MỤC LỤC
Trang
DANH SÁCH CÁC HÌNH iv
DANH SÁCH CÁC BẢNG vii
DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT viii
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU 1
1.1. Đặt vấn đề 1
1.2. Nội dung tìm hiểu 1
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN 2
2.1. Tình hình nuôi trồng thủy hải sản trên thế giới và tại Việt Nam 2
2.1.1. Trên thế giới 2
2.1.2. Tại Việt Nam 4
2.1.3. Một số khó khăn trong nuôi trồng thủy hải sản 4
2.2. Giới thiệu về các tác nhân gây bệnh trong nuôi trồng thủy hải sản 5
2.2.1. Tác nhân gây bệnh trên tôm 5
2.2.1.1. Bệnh do virus 5
2.2.1.2. Bệnh do vi khuẩn 15
2.2.2. Tác nhân gây bệnh trên cá 20
2.2.2.1. Bệnh do virus 20
2.2.2.2. Bệnh do vi khuẩn 27
2.3. Giới thiệu về Vibrio sp. gây bệnh trong nuôi trồng thủy hải sản 33
2.3.1. Tổng quan về Vibrio sp. 33
2.3.1.1. Đặc điểm của Vibrio sp. gây bệnh 33
2.3.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng nhiễm bệnh 34
2.3.2. Vibrio sp. gây bệnh trên tôm 34
2.3.2.1. Lịch sử phát hiện bệnh 34
2.3.2.2. Phân loại 35
2.3.2.3. Đặc điểm chung 36
2.3.2.4. Đặc điểm dịch tễ 36
2.3.2.5. Dấu hiệu bệnh lý 37
2.3.2.6. Bệnh phồng đuôi 39
2.3.2.7. Bệnh đỏ dọc thân 40
2.3.2.8. Bệnh phát sáng 40
2.3.3. Vibrio sp. gây bệnh trên cá 48
2.3.3.1. Lịch sử phát hiện bệnh 48
2.3.3.2. Cơ chế gây bệnh 49
2.3.3.3. Đặc điểm dịch tễ 49
2.3.3.4. Dấu hiệu bệnh lý 50
2.4. Các phương pháp xác định Vibrio sp. 51
2.4.1. Phát hiện vi khuẩn Vibrio sp.bằng phương pháp nuôi cấy 51
2.4.1.1. Nguyên tắc 51
2.4.1.2. Cách thực hiện 51
2.4.2. Phương pháp miễn dịch học – ELISA 51
2.4.2.1. ELISA gián tiếp 53
2.4.2.2. Sandwich ELISA 54
2.4.2.3. ELISA cạnh tranh 55
2.4.3. Phương pháp PCR 56
2.5. Các phương pháp phòng ngừa và điều trị 58
2.5.1. Biện pháp phòng bệnh tổng hợp 58
2.5.1.1. Cải tạo và vệ sinh môi trường nuôi 58
2.5.1.2. Tiêu diệt nguồn gốc gây bệnh 59
2.5.1.3. Tăng cường sức đề kháng bệnh 59
2.5.2 Điều trị 60
CHƯƠNG 3: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 61
3.1. Kết luận 61
3.2. Kiến nghị 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO 62
64 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 12683 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu về Vibrio sp. gây bệnh trên thủy sản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
s ciliaris).
Phân bố và lan truyền bệnh
Bệnh khối u tế bào Lympho xuất hiện ở 125 loài, 34 họ thuộc 9 bộ cá nước ngọt và cá nước mặn, gặp nhiều nhất ở ba bộ: Perciformes, Pleuronectiformes, Tetraodontiformes, ngoài ra còn gặp ở sáu bộ cá khác như: Clupeiformes, Salmoniformes, Ophidiiformes, Cyprinodontiformes... Cá sống tự nhiên mức độ cảm nhiễm bệnh thấp và không gây nguy hiểm. Nhưng ở các loài cá nuôi tăng sản như nuôi lồng dễ bị nhiễm bệnh tế bào Lympho và gây nguy hiểm cho cá nuôi.
Bệnh hoại tử thần kinh(Viral nervous necrosis – VNN)
Tác nhân gây bệnh
Gây bệnh là virus Betanodavirus hình cầu, đường kính là 26 – 32nm. Acid nhân là RNA. Virus ký sinh trong tế bào chất của tế bào thần kinh trong não và trong võng mạc mắt.
Hình 2.26: A - Betaodavirus nuôi cấy từ não cá song bệnh; B- tiểu phần vi rút trong tế bào chất của tế bào võng mạc mắt cá song bệnh.
Dấu hiệu nhiễm bệnh
Bệnh VNN là bệnh cấp tính xuất hiện từ trại ương giống. Ấu trùng (từ 10 – 25 ngày tuổi) hoặc cá giống bỏ ăn, cá chết rải rác, bơi lờ đờ trên tầng mặt do bóng hơi trương phồng. Có sự xung huyết trong não mà có thể nhìn thấy được. Cá nhiễm bệnh bơi không bình thường, bơi lội mạnh không định hướng, đầu chúc xuống dưới.
