên lúc này với những phát minh xuất sắc đã vạch rõ tính biện chứng của quá trình tự nhiên, thúc đẩy việc xây dựng phép biện chứng. Những thành tựu đó phản ánh vào trong tư tưởng, trong những học thuyết của các nhà triết học cổ điển Đức và là những tiền đề cho những tư tưởng biện chứng thiên tài của họ. Những thành tựu đó chứng tỏ khoa học tự nhiên đã chín muồi cho sự tổng kết biện chứng, nó cần xây dựng một phương pháp tư duy và khảo sát mới - phương pháp biện chứng để có thể phản ánh đầy đủ những quy luật tự nhiên khách quan. Nếu ở thế kỷ XVII những nhà khoa học bắt đầu từ Bêcơn, Galilê, xây dựng một cách tự phát phương pháp siêu hình cho nhận thức khoa học thì ở cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, các nhà triết học Đức đã bắt đầu xây dựng phương pháp biện chứng cho khoa học. Nhưng sự thực hiển nhiên đó trong triết học cổ điển Đức chưa tiến hành triệt để, nó vẫn là triết học đầy mâu thuẫn trên cơ sở chủ nghĩa duy tâm xa lạ với tinh thần duy vật càng xa lạ với biện chứng duy vật khoa học. 1.2. Đặc

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLịch sử Triết học.doc
Tài liệu liên quan