MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Chương I. Lịch sử hình thành tín dụng và vai trò của nó đối với nền kinh tế 2
I. Khái quát lịch sử ngân hàng và tín dụng ngân hàng. 2
II. Vai trò của tín dụng ngân hàng. 2
1. Khái niệm và đặc điểm tín dụng ngân hàng: 2
2. Vai trò của tín dụng ngân hàng 3
Chương II: Tín dụng ngân hàng trong thời kỳ CNH-HĐH ở Việt Nam 12
I. Lịch sử ngành Ngân hàng Việt Nam và những đóng góp của Ngân hàng và tín dụng ngân hàng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc. 12
II. Thực trạng hoạt động tín dụng Ngân hàng ở Việt Nam hiện nay. 15
1. Những kết quả tích cực trong hoạt động tín dung Ngân hàng. 15
2. Những thách thức cần vượt qua để phát huy vai trò của tín dụng ngân hàng. 20
Chương III: Những giải pháp và xu hướng phát triển của tín dụng ngân hàng trong tương lai. 24
I. Hoàn thiện các chính sách của nhà nước về tín dụng ngân hàng và những vấn đề khác có liên quan. 24
1. Các biện pháp xây dựng chính sách tín dụng ngân hàng hợp lý. 24
2. Hoàn thiện các vấn đề liên quan. 25
II. Những giải pháp Ngân hàng cần thực hiện để phát huy vai trò của tín dụng ngân hàng. 27
1. Đẩy mạnh các biện pháp huy động vốn. 27
2. Hoàn thiện công tác cho vay của ngân hàng. 28
Kết luận 30
Tài liệu tham khảo 31
32 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1549 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế Việt Nam trong thời kì CNH-HĐH và xu hướng phát triển của nó trong tương lai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngân hàng kiểm soát lượng vốn cho vay nhằm bảo đảm an toàn cho số vốn đó nhưng đứng về phía Ngân hàng không có gì bảo đảm rằng Ngân hàng không vì lợi nhuận mà toàn bộ hoặc phần lớn lượng vốn huy động được và sự mất khả năng thanh toán có thể xảy ra bất kì lúc nào và khi Ngân hàng lâm vào tình trạng đó thì sẽ đẫn đến một cuộc khủng hoảng lớn trong hệ thống ngân hàng và toàn nên kinh tế. Để ngăn chặn nguy cơ đó, Nhà nước quy định một tỷ lệ dự trữ trên cơ sở lượng vốn mà Ngân hàng đã huy động được, gọi là tỷ lệ dữ trữ bắt buộc, nhằm bảo đảm khả năng thanh toán cho Ngân hàng trong mọi tình huống.
Xuất phát từ quan hệ tín dụng Ngân hàng đã hình thành nên phạm trù “tỷ lệ dự trữ bắt buộc”. Tiếp đó tín dụng Ngân hàng đã tạo cho hệ thống các Ngân hàng thương mại môt khả năng vô cùng quan trọng đó là khả năng tạo tiền. Giả sử Ngân hàng thứ nhất nhận một lượng tiền gửi là 10000 USD, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%. Ngân hàng này sẽ dự trữ là 10% * 10000 = 1000 USD và cho vay ra 10000 – 1000 = 9000 USD. 9000USD này lại được gửi vào Ngân hàng thứ hai, Ngân hàng này sẽ dự trữ là 9000 * 10% = 900 USD và cho vay là 9000 – 900 = 8100 USD. Và quá trình này lại được tiếp tục qua các Ngân hàng tiếp theo.