Bệnh cấp tính hoặc thứ cấp tính trong cá mú hương và cá mới nuôi lồng có dấu hiệu giống nhau. Cá chết và hấp hối hầu hết bóng hơi trương phồng. Cá bơi lội hỗn loạn không định hướng, hàm dưới có vết hoại tử do chà sát với lưới. Nhiều cá có màu đen và thường bơi chậm chạp. Triệu chứng tăng dần khi quần đàn đã nhiễm bệnh.
Cá sau 20 – 45 ngày tuổi dấu hiệu bệnh cá yếu bơi gần tầng mặt. Cá từ 45 ngày đến 4 tháng tuổi khi bị bệnh bơi không định hướng (bơi quay tròn hoặc xoáy chon ốc), kém ăn hoặc bỏ ăn, thân đen xám, đặc biệt đuôi và các vây chuyển màu đen, mắt đục hoặc bóng hơi phồng ra. Cá bệnh hoạt động yếu đầu treo trên mặt nước hoặc nằm dưới đáy bể hoặc đáy lồng. Cá chết sau 3 – 5 ngày có dấu hiệu bệnh.
Hình 2.27: Cá bị bệnh nổi thường nổi trên mặt nước, bóng hơi trương phồng, cơ thể thường uốn cong và đầu chúc xuống dưới.
Phân bố và lan truyền bệnh
Bệnh đã phát hiện ít nhất là 30 loài cá biển và đặc biệt thường gặp ở cá nuôi lồng như cá song điểm đai (Epinephelus malabaricus) – Thái Lan; cá song mỡ (E.tauvira) – Singapore; cá song vân mây (E.moara) và cá song chấm đỏ (E.akaara) – Nhật Bản; cá song bảy sọc (E.septeryfasciatus) – Hàn Quốc, Nhật Bản; cá song lưng gù (Cromileptes altivelis) – Indonesia. Tỷ lệ chết 70 – 100% ở cá hương 2,5 – 4cm, khi cá lớn (15cm) tỷ lệ chết giảm còn 20%. Ở Việt Nam, các loài cá song (Epinephelus spp) nuôi lồng trên vịnh Hạ Long thường gặp bệnh hoại tử thần kinh, kết quả điều tra ở huyện Vân Đồn, Quảng Ninh (2002) có số lồng bị bệnh. Bệnh phát từ tháng 5 – 10, đặc biệt khi mưa nhiều. Nhiệt độ thích hợp bệnh phát triển 25 – 30%
2.2.2.2. Bệnh do vi khuẩn
Bệnh do vi khuẩn Pseudomonas
Tác nhân gây bệnh
Pseudomonas là một giống thuộc họ Pseudomonadaceae, bộ Pseudomonadales, lớp Gammaproteobacteria, ngành Proteobacteria. Vi khuẩn gram âm, hình que hoặc hơi uốn cong, không sinh bào tử, kích thước 0,5 – 1,0 x 1,5 – 5,0 μm. Chúng chuyển động bằng một hoặc nhiều tiên mao. Chúng phát triển trong môi trường đơn giản và hiếu khí. Đa số chúng có thể oxy hoá hoặc một số ít không oxy hoá và không lên men trong môi trường O/F Glucose. Chúng sing sắc tố màu vàng – xanh, xanh, xanh nhạt. Giới hạn nhiệt độ phát triển rất rộng từ 4 – 430C. Thành phần Guamin, Cytozin trong DNA là 55 – 64 mol %.
Chúng phân bố rộng khắp trong môi trường, trong đất và trong nước và chúng có thể gây bệnh cho người, động vật và thực vật. Thường phân lập vi khuẩn từ da, gan, thận là tác nhân gây bệnh ở cá: P. fluorescens, P. chlororaphis, P. anguilliseptica, P. dermoalba, P. putida
Hình 2.28: Khuẩn lạc vi khuẩn Pseudomonas sp.
Dấu hiệu bệnh lý
Cục bộ hoặc đại bộ phận da cá xuất huyết, vẩy rụng rõ nhất là 2 bên thân và phía bụng, gốc vây lưng hoặc toàn bộ vây lưng đều xuất huyết, các tia vây rách nát cụt dần. Có lúc ruột xuất huyết và viêm nên gọi là bệnh xuất huyết.
Thời kỳ đầu ở chỗ cán đuôi có một điểm trắng, sau đó lan dần về phía trước cho đến vây lưng và vây hậu môn, cả đoạn thân sau mưu trắng. Bệnh nặng cá cắm đầu xuống dưới, đuôi hướng lên trên tạo thành vuông góc với mặt nước cá nhanh chóng chết hưng loạt, dấu hiệu này thường gặp ở cá hương, giống và gọi là bệnh trắng đuôi.
Hình 2.29:Lươn bị xuất huyết do nhiễm Pseudomonas.
