Đề tài Tình hình đầu tư phát triển của công ty chế biến ván nhân tạo – Licola

I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN.

1. Khái niệm về đầu tư.

1.1. Khái niệm.

1.2. Phân loại.

2. Đầu tư phát triển và vai trò của nó.

2.1. Hoạt động đầu tư phát triển - vốn đầu tư phát triển.

2.1.1. Hoạt động đầu tư phát triển.

2.1.1. Vốn đầu tư phát triển.

2.2. Đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển.

2.3. Vai trò của hoạt động đầu tư phát triển.

2.3.1. Vai trò đối với nền kinh tế.

2.3. Vai trò đối với các cơ sở sản xuất - kinh doanh dịch vụ

4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp:

5/ Đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp:

5.1/Hiệu quả tài chính:

5.2 Hiệu quả kinh tế xã hội:

 Chương II: Thực trạng Đầu tư của công ty Chế biến ván nhân tạo - LICOLA- trong thời kỳ 1999-2001

1. quá trình hình thành và phát triển của công ty chế biến ván nhân tạo - licola

1.1 Giới thiệu Công ty chế biến ván nhân tạo

1.2 Quá trình hình thành và phát triển của Công ty

2. các đặc điểm về công nghệ và tổ chức sản xuất của công chế biến ván nhân tạo

2.1 Đặc điểm tổ chức sản xuất

2.2 Đặc điểm quy trình công nghệ của công ty

 