Tổng số tiền gửi vào hệ thống Ngân hàng là:
10000 + (10000 * 90%) + (10000* 90%)*90% +...+ 0
=10000*[1/(1-90%)]= 10000/10% =100000 USD
Tổng số tiền dự trữ:
1000 +1000*90% +(1000*90%)*90% +...+ 0
=1000*[1/(1-90%)]= 1000/10% =10000 USD
Tổng số tiền cho vay:
9000 +9000*90% +(9000*90%)*90% +...+ 0
=9000*[1/(1-90%)] =9000/10% = 90000 USD
Như vậy từ 10.000 USD tiền mặt qua hệ thống Ngân hàng thương mại đã tăng lên thành 100.000 USD, cho vay được 90.000 USD, dự trữ 10.000 USD.Với tỷ lệ dự trữ bắt buộc là rr(%) thì 1 đồng tiền mặt qua hệ thống Ngân hàng thương mại sẽ tăng lên thành 1*(1/rr) >1, lượng tiền mặt cho lưu thông đã tăng lên (trong đó 1/rr được gọi là số nhân tiền tệ)
Nhà nước dựa vào khả năng đó của hệ thống Ngân hàng thương mại mà tiến hành quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế thông qua công cụ “tỷ lệ dự trữ bắt buộc”. Tuỳ thuộc vào tình hình phát triển kinh tế mà Nhà nước áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt hay nới lỏng. Giả sử khi nền kinh tế quá nóng, nguy cơ lạm phát cao hoặc đang lạm phát Nhà nước có thể giảm lượng tiền mặt trong lưu thông thì một trong những cách mà nhà nước có thể thực hiện đó là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc rr làm giảm số nhân tiền từ đó mà làm giảm lượng tiền tạo ra qua hệ thống Ngân hàng thương mại và tất nhiên Nhà nước hoàn toàn có thể làm ngược lại khi muốn tăng lượng cung tiền cho nền kinh tế.
Ngoài công cụ là tỷ lệ dự trữ bắt buộc Nhà nước cũng có thể sử dụng công cụ lãi suất tín dụng trong quản lý kinh tế. Khi muốn khuyến khích các nhà đầu tư vào một ngành, lĩnh vực nào đó Nhà nước thông qua Ngân hàng hạ lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vưc đó, ngược lại để hạn chế những ngành khác Nhà nước tăng lãi suất cho vay đối với các doanh nghiệp đâù tư vào ngành đó. Nhờ đó Nhà nước có thể cân đối nền kinh tế, thực hiện những mục tiêu kế hoạch đã đề ra. Với công cụ lãi suất chiết khấu là lãi suất cho vay của Ngân hàng TW đối với Ngân hàng thương maị Nhà nước cũng có thể tăng giảm lượng tiền trong lưu thông. Khi lãi suất chiết khấu tăng thì lãi suất cho vay của Ngân hàng thương mại cũng tăng sẽ làm giảm lượng tiền vay của công chúng làm giảm lượng tiền trong lưu thông.
Như vậy thông qua hoạt động tín dụng mà các Ngân hàng có thể thực hiện chức năng kiển soát nền kinh tế mặt khác tín dụng Ngân hàng đã tạo ra các công cụ của chính sách Tái chính-Tiền tệ cho Nhà nước, góp phần ổn định nền kinh tế,thưc hiện các mục tiêu kinh tế xã hội
Chương II: TíN DụNG NGÂN HàNG TRONG ThờI Kỳ CNH-HĐH ở VIệT NAM
I. Lịch sử ngành Ngân hàng Việt Nam và những đóng góp của Ngân hàng và tín dụng ngân hàng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Ngân hàng ở Việt Nam ra đời gắn liền với quá trình sâm lược và khai thác thuộc địa của thực dân Pháp (1858). Để thực hiện chính sách khai thác và bóc lột của mình, thực dân Pháp đã xây dưng nhiều xí nghiệp, đồn điền, hầm mỏ nhằm bóc lột nhân dân lao động. Các hoạt động kinh tế của thực dân Pháp ở Đông Dương được rở rộng đòi hỏi phải có Ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ tín dụng hỗ trợ vốn cho các hoạt động đó và Ngân hàng Đông Dương ra đời.
Cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, phần lớn các Ngân hàng ở Việt Nam đếu là Ngân hàng nước ngoài. Mãi đến năm 1927 mới có một Ngân hàng đầu tiên của người Việt Nam có tên là An Nam Ngân hàng hỗ trợ cho những hoạt động trong nông nghiệp là chủ yếu.
Sau Cách mạng tháng 8, Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam vào ngày 6/5/1951(nay là Ngân hàng nhà nước Việt Nam) có các nhiệm vụ chủ yếu sau: “quản lý việc phát hành giấy bạc và lưu thông tiền tệ; quản lý kho bạc nhà nước; huy động vốn và cho vay phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hoá; quản lý hoạt động kim dung bằng biện pháp hành chính; quản lý ngoại hối và các khoản giao dịch bằng ngoại tệ.”