Phân bố và lan truyền bệnh
Bệnh xuất huyết thường gặp ở cá trắm cỏ, trắm đen, cá chép, cá chình Nhật Bản, cá chình Châu Âu... Bệnh trắng đuôi thường gặp ở cá hương mè, trắm cỏ, mè vinh...tỷ lệ chết rất cao. Đặc điểm của bệnh xuất huyết xuất hiện quanh năm kể cả mùa đông nhiệt độ lạnh và mùa hè nóng lực. Bệnh đã xuất hiện ở Trung Quốc, Nhật Bản, Châu Âu, Thái Lan. Pseudomonas gây bệnh nhiễm trùng máu nhưng không nguy hiểm cho cá nuôi. Ở Indonesia bệnh gặp ở cá tai tượng và gọi là bệnh “giang mai ở cá”.
Bệnh đốm trắng (hoại tử cơ quan nội tạng ) cá da trơn Edwardsiellosis
Tác nhân gây bệnh
Edwardsiella thuộc họ Enterobacteriaceae, bộ Enterobacteriales, lớp Gammaproteobacteria, ngành Proteobacteria. Chúng có đặc điểm gram âm, hình que mảnh, kích thước 1 x 2 – 3 μm, không sinh bào tử, chuyển động nhờ vành tiêm mao. Yếm khí tuỳ tiện, catalase dương, Cytocrom oxidase âm oxy hoá âm và lên men trong môi trường O/F glucose. Thành phần Guanin và Cytozin trong DNA là 55-59 mol%. Thường gặp hai loài: E. tarda và E. ictaluri.
E. tarda là tác nhân gây bệnh nhiễm khuẩn ở cá nước ấm, đặc biệt là cá không vẩy. E.ictaluri gây bệnh nhiễm khuẩn trong các cơ quan nôi tạng gan, tụy, thận của cá không vẩy. Loài E. tarda hầu hết không lên men các loại đường nhưng có một vài chủng lên men đường khá nhanh.
Hình 2.30: Vi khuẩn Edwardsiella.
Dấu hiệu bệnh lý
Cá bị bệnh kém ăn hoặc bỏ ăn, gầy yếu, bụng thường chướng to, xung quanh miệng có các đám xuất huyết, gốc vây xuất huyết, mắt lồi Giải phẫu cơ quan nội tạng gan, lá lạch, thận bị hoại tử thành những đốm màu trắng đục đường kính 0,5 – 2,5mm, còn gọi là “bệnh đốm trắng”.
Hình 2.31: Cá da trơn bị bệnh hoại tử cơ quan nội tạng. A – Cá tra giống bụng chướng to; B – Cá nheo bụng chướng to; C,E – trên gan cá tra giống có các đốm trắng; D – thận cá tra có nhiều đốm trắng.
Phân bố và lan truyền bệnh
Vi khuẩn thường gây ở động vật máu lạnh: rắn, cá sấu, cá ba ba,...và những động vật thuỷ sản khác. Việt Nam đã phân lập được E. tarda từ cá trê giống; E. ictaluri từ cá tra, cá ba sa, cá nheo giống và cá thịt. Bệnh gây thiệt hại trong các ao nuôi cá tra hương (cỡ từ 4 – 6cm) đến 5 – 6 tháng tuổi, tỷ lệ tử vong của cá từ 60 – 70%, có trường hợp tới 100% (theo Bùi Quang Tề, 2003). Bệnh xuất hiện nhiều nhất vào mùa xuân, mùa thu và trong ao nuôi mật độ cao, nuôi cá lồng bè.
Bệnh nhiễm khuẩn do vi khuẩn Streptococcus
Tác nhân gây bệnh
Streptococcus (thuộc Streptococcaceae, bộ Lactobacillales, lớp Bacilli, ngành Firmicutes) là một giống lớn có dạng hình cầu hoặc hình ovan, đường kính nhỏ hơn 2 μm. Gram dương, không di động, hầu hết yếm khí tuỳ tiện, lên men trong môi trường Glucose, nhu cầu phát triển phức tạp. thành phần Guanin và Cytozin trong DNA là 34 – 46 mol%. Streptococcus sinh trưởng tốt trên môi trường Trypticase Soy agar có thêm 0,5% Glucose, môi trường BHIA (Brain Heart Infusion Agar), môi trường THBA (Todd hewitt broth agar), môi trường thạch máu ngựa (Horse bood agar). Nuôi cấy ở 20 – n300C, sau 24 – 48h hình thành khuẩn lạc nhỏ đường kính 0,5 – 1,0 mm, màu hơi vàng, hình trò, hơi lồi.
Streptococcus được phân lập từ cá nước ngọt và cá biển Nhật Bản, khuẩn lạc rất nhỏ và dẻo (độ nhớt cao). Streptococcus ininae gây bệnh xuất huyết ở cá rô phi nuôi thâm canh. Năm 1991 – 1992 đã phân lập từ cá ba sa bị bệnh xuất huyết vi khuẩn Streptococcus sp.
Hình 2.32:Vi khuẩn Streptococcus phân lập từ mẫu cá bệnh.