doc59 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1271 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình đầu tư phát triển của công ty chế biến ván nhân tạo – Licola, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
+ Phòng tổ chức hành chính: Thực hiện tuyển dụng lao động, giao dịch, tiếp khách, hội họp, tham mưu cho giám đốc, soạn thảo các văn bản, hợp đồng và các vấn đề nhân sự. + Văn phòng công ty : Bao gồm ba bộ phận có chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Phòng hành chính chuyên xây dựng lịch hành chính làm việc của ban giám đốc, tiếp khách. Phòng bảo vệ: Bảo vệ tài sản của công ty, duy trì trật tự an ninh của công ty, theo dõi việc chấp hành nội quy quy chế của công nhân viên của toàn công ty. Phòng y tế: Chăm lo sức khoẻ đời sống của công nhân viên, khám chữa bệch, cấp thuốc và giả quyết nghỉ ốm cho các cán bộ công nhân viên toàn công ty. + Phòng kế hoạch vật tư : Có nhiệm vụ lập kế hoạch sản xuất , kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, quản lý thành phẩm, được ra các kế hoạch đầu tư cho ban giám đốc xét duyệt. Xây dựng kế hoạch sản xuất và điều hành sản xuất. Các phòng bạ chức năng không chỉ đạo trực tiếp đến các xí nghiệp nhưng có nhiệm vụ theo dõi hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện kế hoạch, tiến độ sản xuất, các quy trình quy phạm, tiêu chuẩn, định mức kinh tế, kỹ thuật, các chế độ quản lý... - Các Xí nghiệp và nhà máy: * Xí nghiệp chế biến gỗ công nghiệp: Bao gồm: + Phân xưởng cắt ván công nghiệp + Phân xưởng khoan gia công + Phân xưởng trang trí bề mặt + Phân xưởng hoàn thiện đóng gói nhập kho * Xí nghiệp Mộc và trang trí nội thất: Bao gồm: + Phân xưởng gia công mộc + Phân xưởng tẩm sấy + Phân xưởng gia công trang trí bề mặt *Nhà máy cơ khí nội thất: Bao gồm: + Phân xưởng thép tấm + Phân xưởng thép hình + Phân xưởng tẩy rửa sơn tĩnh điện II/ Thực trạng đầu tư của công ty chế biến ván nhân tạo – LICOLA thời kỳ 1998-2001. Là một doanh nghiệp thuộc bộ lâm nghiệp Việt Nam, công ty chế biến ván nhân tạo có chức năng thống nhất quản lý các xí nghiệp quốc doanh sản xuất sản những sản phẩm đồ mộc và đồ trang trí nội thất.. trong nước. Nhưng trong bối cảnh nền kinh tế thi trường mở của như hiện nay, với sự phát triển của các liên doanh và các thành phần kinh tế khác, công ty chế biến ván nhân tạo đang gặp phải rất nhiều khó khăn. 1. Sự cần thiết phải tăng cường đầu tư và năng cao hiệu quả đầu tư ở công ty chế biến ván nhân tạo . * Sức cạnh tranh của công ty đang còn kém Sự yếu kém trong khả năng cạnh tranh của công ty thể hiện ngay ở thị phần mà công ty nắm giữ. Nếu như những năm đầu của thập kỷ 90, công ty nắm giữ được 70% thị trường tiêu thụ sản phẩm Lâm nghiệp thì đến năm 1996, thị phần của Tổng công ty giảm xuống còn 56% và năm 2000 là 40%. Sự giảm mạnh thị phần của công ty là do sự xuất hiện và phát triển mạnh mẽ của các liên doanh và tư nhân sản xuất kinh doanh đồ mộc và trang trí nội thất. Mặc dù thời kỳ 1996-2001, nhu cầu về sản phẩm về đồ mộc và trang trí nội thất trong nước vẫn tăng hàng năm khoảng 10% năm (tương đương 150.000 sản phẩm/năm) và đạt tới 1.234.567 sản phẩm năm 2001, nhưng lại chủ yếu do các đơn vị ngoài công ty cung cấp. Trong 5 năm 1996-2000 mức tăng sản lượng bình quân của liên doanh và tư nhân đạt 20% năm và chiếm lĩnh trên 50% thị phần trong nước. Cũng trong thời kỳ đó, mức tăng sản lượng của Tổng công ty chỉ đạt mức 1,3% năm. Trong năm 2001, thị phần của Tổng công ty giảm khoảng 10% so với năm 2000, chủ yếu do có thêm một số nhà máy sản xuất chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng và sự cạnh tranh gay gắt của các đối thủ cạnh tranh khác. Điều này cho tháy rằng thị trường sản phẩm ngày càng có nhiều đối thủ cạnh tranh, hoạt động của công ty sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong năm 2002 và các năm tiếp theo. Thiết bị máy móc cũ, công nghệ lạc hậu, tiêu hao nhiều năng lượng, nhiên liệu là nguyên nhân đẩy giá thành sản xuất thép lên cao và từ đó làm giảm sức cạnh tranh của tổng công ty. Thêm vào đó công ty không đủ vốn để xây dựng những nhà máy hiện đại, quy mô lớn mà chủ yếu là xây dựng các nhà máy,các phân xưởng nhỏ và trung bình nên năng lực sản xuất còn hạn chế khả năng chuyên môn hoá không cao. Chính vì thế để cạnh tranh được với các đơn vị khác ngoài Tổng công ty được trang bị máy móc hiện đại là một vấn đề rất khó khăn. Do điều kiện về máy móc, kỹ thuật mà hiện nay Tỏng công ty chỉ mới huy động được 50% công sản xuất ván nhân tạo trong khi những máy móc không sử dụng đến vẫn phải tính khấu hao do hao mòn vô hình. Hiệu quả sử dụng máy móc thiết bị không cao, thêm vào đó là sự cồng kềnh về lao động dư thừa của các đơn vị thành viên trong công ty lại càng làm giảm khả năng cạnh tranh của công ty. * Phương thức cạnh tranh đơn điệu. Theo lý thuyết của các nhà kinh tế học cũng như trên thực tế chúng ta thấy tồn tại rất nhiều phương thức cạnh