Giấy bạc Ngân hàng ra đời chủ yếu nhằm tác động tích cực đến sản xuất và lưu thông hàng hoá trên cơ sở từng bước mở rộng tín dụng Ngân hàng trong mối quan hệ giữa Ngân hàng –tài chính –Mậu dịch quốc doanh. Ngân hàng Quốc gia Việt Nam phát hành đồng tiền ngân hàng và đồng thời thu hồi tiền tài chính vơí tỷ lệ 1/10. Nói chung giấy bạc Tài chính TW đều được thu hồi nhưng do đặc điểm tình hình khác nhau ở các khu vực mà các bước phát hành tiền ngân hàng ở mỗi khu vực cũng khác nhau nhằm hạn chế sự phá hoại của kẻ thù. Bằng những biện pháp trên kết quả Ngân hàng đã thu hồi được 80% tổng số tiền tài chính ở Bắc Bộ. Và ở những vùng giải phóng, ta chiếm lĩnh thị trường tiền tệ trên cơ sở quét sạch tiền địch với phương châm “ đuổi là chính, đổi là phụ”.
Trên mặt trân nông nghiệp,ngân hàng cho vay nhằm hỗ trợ nông dân nghèo mua sắm tư liệu sản xuất chính như: trâu bò, nông cụ, phân, giống,...để tăng sản xuất lương thực, và ở những vùng có điều kiện thì giúp đỡ phục hồi phát triển cây công nghiệp để cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp và cung cấp vật tư cho mậu dịch quốc doanh. Sau hội nghị cán bộ Ngân hàng toàn quốc lần 1 (2/1952) Ngân hàng đã chuyển hướng tín dụng, từ cho vay trực tiêp nông nghiệp sang tập trung vốn phần lớn cho mậu dịch quốc doanh và mở rộng cho vay vận tiêu nông, lâm, thổ sản mở luồng lưu thông, thúc đẩy sản xuất phát triển. Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc bước vào thời kì đi lên Chủ nghĩa xã hội, Tiền tệ -Tín dụng –Ngân hàng được sử dụng làm công cụ khôi phục kinh tế, tổ chức sản xuất và lưu thông hàng hoá, cải thiện đời sống của nhân dân.
- Trong hai năm đầu (1955-1957), thực hiện Nghị quyết của Bộ chính trị “ hàn gắn vết thương chiến tranh, phục hồi kinh tế quốc dân, trước hết là phục hồi và phát triển nông nghiệp”, Ngân hàng nhà nước đã kịp thời chuyển hướng cho vay từ vận tiêu nông, lâm, thổ sản trước đó thành trực tiếp cho vay nông nghiệp, giúp đỡ nông dân ở những nơi đã cải cách ruộng đất, mua xắm trâu bò cày và ở vùng giải phóng đã khai phá gần 15 vạn ha ruộng hoang hoá. Đồng thời với cho vay nông nghiệp, ngân hàng nhà nước đã tập trung 90% vốn tín dụng cho ngành thương nghiệp, đẩy mạnh giao lưu hàng hoá giữa thành thị và nông thôn, củng cố và tăng cường lực lượng quốc doanh, hợp tác xã mua bán, tạo điều kiện điều chỉnh công thương nghiệp tư bản tư doanh và bước đầu cải tạo họ theo đường lối kinh tế xã hội chủ nghĩa.
- Tiếp đến là thời kì cải tạo và phát triển kinh tế (1958-1960), ngân hàng tập trung vốn phục vụ phong trào hợp tác hoá nông nghiệp, ưu tiên lãi suất với các tổ vần công, đổi công và hợp tác xã, đồng thời nhanh chóng mở rộng hợp tác xã tín dụng nông thôn, đi trước một bước phát triển hợp tác xã nông nghiệp.
- Bước vào thời kì kế hoach 5 năm lần thứ nhất (1961-1965), nhằm thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc do Đại hội Đảng lần III vạch ra, Ngân hàng nhà nước hết sức quan tâm đến công tác nguồn vốn, kết hợp chặt chẽ việc động viên và tập trung mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế với việc áp dụng chế độ tín dụng đúng đắn và phát hành tiến mặt một cách có kế hoạch nhằm thực hiện thắng lợi kế hoạch nhà nước. Đối với kinh tế quốc doanh, tín dụng ngân hàng đã tham gia khoảng 70% vốn lưu động hàng hoá của các xí nghiệp thương nghiệp và 40% vốn lưu động sản xuất của các xí nghiệp công nghiệp. Để đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ (bắt đầu vào ngày 5/8/1964), Ngân hàng nhà nước đã chuyển hướng mọi mặt hoạt động nghiệp vụ, tập trung phục vụ bảo vệ và duy trì sản xuất, tích cực giúp đỡ các xí nhiệp và các tổ chức kinh tế sơ tán,... Đồng thời trong thời gian này, mạng lưới hợp tác xã tín dụng đã được sử dụng chiệt để, đảm nhận phần quan trọng về nghiệp vụ tiền tệ, tín dụng ở nông thôn, nhất là công tác huy động vốn gửi tiết kịêm, kể cả cho vay ngắn hạn với hợp tác xã nông nghiệp.