Dấu hiệu nhiễm bệnh
Cá bị bệnh kém ăn hoặc bỏ ăn, gầy yếu, bụng thường chướng to, xung quanh miệng có các đám xuất huyết, gốc vây xuất huyết, mắt lồi. Bệnh thường gây hoại tử gan, lá lách và thận thành những đốm màu nhạt ở cá rô phi, trên gan cá ba sa có các khuẩn lạc của Streptococcus sp.
Hình 2.33: Cá bị bệnh xuất huyết do Streptococcus sp.
Phân bố và lan truyền bệnh
Việt Nam cá ba sa, cá rô phi, cá chép, cá biển... đã phân lập được Streptococcus. Bệnh nhiễm trùng do nhóm vi khuẩn Streptococcus di động thường gặp ở nhiều loài động vật thuỷ sản nước ngọt. ở Việt Nam các loài cá nuôi lồng, bè và nuôi ao nước ngọt thường gặp bệnh đốm đỏ như: trắm cỏ, cá trôi, cá chép, cá mè, cá ba sa, cá bống tượng, cá he nuôi bè, cá tai tượng, cá trê, cá nheo... Vi khuẩn có thể gây bệnh ở ba ba, cá sấu, bệnh đỏ chân ở ếch, đốm nâu ở tôm càng xanh. Tỷ lệ tử vong ở động vật thuỷ sản thường từ 30 – 70% riêng ở cá giống (ba ba, cá trê) có thể chết 100%. Bệnh xuất hiện quanh năm nhưng thường tập trung vào mùa xuân và mùa thu ở miền Bắc, ở miền Nam bệnh phát nhiều vào mùa mưa. Đông Nam Á: Thái Lan – gây bệnh ở cá trê, Indonesia – cá chép bị bệnh, cá trê bị bệnh.
Bệnh vi khuẩn dạng sợi (bệnh hình trụ)
Tác nhân gây bệnh
Tác nhân gây bệnh hình sợi cá là vi khuẩn Flexibacter columnaris (Syn. Cytophaga columnaris) thuộc họ Flexibacteraceae, bộ Sphingobacteriales, lớp Sphingobacteria, ngành Bacteroideles. Vi khuẩn hình que (dạng sợi) mềm mại. Trong các mẫu mô nhiễm bệnh thấy rõ nhiều vi khuẩn dạng sợi mảnh dẻ. Trong cá mẫu mô nhiễm bệnh thấy rõ nhiều vi khuẩn chuyển động lướt nhẹ nhàng và tập hợp thành một trụ hình khối nên có tên gọi là bệnh hình trụ. Các khối trụ cũng chuyển động uốn cong. Vi khuẩn Gram âm, dạng hình que dài mảnh dẻ (dạng sợi mảnh) kích thước 0,3 – 0,5 x 3 – 8 μm.
Hình 2.34: Khuẩn lạc của Flexibacter columnaris phát triển trên môi trường Cytophaga agar.
Dấu hiệu nhiễm bệnh
Dấu hiệu đầu tiên xuất hiện các đốm trắng trên thân, đầu, vây, mang. Các đốm lan rộng thành các vết loét, xung quanh màu đỏ, ở phần giữa màu vàng hoặc xám, da cá có thể bị lột ra vết loét lan rộng. Các mép vây biến màu sau lan dần tới gốc vây, các vây hoại tử cụt dần. Trên mang xuất hiện các vết loét, tơ mang bị phá huỷ làm cá ngạt thở. Bệnh không gây thương tích lớn trong các cơ quan nội tạng. Bệnh thường xảy ra khi cá nhốt với mật độ dày, môi trường nghèo dinh dưỡng.
Hình 2.35: Cá song giống bị bệnh hoại tử cụt đuôi.
Phân bố và lan truyền bệnh
Cá nước ngọt đã nhiễm bệnh hình trụ: cá trình – Anguilla japonica, A. anguilla; cá – Misgurnus anguillicaudatus; cá vàng – Carassius auratus; cá chép – Cyprinus carpio; cá trắm cỏ – Ctenopharyngodon idellus;… Ở Đông Nam Á bệnh đã gây ra ở cá trê vàng Clarias macrocephalus giết chết 90% cá trê giống trong ao nuôi trong vòng 24h. Ở nước ngọt, bệnh thường xuất hiện gây cá chết ở nhiệt độ 20 – 350C, dưới 150C ít khi xuất hiện bệnh.
Ở Việt nam, nuôi cá lồng biển không nhiều, nhưng một số lồng nuôi cá mú (cá song) mật độ dày vào mùa xuân và mùa thu có thể xuất hiện bệnh hình sợi. Vi khuẩn dạng sợi gây bệnh ở nhiều loài động vật thuỷ sản nước ngọt và nước mặn, cá basa....
2.3. GIỚI THIỆU VỀ Vibrio sp. GÂY BỆNH TRONG NUÔI TRỒNG THỦY HẢI SẢN
2.3.1. Tổng quan về Vibrio sp.
2.3.1.1. Đặc điểm của Vibrio sp. gây bệnh
Vibrio có nguồn gốc từ “Vibrae” có nghĩa là dao động, gồm các vi khuẩn có dạng que uốn cong, có dạng dấu phẩy, có một tiên mao. Phần lớn các loài Vibrio sống hoại sinh chỉ một số ít có khả năng lây bệnh cho người. Vibrio cholerae (phẩy trùng tả) gây bệnh cho người, có khả năng sống trong nước đến 3 tuần.