Tóm lại từ sau Cách mạng tháng 8 vấn đề luôn luôn khó khăn với chính quyền cách mạng là Tài chính-Tiền tệ-Tín dụng-Ngân hàng. Nhưng Đảng và nhân dân ta đã vượt qua những khó khăn đó xây dựng được hệ thống tiền tệ thống nhất, thành lập được Ngân hàng quốc gia riêng, xác định được một chính sách tiền tệ hợp lý, biết quản lý tập trung thống nhất và có kỷ luật. Tiếp đó hệ thống Tiền tệ –Tín dụng –Ngân hàng Xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và củng cố trong giai đoạn 1955-1975 góp phần lớn vsò công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thống nhất nước nhà.
II. Thực trạng hoạt động tín dụng Ngân hàng ở Việt Nam hiện nay.
1. Những kết quả tích cực trong hoạt động tín dung Ngân hàng.
1.1. Những ưu thế của tín dụng Ngân hàng.
Có thể nói từ đại hội VI (1986) đến nay, thị trường vốn chủ yếu của Việt Nam là tín dụng qua Ngân hàng nếu không kể đến lượng trái phiếu Chính phủ phát hành trực tiếp ra công chúng và thị trường bảo hiểm còn nhỏ bé. Sở dĩ thị trường tín dụng Ngân hàng chiếm ưu thế trong thời gian qua là do một số nguyên nhân sau:
Thứ nhất, Ngân hàng là nơi tập trung vốn có ưu thế nhất từ những lượng tiền tiết kiệm trong dân cư và từ Ngân sách nhà nước.Công chúng Việt Nam luôn tin tưởng vào Nhà nước, tin tưởng vào sự bảo đảm an toàn của nhà nước đối với số tiền gửi.Cho đến nay các kênh tiết kiệm và huy động vốn hầu như không có, nếu có thì rất yếu kém nên tiền tiết kiệm tập trung vào Ngân hàng là đương nhiên.
Thứ hai, quan hệ mua bán chịu hàng hoá giữa các doanh thương đã có những bước phát triển nhưng ở Việt Nam lại chưa có thị trường thương phiếu, không có cơ sở pháp lý hoàn chỉnh để điều chỉnh các quan hệ trong hoạt động mua bán chịu. Do đó dễ nẩy sinh nhiều tiêu cực không được giải quyết chính vì vậy mà các doanh nghiệp càng dựa hơn vào Ngân hàng.
Thứ ba, chỉ có Ngân hàng mới đủ khả năng tích độ đủ quy mô về vốn trong dân cư và doanh nghiệp với khả năng tích luỹ thấp như hiện nay để tài trợ cho các dự án. Các định chế tài chính trung gian ngoài ngân hàng như Công ty bảo hiểm, Công ty tài chính còn kém phát triển như ở nước ta hiện nay.
Thứ tư, trong thời gian qua và hiện tại, các doanh nghiểp trong nước, nhất là doanh nghiệp nhà nước còn dựa vào số lượng vốn vay từ Ngân sách nhà nước qua Ngân hàng thương mại quốc doanh. Đây là nguồn vốn khá ưu đãi nên các hình thức vay vốn trực tiếp khác khó có thể cạnh tranh được
1.2. Tín dụng Ngân hàng với các ngành kinh tế.
1.2.1. Vai trò của tín dụng Ngân hàng với toàn bộ nền kinh tế.
Vốn đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một vấn đế cực kỳ quan trọng và cấp bách trong cuộc sống hiện nay và nhiều năm tới của nước ta. Trong chiến lược kinh tế xã hội đến năm 2010, Đảng ta chỉ rõ: Chinh sách tài chính quốc gia hướng vào việc tạo vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩn xã hội, và thu nhập quốc dân... Tạo vốn và sử dụng vốn là những vấn đề đang được Nhà nước và ngành Ngân hàng đặc biệt quan tâm. Có huy động những nguồn vốn bên ngoài và phát triển nhanh nguồn vốn trong nước mới có thể đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nhìn lại giai đoạn 1991-2000 để thấy được vai trò của vốn Ngân hàng trong những năm qua.
Theo báo cáo về sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong giai đoạn 1996-2000 nền kinh tế Việt Nam cần khoảng 50 tỷ USD, trong đó nguồn vốn trong nước đáp ứng được khoàng 45% nhu cầu, phần còn lại phải nhờ vào đầu tư từ bên ngoài. Từ đó có thể thấy yêu cầu về vốn đầu tư trong những năm cuối của thập kỷ 90 khá nặng, mỗi năm cần khoảng 8-9 tỷ USD và trong tương lai, theo yêu cầu phát triển của đất nước đến năm 2020 nước ta về cơ bản trở thành một nước công nghiệp thì sự nan giải về tạo vốn cho công nghiệp hoá hiện đại hoá còn lớn hơn rất nhiều rất nhiều.
Có thể nói nguồn vốn cho nền kinh tế do Ngân hàng đảm nhiệm cung ứng là rất to lớn, ngoài ra còn có nhiều kênh đầu tư từ Ngân sách, nguồn FDI, ODA, từ doanh nghiệp và tư nhân tự đầu tư. Lâu nay, Ngân hàng đã có nhiều cố gắng trong việc huy động vốn nhàn rỗi trong các doanh nghiệp và dân cư nhằm đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển.Công cuộc đổi mới toàn diện trên đất nước ta mở đầu từ Đại họi VI của Đảng, trải qua 15 năm trong hoàn cảnh đầy khó khăn và thử thách, đã thu được những thành tựu to lớn: nền kinh tế tăng trưởng và ổn định, cơ cấu kinh tế được chuyển dịch theo hướng: Kinh tế quốc doanh vẫn giữ một vị trí quan trọng trong những khâu then chốt...Trong những thành tựu ấy có sự đống góp quan trọng của ngành Ngân hàng. Cơ cấu tín dụng Ngân hàng đã tăng dần cho lĩnh vực kinh tế ngoài quốc doanh, trong khi bảo đảm có chọn lọc những doanh nghiệp Nhà nước kinh doanh có hiệu quả. Tỷ trọng cho vay các xí nghiệp quốc doanh năm 1991 là 90% và doanh nghiệp ngoài quốc doanh là 10% thì đến năm 1995 thì tỷ trọng đó là 58,5 % và 41,5%. Lâu nay Ngân hàng vẫn hoạt động ngắn hạn là chủ yếu. Để phục vụ tốt quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá Ngân hàng đã chú ý mở rộng tín dụng trung và dài hạn. Tỷ trọng vốn vay ngắn hạn từ 85% và trung hạn là 15% (năm 1991) thì đến năm 1994 đã thay đổi là 67% và 33%, so năm 1995 với năm 1994 dư nợ cho vay ngắn hạn tăng 36,7%, dư nợ cho vay trung và dài hạn tăng 26,6%.
Sau đây là cơ cấu tín dụng Ngân hàng qua các năm.