Một số chủng Vibrio có khả năng tiết hemolysine làm tan hồng cầu gây ngộ độc. Chúng sống trong nước ấm và bùn lắng ở đầm hồ và vùng nước lợ ven biển, vi khuẩn bám vào chitin của cua và các loại thân mềm, tồn tại trong thịt hay nội tạng của tôm, cua… Đặc trưng của loài Vibrio là khả năng phát triển trong điều kiện pH rất cao (8,5 – 9,5) và bị tiêu diệt nhanh ở môi trường acid. Vibrio chứa các loại kháng nguyên O, K, H.
Hình 2.36: Vi khuẩn Vibrio sp.
2.3.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng nhiễm bệnh
Điều kiện môi trường xấu: Oxi hòa tan thấp, nền đáy tích tụ nhiều thức ăn thừa, tôm đã mang sẵn mầm bệnh trên các mô và bị sốc bởi các yếu tố môi trường xấu dẫn đến nhiễm bệnh, vùng đáy ao chứa nhiều chất thải độc, môi trường bị nhiễm bẩn hữu cơ, môi trường ở các vùng thâm canh năng suất cao ngày càng xấu đi.
Do chất lượng nước không ổn định: pH 8: Mô bị phá hủy, gia tăng ammonia trong môi trường, độ mặn thích hợp cho tôm sú là 15 – 20%, sự thay đổi độ mặn vượt ra ngoài giới han thích ứng của tôm " gây sốc và giảm khả năng đề kháng bệnh, khí H2S, ao quá trong…
2.3.2. Vibrio sp. gây bệnh trên tôm
2.3.2.1. Lịch sử phát hiện bệnh
Bệnh do vi khuẩn Vibrio đã được phát hiện rất sớm từ năm 1970 bởi Tukiash khi bệnh xảy ra và gây chết với tỷ lệ > 50% trên đối tượng nuôi thủy sản là cua xanh (Callinectes sapidus). Đến năm 1977, Fisher đã thông báo các loài tôm hùm châu Mỹ như: Homarus americarus, H. gammarus... hay tôm hùm châu Á (Panulirus homarus, P. ornatus...) đều có thể bị nhiễm bệnh do vi khuẩn Vibrio. Kết quả này cũng được thông báo bởi Roald và Bowser, 1981.
Ngoài ra, Lioo và các ctv của ông đã thông báo hiện tượng tôm sú bị bệnh đỏ thân có liên quan đến thức ăn thối rữa. Nhưng có một số quan điểm khi nghiên cứu và phát hiện bệnh đỏ thân trong các ao nuôi tôm Sú ở Philippines với thức ăn tổng hợp (công nghiệp) cho rằng: bệnh đỏ thân xảy ra có liên quan đến khi độc trong ao. Năm 1990, ông Hassawai cho rằng tác nhân gây ra bệnh đỏ thân ở Thái Lan là do phẩy khuẩn. Ở Việt Nam, có một số tác giả cho rằng nguyên nhân gây ra bệnh đỏ thân là do tôm ăn Artemia và tảo già. Tuy nhiên theo nghiên cứu của viện nuôi trồng thuỷ sản 3 thì bệnh đỏ thân do một giống vi khuẩn Vibrio alginolyticus gây ra trên tôm sú. Cho đến nay bệnh này được phát hiện ở nhiều nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Nghiên cứu của Newman và Feng, 1982 cho biết loài cua đá (Callinectes irroratus) cũng có thể bị chết do cảm nhiễm Vibrio ở 20oC sau 24h.
Ở Việt Nam, ngay từ những năm 1989 – 1990 các nhà nghiên cứu đã phát hiện rằng bệnh Vibriosis, đặc biệt là bệnh phát sáng rất phổ biến trong các trại sản xuất tôm sú giống và trong ao nuôi thương phẩm (Đỗ Thị Hòa, 1995,1997). Những năm gần đây, nghề nuôi cá và động vật thân mềm nước mặn phát triển và bệnh Vibriosis đã trở thành bệnh thường gặp và gây nhiều tác hại cho nghề nuôi thủy sản.
Vi khuẩn thuộc giống Vibrio sống vào ký sinh trên cơ thể động vật thủy sản đều gây ra một số dấu hiệu bệnh lý nhất định. Cho đến nay, một số tác giả cho rằng Vibrio là tác nhân đầu tiên gây ra các bệnh cho tôm. Ngược lại một số tác giả lại cho rằng: Vibrio chỉ là tác nhân thứ 2. Bệnh này xảy ra như là kết quả của các điều kiện khác: tôm bị bệnh truyền nhiễm hay các bệnh về dinh dưỡng, tôm bị thương hoặc điều kiện môi trường khắc nghiệt. Trong nghiên cứu bệnh động vật thuỷ sản phân lập Vibrio từ mẫu bệnh không khó nhưng xác định vai trò của chúng trong một bệnh không đơn giản và cảm nhiễm trở lại khó thành công do không tạo được các yếu tố điều kiện để bệnh bùng phát.