(Đơn vị: %)
Năm
Quốc doanh
Ngoài quốc doanh
Dư nợ vay ngắn hạn
Dư nợ vay trung-dài hạn
1991
90
10
85
15
1992
80
18
84
16
1993
72
28
77
23
1994
65
35
67
33
1995
58
41
75
25
Sự tăng trưởng tín dụng vào những định hướng của nền kinh tế quốc dân đã tạo nên cơ cấu tín dụng ngày càng hợp lý, thúc đẩy từng bước sự thay đổi cơ cấu kinh tế. Cùng với việc mở rộng tín dung đến tất cả các thành phần kinh tế, hệ thống Ngân hàng dặc biệt quan tâm đến lĩnh vực nông nghiệp nông thôn, quan tâm đến cho vay xuất khẩu, tăng cường đầu tư một số ngành công nghiệp mũi nhọn như điện tử, cơ khí, năng lượng... Hầu hết các chương trình ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, phát triển một số ngành mũi nhọn, tạo nhiều việc làm, xây dựng nhà ở đều do Ngân hàng tài trợ. Bên cạnh đó, các Ngân hàng thương mại đóng góp tích cựu vào việc thực hiện các chính sách xã hội của Đảng và nhà nước ta như cho người nghèo, sinh viên, đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa... vay vốn. Nhiều công cụ và hình thức huy động vốn đa dạng đang được sử dụng trong hệ thống ngân hàng kỳ phiếu ngân hàng, tiết kiệm xây dựng nhà ở... Nhờ đó hoạt động vốn của Ngân hàng đã tăng liên tục với tỷ lệ khá cao: Năm 1991 tăng 68%, năm 1992 tăng 19%, năm 1993 tăng 14%, năm 1994 tăng 59% và năm 1995 tăng 32%. Nguồn vốn trong nước đã được tăng trưởng cùng với nguồn vốn từ nước ngoài là điều kiện cơ bản đã góp phần tích cực tăng đầu tư phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Từ những kết quả đã đạt được trong giai đoạn 1991-2000 ta có thể tóm gọn lại vai trò của tín dụng Ngân hàngthể hiện qua các mặt sau:
Một là, tín dụng là công cụ, đòn bẩy mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và điều hành nền kinh tế thi trường.Tăng trưởng kinh tế gắn với mức vốn đầu tư tương ứng bằng các nguồn vốn tích luỷ trong nước và vốn từ nước ngoài.Việc huy động nguồn vốn gắn với vai trò tín dụng Ngân hàng:
- Tín dụng góp phần giảm hệ số tiền nhàn rỗi và nâng cao hiệu quả sử dụng vổn trong tất cả các thành phần kinh tế thông qua đi vay và cho vay.
- Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy quá trình giao lưu kinh tế quốc tế
- Tín dụng Ngân hàng góp phần tích cực vào việc hình thành và phát triển về mặt vốn cho các công ty, xí nghiệp và tổ chức kinh tế
Việc điều chỉnh nền kinh tế thị trường ở tầm vĩ mô của Nhà nước được thực hiện bằng nhiều công cụ trong đó tín dụng Ngân hàng có ý nghĩa quan trọng: bởi vì thông qua hoạt động tín dụng Ngân hàng, sẽ làm biến đổi điều kiện sản xuất kinh doanh, dịch vụ của các chủ thể kinh tế theo hướng tối ưu, góp phần làm cho chu kỳ vận động của tiền tệ được rút ngắn về thời gian nâng cao vòng quay của tiền tệ.
Hai là, tín dụng là động lực mạnh mẽ đối với việc hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá...
Với tư cách là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, tín dụng trở thành động lực kích thích các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp và dân cư trong mọi thành phần kinh tế thực hiện tiết kiệm, thúc đẩy quá trình tích tụ,tập trung vốn tiền tệ tam thời nhàn rỗi, phân tán thành nguồn vốn đầu tư cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Nhà nước có thể tập trung vốn tín dụng thông qua Ngân hàng để đầu tư cho nông nghiệp và các ngành mũi nhọn nhằm tạo cơ cấu kinh tế hợp lý.
Tín dụng Ngân hàng kích thích và buộc các doanh ngiệp, các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế sử dụng vốn có hiệu quả hơn.
Như vậy, tín dụng ngân hàng không chỉ là công cụ, đòn bẩy kinh tế mà còn là công cụ mà nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế; là động lực có tác dụng to lớn để hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá.
1.2.2. Tín dụng ngân hàng với quá trình CNH-HĐH nông thôn.
Một trong những thành công nổi bật nhất của công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta là những thành tưụ trên lĩnh vực nông nghiệp, đặc biệt là đã giải quyết được vấn đề lương thực. Trong đó tín dụng nói chung và tín dụng nông thôn nói riêng có vai trò hết sức to lớn. Nói đến tín dụng nông thôn phải kể đến vai trò của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn (NHNN & PTNT) vừa là ngân hàng chính sách vừa là ngân hàng thương mại, kinh doanh tiền tệ. Về chức năng thương mại, NHNN & PTNT phải hoạt động theo quy luật thị trường, phải cạnh tranh, bảo toàn vốn và sinh lời theo nguyên tắc đi vay để cho vay. Về chức năng của một Ngân hàng chính sách nay đã chuyển giao cho Ngân hàng phục vụ người nghèo, tuy nhiên NHNH & PTNT vẫn chịu trách nhiệm cung cấp cán bộ nhân viên, cơ sở vật chất, chi phí hoạt động và làm nhiệm vụ giải ngân cho Ngân hàng phục vụ ngời nghèo. Không chỉ có vậy, NHNN & PTNT thực hiện các chương trình cho vay ưu đãi đối với nông nghiệp, nông thôn như chương trình “ Sống chung với lũ” ở đồng bằng sông Cửu Long. Chỉ tính riêng năm 1998, NHNN & PTNT đã cho 256472 hộ vay 1.051 tỷ đồng để tôn nền, làm nhà nhà sàn trên cọc vượt lũ đông bằng sông Cửu Long với tổng diện tích là 21.657.000 m2 sàn nhà. Thực hiện chương trình “xoá đói giảm nghèo” của Chính phủ NHNN & PTNT đã thành lập Quỹ cho vay ưu đãi hộ nghèo thiếu vốn sản xuất, mức tối đa 2,5 triệu đồng/hộ, lãi suất 1,2%/tháng, với thời hạn 3 năm và không phải thế chấp. Cuối năm 1998 đã có gần 20 triệu hộ nghèo thiếu vốn sản suất được vay, bằng 9% hộ nghèo đói theo tiêu chuẩn của Bộ lao động - Thương binh và Xã hội. NHNN & PTNT đã chuyển gần 300 tỷ đồng cho các tổ chức xã hội để cho hội viên vay vốn. Vớí nhiều dự án cho người nghèo vay vốn, phần vốn cho người nghèo ở nông thôn chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng số vốn cho vay của NHNH & PTNT. Ngoài ra NHNN & PTNT còn cho vay xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn bao gồm đường giao thông, thuỷ lợi, đường điện ở làng xã...
Với những hoạt động đó, chỉ tính đến năm 1997, tổng dư nợ của NHNN & PTNT đạt 24.730tỷ đồng, gấp 16 lần năm 1990. Khách hàng chủ yếu của Ngân hàng là hàng chục triệu hộ nông dân. Riêng năm 1997, có 6,6 triệu hộ còn dư nợ ngân hàng. NHNN & PTNT đã đẩy mạnh cho vay đối với hộ sản xuất, chú trọng cho vay với những hộ sản xuất chất lượng cao, có áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới giống cây trồng với năng suất cao; ngân hàng còn chú ý cho vay đối với các hộ kinh tế trang trại, một mô hình kinh tế đang phát triển và đang trở thành lực lượng sản xuất to lớn ở nông thôn nước ta. Năm 1997, dư nợ cho vay hộ sản xuất đạt 13.000 tỷ đồng, 6 tháng đầu năm 1998 là 15.000 tỷ đồng, chiếm 63% tổng dư nợ cho vay.
Thành công lớn nhất của việc cho vay vốn đối với hộ nông dân là góp phần đưa sản lượng lương thực năm sau cao hơn năm trước,bộ mặt nông thôn đang dần thay đổi. Nhờ có vốn mà hộ nông dân mới có khả năng mua cây, con giống, mua sắm phương tiện sản xuất, tiếp cận với khoa học kỹ thuật, nâng cao mức sống của gia đình, giảm dần số lượng hộ nghèo đói, các chương trình chính sách của Nhà nước về xoá đói giảm nghèo ở nông thôn được thực hiện.
2. Những thách thức cần vượt qua để phát huy vai trò của tín dụng ngân hàng.
2.1. Những bất cập từ các chính sách của Nhà nứơc.
Nền kinh tế nước ta cũng như nền kinh tế của các nước trên thế giới hiện nay là nền kinh tế thị trường có sự quản lý và điều tiết của Nhà nước nhằm tránh những thất bại của thị trường cũng như để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của Nhà nước. Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật làm cơ sở pháp lý cho mọi hoạt động xã hội nói chung.
Nhà nước ta trong những năm qua đã và đang không ngừng xây dựng và hoàn thiện một hệ thống pháp luật thống nhất, chặt chẽ tạo điều kiện cho xã hội phát triển đặc biệt là các thành phần kinh tế. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề trong các văn bản cần phải giải quyết và những văn bản điều chỉnh cho hoạt động tín dụng ngân hàng cũng không nằm ngoài số đó.