2.3.2.2. Phân loại
Bộ: Eubacterriales
Họ: Vibrionaceae
Giống: Vibrio
Loài: V.alginolyticus; V.parahaemolyticus; V.anguillarum; V.harveyi; V. salmonicida; V.splendidus.
2.3.2.3. Đặc điểm chung
Giống Vibrio thuộc họ Vibrionaceae là những loài vi khuẩn Gram (-), hình que thẳng hoặc hơi uốn cong, kích thước 0,3 – 0,5 x 1,4 – 2,6mm. Chúng không sinh bào tử và chuyển động nhờ một hay nhiều tiên mao mảnh nằm ở một đầu vi khuẩn.
Tất cả những loài vi khuẩn thuộc giống Vibrio đều là vi khuẩn kỵ khí tùy nghi, vi khuẩn không phát triển trong môi trường không muối (NaCl) và không sinh H2S. Chúng mẫn cảm với thuốc thử Vibriostat 0/129.
Về cơ bản, các loài vi khuẩn này đều có mặt trong môi trường nước, đặc biệt là nước biển và cửa sông, Na+ kích thích cho sự phát triển của tất cả các loài Vibrio và nhiều loài là nhu cầu tuyệt đối. Hầu hết các mẫu phân lập từ bệnh vỏ và viêm ruột của tôm trưởng thành đều gặp loài V.alginolyticus; V. parahaemolyticus, V.anguillarum.
Hình 2.37: Khuẩn lạc của V.alginolyticus và V.parahaemolyticus
2.3.2.4. Đặc điểm dịch tễ
Đặc điểm phân bố
Địa lý: Bệnh Vibriosis có thể quan sát được ở khắp mọi nơi có nghề nuôi động vật thủy sản nước lợ và nước mặn. Sự phân bố của bệnh này rộng khắp thế giới, tập trung ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ. Từ mẫu bệnh phát sáng của ấu trùng và hậu ấu trùng, các tác giả đã phân lập được những loại khác nhau của giống vibrio. Như ở Philippines, C.L.pilogo, M.C.L Baticados; E.R.Crus và L.de Lapena đã phân lập được 2 loài V.harveyi và V.splendidus. Trong khi đó ở Thái Lan, người ta lại cho rằng tác nhân là V.parahaemolyticus. Ở Việt Nam, một số cán bộ của trường Đại Học Thủy Sản đã phân lập từ tôm bệnh được 2 loài vi khuẩn là V.alginolyticus và V.parahaemolyticus.
Ký chủ: Hầu như các loài động vật thủy sản nuôi nước lợ, mặn đều có thể bị nhiễm và chịu tác hại của bệnh Vibriosis như: các loài tôm he (Penaeus spp.) và tôm thẻ (Metapenaeus spp.), các loài tôm hùm châu Mỹ (Homarus spp.) và tôm hùm châu Á (Panulirus spp.), các loài cua biển như cua xanh, cua đá...
Giai đoạn phát triển: bệnh có thể xảy ra ở các giai đoạn ấu trùng, hậu ấu trùng, ấu niên, cơ thể trưởng thành, ở đàn bố mẹ của các loài tôm, cua... Tuy vậy, tùy theo từng loại bệnh mà vi khuẩn Vibrio có thể gây nặng ở giai đoạn này và nhẹ hơn ở giai đoạn kia. Ví dụ: Bệnh phát sáng do Vibrio harveyi có thể xảy ra ở nhiều giai đoạn khác nhau, nhưng tác hại nặng nhất là giai đoạn tiền ấu trùng Zoae và Mysis.
Con đường lan truyền: Trong hệ thống nuôi thuỷ sản vi khuẩn Vibrio xâm nhập vào ao theo một số con đường: nguồn nước, dụng cụ dùng, tôm mẹ hoặc tôm giống, thức ăn, đặc biệt là thức ăn tươi sống Artemia và chúng có thể nằm sẵn ở thành bể hay dưới đáy ao.
Mùa vụ xuất hiện bệnh
Mùa vụ xuất hiện bệnh do vi khuẩn Vibrio tùy thuộc theo loài và địa điểm nuôi. Theo nghiên cứu của một số tác giả nước ngoài và Việt Nam, Vibrio sp. tìm thấy phổ biến trong nước biển và vùng ven bờ, trong bể ương ấu trùng, bể ương tảo và bể ương Artemia.
Nhìn chung: Vi khuẩn Vibrio phân chia cơ thể rất nhanh ở độ mặn 10 – 40ppt (phát triển tốt nhất ở độ mặn 20 – 30ppt), lây lan nhanh ở nhiệt độ cao (mùa nóng), phát triển nhanh ở nơi có nhiều chất hữu cơ, oxy thấp và pH 7 – 9.