Nhiều văn bản điều chỉnh hoạt động tín dụng lại như những sợi dây trói chân trói tay bằng các quy định quá cụ thể nhưng lại thiếu những hướng dẫn cần thiết, kịp thời trên một số lĩnh vực mới. Như các văn bản về cơ chế tín dụng (từ Quyết định 284 đến các văn bản trước đó) thể chế hoá vấn đề tiền vay thành một nguyên tắc tín dụng khiến cho các Ngân hàng thương mại không giám thoát ly khỏi nguyên tắc này vì sợ bị quy tội “cố ý làm trái theo Bộ luật hình sự”. Một ví dụ về pháp lệnh thương phiếu đã có hiệu lực từ ngày1/7/2000 nhưng đến nay vẫn chưa có các văn bản hướng dẫn thi hành từ phía Chính phủ cùng như từ các Bộ, ngành liên quan. Sự chậm trễ đó đã cản trở các Ngân hàng thực hiện nghiệp vụ triết khấu Thương phiếu.
Trên thực tế còn rất nhiều những khó khăn cản trở do sự chậm trễ, thiếu đồng bộ của các văn bản hướng dẫn của nhà nước. Chính những hạn chế đó là rào cản lớn kìm hãm sự phát triển của Ngân hàng và tín dụng ngân hàng.
2.2. Những khó khăn cần tháo gỡ từ phía khách hàng.
Xem xét về đối tượng khách hàng của các Ngân hàng:
Các doanh nghiệp nước ta hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chỉ tính dến tháng 6/1995 số doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tới trên 90% tổng số doanh nghiệp trong cả nước, những hộ kinh doanh nhỏ lẻ đăng kí kinh doanh theo Nghị định 66/HĐBT ngày 2/3/1992 phải lên tới con số hàng triệu. Những đối tượng này khi gặp khó khăn về vốn rất cần có sự hỗ trợ về vốn của Ngân hàng nhưng họ lại không thể đáp ứng được những yêu cầu của Ngân hàng như không có tài sản thế chấp, cầm cố, làm ăn thua lỗ, mạo hiểm, không kể đến nhiều doanh nghiệp mafia lũng đoạn nội bộ với nhiều mánh khoé thủ đoạn buôn lậu lừa đảo...cho nên việc vay vốn ở Ngân hàng là không tưởng.
Với đối tượng khách hàng là những hộ sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, nhất là ở những nơi vùng sâu vùng xa, trình độ hiểu biết pháp luật của những người nông dân rất kém, họ không có một chút kiến thức khoa học kỹ thuật nào trong sản xuất, không có kiến thức về tổ chức quản lý sản xuất sao cho có hiệu quả nhất, mọi hoạt động chỉ chủ yếu dựa vào kinh nghiệm. Nguyên nhân chính của vấn đề đó là văn hoá thấp, thậm chí có nhiều người không biết chữ khi kí kết các giấy tờ chỉ biết điểm chỉ vì vậy rất khó khăn trong việc thực hiện các thủ tục ngân hàng để vay vốn. Nếu hiểu văn hoá, dân trí theo một nghĩa rộng hơn thì nó bao gồm sự hiểu biết về thị trường, pháp luật, về các cơ chế chính sách của Nhà nước, về quan hệ tín dụng ngân hàng, về vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế. Thì dân trí thấp không loại trừ cả những cán bộ, nhân viên của Nhà nước. Trình độ dân trí của người dân thấp làm phát sinh những hiện tượng như vay nợ để tiêu sài rồi mất khả năng thanh toán, tiếp đó là tìm cách trốn nợ, xù nợ, sinh ra các khoản nợ xấu.
Sự yếu kém của các doanh nghiệp, trình độ dân trí thấp của khách hàng đã phá vỡ quan hệ tín dụng. Từ vấn đề này làm phát sinh yêu cầu phát triển giáo dục toàn diện là một yêu cầu cấp bách cho sự phát triển kinh tế nói chung và tín dụng ngân hàng nói riêng.
2.3. Những vấn đề cần giải quyết trong nội bộ Ngân hàng.
Nhưng khó khăn trong quan hệ tín dụng không chỉ xuất phát từ phía Nhà nước và khách hàng mà còn từ bản thân ngân hàng, từ những chính sách, thủ tục cho vay, từ những hoạt động khác của ngân hàng. Nhìn một cách khái quát những hạn chế của ngân
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35144.doc