Trong bể ương lượng vi khuẩn Vibrio tăng theo thời gian nuôi, tầng đáy cao hơn tầng mặt, do đó biện pháp kỹ thuật xiphong đáy có tác dụng giảm mật độ Vibrio trong bể ương. Mật độ vi khuẩn Vibrio tăng nhanh rõ rệt khi thời tiết thay đổi, vào các thời điểm biển động do bão, gió mùa hay áp thấp nhiệt đới (Đỗ Thị hòa, 1997) hoặc theo con nước của thủy triều (nước cường, nước ròng).
Tác hại của bệnh
Bệnh do Vibrio sp. gây ra ở tôm có thể xảy ra ở dạng cấp tính hoặc mãn tính, trong trường hợp cấp tính, tỷ lệ chết có thể là 100%.
2.3.2.5. Dấu hiệu bệnh lý
Dấu hiệu lâm sàng
Tôm bị nhiễm Vibrio sp. ở trạng thái không bình thường, hôn mê, lờ đờ, kém ăn hoặc bỏ ăn. Tôm có thể nổi lên mặt ao, dạt bờ hay kéo đang bơi lòng vòng. Vỏ tôm bị mềm và xuất hiện các vết thương hoại tử, ăn mòn trên vỏ và các phần phụ.
Hình 2. 38: Đuôi tôm sú bị mòn cụt do nhiễm vi khuẩn Vibrio.
Khi vi khuẩn này cảm nhiễm trên vỏ kitin và mang có thể gây ra các vết thương tổn màu nâu đen do kitin đã bị ăn mòn và viêm nhiễm. Hội chứng này gọi là bệnh vỏ hay bệnh nhiễm nâu. Vỏ tôm có sự biến đổi thành màu đỏ hay màu xanh.
Hình 2.39: Lớp vỏ kitin của tôm mềm và có màu xanh.
Ấu trùng tôm và tôm giống có sự phát sáng ở phần giáp đầu ngực, nhìn trong tối sẽ thấy thân tôm phát sáng. Sau đó sẽ kèm theo hiện tượng lắng đáy, chết hàng loạt khi nhiễm V. parahaemolyticus và V. harveyi.
Hình 2.40: Hiện tượng phát sáng ở ấu trùng tôm sú.
Xuất hiện các điểm đỏ ở gốc râu, ngực, ở thân hay ở các phần phụ của ấu trùng giáp xác khi nhiễm V. alginolyticus. Xuất hiện vùng mờ ở phần cơ bụng, tôm bỏ ăn và xuất hiện sắc tố nâu đen trên mặt lưng của phần bụng gây nên những khoảng tối sáng khác với tôm bình thường. Các cơ quan phần phụ chuyển màu đỏ.
Dấu hiệu bệnh tích
Vi khuẩn Vibrio cũng có thể nhiễm ở gan tụy, ruột và một số vùng cơ của tôm. Tuy nhiên, khi giải phẩu cơ thể tôm bệnh chúng ta không thể phát hiện được dấu hiệu bệnh tích của tôm bệnh.
Sau đây là một số bệnh đặc trưng do Vibrio sp. gây ra trên tôm
2.3.2.6. Bệnh phồng đuôi
Tác nhân gây bệnh
Bệnh phồng đuôi ở tôm tuy không lan thành dịch bệnh lớn nhưng cũng ảnh hưởng khá lớn đến năng suất nuôi. Ao nuôi với mật độ dày có rất nhiều khả năng gặp phải bệnh này. Nguyên nhân chính là do số lượng thức ăn dư thừa và vật chất khác tích tụ ở đáy ao tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn phát triển, chủ yếu là vi khuẩn thuộc giống Vibrio mà chiếm đa số là Vibrio parahaemolyticus.
Hình 2.41: Vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus.
Dấu hiệu nhiễm bệnh
Vi khuẩn có khả năng tạo ra loại enzyme chitinase phân hủy lớp chitin của lớp vỏ tôm. Mép đuôi trở nên đen và nhìn giống như bị đốt cháy. Có nơi phồng len hoặc sưng bên trong – chứa nhiều dịch. Những vùng đen hoặc sưng là nơi chứa nhiều vi khuẩn. Các vi khuẩn này không thể phát triển tới các nơi khác của cơ thể, nếu tôm lột vỏ trước khi vi khuẩn xâm nhập vào lớp màng trong, phần đen của đuôi sẽ bị loại khỏi qua lớp vỏ cũ. Nếu quá trình nhiễm bệnh ở dạng mãn tính, lớp mô cơ của đuôi sẽ chết và hư hỏng, lúc này trở nên màu đỏ và sưng tấy.
Hình 2.42: Chân đuôi tôm sú bị phồng.
2.3.2.7. Bệnh đỏ dọc thân
Tác nhân gây bệnh
Nước và đáy ô nhiễm nặng, thức ăn thừa quá nhiều, công tác vệ sinh kém, nhiễm vi khuẩn Vibrio mà chủ yếu là Vibrio alginolyticus.
Dấu hiệu nhiễm bệnh
Bệnh xảy ra làm tôm có những chấm đỏ dọc thân sau đó lan dần hết toàn thân. Ở Thái Lan tôm ấu trùng khi bị bệnh này nghiêm trọng sẽ có hiện tôm nhợt nhạt mất khả năng bơi lội sau 2 – 3 ngày tôm có thể chết.
Hình 2.43: Tôm sú bị bệnh đỏ dọc thân.
2.3.2.8. Bệnh phát sáng
Đặc điểm của vi khuẩn V.harveyi
Nhóm Vibrio phát sáng là một phần của hệ vi sinh vật tự nhiên cư trú ở vùng ven bờ biển, được tìm thấy trên bề mặt và cà trên ruột của động vật sống ở biển. Vibrio harveyi và V. splendidus là 2 loài vi khuẩn phân lập từ các mẫu tôm ấu trùng và hậu ấu trùng bị bệnh phát sáng. Tuy nhiên Vibrio harveyi mới được xem là loài vi khuẩn chủ yếu gây bệnh phát sáng trên tôm.
Vibrio harveyi thuộc giống Vibrio, họ Vibrionaceae. Đặc điểm chung của V.harveyi là vi khuẩn gram âm, hình que thẳng hoặc hơi uốn cong, kích thước 0,3 – 0,5 x 1,4 – 2,6µm, gây ra hiện tượng phát sáng sinh học trên tôm trong môi trường biển. V.harveyi không có mối quan hệ cộng sinh với bất kỳ sinh vật biển nào, nó di chuyển bằng roi.
Hình 2.44: Vi khuẩn Vibrio harveyi.
Quan sát trong bóng tối các đĩa cấy V.harveyi trên môi trường phân lập đặc trưng thấy khuẩn lạc phát ra ánh sáng xanh nhạt. V.harveyi có khả năng kháng chịu rất nhiều loại kháng sinh thông thường như: erythromycin, penicillin, streptomycin và sulfadiazine. V.harveyi có khả năng tổng hợp enzyme catalase nên không bị tiêu diệt bởi H2O2.
Bảng 2.2 : Đặc điểm sinh hóa của Vibrio harveyi.
Đặc điểm
Vibrio harveyi
Nhuộm gram
-
Di động
+
Thử Oxydase
+
Phát sáng
+
Phát triển ở 4°C
-
Phát triển ở 37°C
+
Phát triển ở môi trường 0% NaCl
-
Phát triển ở môi trường 3% NaCl
+
Phát triển ở môi trường 7% NaCl
+
Mẫn cảm 0/129 (150µg)
S
Phát triển trên TCBS
xanh
Thử O/F Glucose
+/+
Thủy phân Arginine
-
Lysine Decarbonxylase
+
Orinithine Decarboxylase
-
Sử dụng Citrate
-
Urease
-
Khử Nitrate
+
Indol
+
Sinh H2S
-
Methyl red
+
Voges – Proskauer
-
Dịch hóa Gelatin
+
Axit hóa Arabinose
-
Axit hóa Glucose
+
Axit hóa Inositol
-
Axit hóa Mannitol
+
Axit hóa Salicin
-
Axit hóa Sucrose
-
Hiện nay vẫn chưa biết rõ về cơ chế gây bệnh của V.harveyi, Liu (1997) cho rằng protease, phospholipase hoặc hemolysin có thể giữ vai trò quan trọng trong việc gây bệnh, trong đó protease cystein giữ vai trò là ngoại độc tố chính chính đối với động vật thủy sản. Montero và Austin (1999) cho rằng lipopolysaccharide có thể hình thành nên độc tố gây chết của V.harveyi dòng E2 đối với tôm. Nhìn chung hemolysin của vi khuẩn đã được coi là yếu tố quan trọng của các Vibrio gây bệnh bằng cách gây nhiễm trùng máu và tiêu chảy ở vật chủ.
Phân tử tín hiệu Quorum Sensing ở Vibrio harveyi
Khái niệm quorum sensing
Quorum sensing là cơ chế thông tin liên lạc giữa tế bào với tế bào, phối hợp với sự biểu hiện gene trong tế bào vi khuẩn để đáp ứng lại mật độ tế bào bằng cách sản xuất, giải phóng và dò tìm các phân tử dấu hiệu nhỏ, được gọi là các phân tử autoinducer (Defoirdt et al., 2004; Tu and Bassler, 2007; Tinh et al., 2007). Hệ thống quorum sensing điều khiển một số quá trình ở vi khuẩn gây bệnh như sự phát sáng, sự tiếp hợp, tạo thành khối u, sự quần tụ bầy đàn, sự hình thành bào tử, sự ăn mòn sinh học, sản xuất các chất kháng kháng sinh và quan trọng nhất là sự hình thành biofilm và các nhân tố gây độc ở vi khuẩn như các enzyme thủy phân, độc tố, siderophore và các phân tử gắn kết (Defoirdt et al, 2004; Tinh et al, 2007).
Cơ chế hoạt động của hệ thống Quorum sensing
Ở V. harveyi, HAI – 1 (Harveyi Autoinducer – 1) là một AHL (Acyl Homoserine Lactone) và quá trình sinh tổng h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- do an tot nghiep - p2.docx
- do an tot nghiep - p1.docx