tranh. Các doanh nghiệp có thể áp dụng phương pháp cạnh tranh nào hữu hiệu nhất, phù hợp với đặc điểm của doanh nghiệp và nếu có thể kết hợp được một cách linh động nhiều phương thức khác nhau thì hiệu quả đem lại sẽ thực sự lớn. Trong điều kiện hiện nay đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải có nhiều phương thức cạnh tranh khác nhau thì công ty ván nhân tạo lại chỉ có một phương thức cạnh tranh duy nhất đó là cạnh tranh bằng chất lượng sản phẩm. Tất cả các sản phẩm của công ty ván nhân tạo đều được có những công nhận qua những lần được cấp huy chương vàng về chất lượng sản phẩm và đăng ký nhãn mác với cơ quan quản lý chất lượng của Nhà nước và có chất lượng không thua kém hàng ngoại nhập. Tuy nhiên như chúng ta đã biết thì chất lượng sản phẩm mặc dù là một yếu tố quan trọng nhất nhưng không đủ để tạo cho công ty có một chỗ đứng vững chắc trên thị trường. Để tăng được thị phần sản phâm công ty chế biến ván nhân tạo cần phải có các biện pháp giảm chi phí đầu vào, chi phí trung gian, nâng cao năng suất lao động từ đó hạ giá thành sản phẩm đến mức tương đương hoặc thấp hơn các sản phẩm của liên doanh và hàng nhập khẩu. Bên cạnh đó để cạnh tranh dể dàng hơn, công ty phải cố gắng tạo ra tính chuyên biệt của sản phẩm của công ty. Đó là phương thức được đánh giá là rất quan trọng. Nhưng thực tế cũng rất khó khăn đối với công ty, bởi lẽ cơ cấu sản phẩm của công ty còn rất nghèo nàn. Chỉ có một số sản phẩm về trang trí nội thất, và ván nhân tạo dùng trong trang trí bề mặt nội thất là có khả năng về quy mô, công suất và sản lượng,mà sản phẩm này thì lại có rất nhiều đối thủ cạnh tranh. Sự nghèo nàn về cơ cấu sản phẩm là cản trở lớn làm cho công ty không tham gia toàn diện vào thị trường. Một số sản phẩm có lợi thế thì lại không được sản xuất nhiều dẫn đến thị phần của công ty ở thị trường trong nước rất thấp. Trong thời gian tới, công ty cần có những điều chỉnh linh hoạt hơn trong chính sách cạnh tranh và cũng cần phải điều chỉnh, mở rộng cơ cấu sản phẩm và phải biết tận dụng lợi thế của mình, tăng cường tính ưu việt của sản phẩm của công ty từ đó nâng dần vị thế cạnh tranh của công ty. * Công ty chế biến ván nhân tạo chưa thực sự tham gia vào cạnh tranh một cách tự chủ trong thị trường. Là một doanh nghiệp nhà nước nên công ty còn có sự bảo hộ của Nhà nước. Thông qua các công cụ thuế và phi thuế Nhà nước đã can thiệp hạn chế nhập khẩu sản phẩm về Lâm nghiệp vào Việt Nam, bảo hộ sản xuất mộc trong nước. Hơn nữa nguồn vốn của Tổng công ty chủ yếu được lấy từ ngân sách Nhà nước nên kinh doanh hiệu quả hay không thì đã có Nhà nước bù lỗ. Chính vì thế đã tạo ra một tâm lý ỷ lại cho quá trình sản xuất đồ mộc, do đó làm giảm động lực cạnh tranh. Các xí nghiệp không chủ động sáng tạo tham gia thị trường mà vẫn chờ đợi ở sự bảo hộ của Nhà nước. Đây là một vấn đề không chỉ công ty thép mắc phải mà hầu như có ở hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước khác. Nói tóm lại do không thấy được nguy cơ cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn đối với các doanh nghiệp trong và ngoài ngành, do vẫn còn quen với vòng tay bảo hộ của Nhà nước nên Công ty chế biến ván nhân tạo đã không có những bước đi phù hợp để thích ứng với cơ chế thị trường. Và đó cũng là một lý do để chúng ta đặt dấu hỏi rằng; Khả năng cạnh tranh của chế biến ván nhân tạo trong vài năm tới sẽ như thế nào? Có thể khẳng định rằng nếu như những khó khăn trên của công ty chưa được giải quyết thì sự phát triển rất nhanh của các công ty liên doanh, các công ty trách nhiệm hữu hạn trong lĩnh vực sản xuất về sản phẩm Mộc và nội thất sẽ nhấn chìm thị phần của công ty trên thị trường trong tương lai không xa. Khả năng cạnh tranh của công ty sẽ chật vật và khó khăn hơn rất nhiều. 2. Thực trạng đầu tư của công ty chế biến ván nhân tạo – LICola thời kỳ 1998-2001. 2.1 Tình hình thực hiện vốn và nguồn vốn đầu tư ở công ty chế biến ván nhân tạo. 1.1 Vốn đầu tư của công ty 2.1.1 Vốn đầu tư của côngty Bảng1 : Vốn đầu tư và cơ cấu vốn đầu tư của công ty chế biến ván nhân tạo thời kỳ 1998-2001. Đơn vị : triệu đồng Năm Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 Số tiền Tỷ lệ (%) Số tiền Tỷ lệ (%) Số tiền Tỷ lệ (%) Số tiền Tỷ lệ (%) 1.Tổng vốn đầu tư 81.532 95.453 163.343 259.951 2. Vốn thiết bị 54468 66.72 64432 67.25 43177 65.04 274889 72.35 3. Vốn xay lắp 20758 25.43 21559 22.5 15810 23.82 89605 23.58 4.Vốn đầu tư XDCB khác 64050 7.85 9818 10.25 7399 11.14 15457 4.07 Qua số liệu trên ta thấy rằng,tổng vốn đầu tư huy động trong thời kỳ này cũng có nhiều biến động. So với năm 1998, tổng vốn đầu tư năm 2000 giảm 17.37%, nhưng đến năm 2001, tổng vốn đầu tư lại tăng 315.43% tương đương 290.220 triệu đồng, và đây cũng là năm tổng vốn đầu tư đạt cao nhất từ trước đến nay. Bởi lẽ trong năm 2001, công ty đã thực hiện rất nhiều dự án quan trọng chẳng hạn như dự án mở rộng Cơ khí Nội Thất và xí nghiệp XN chế biến gỗ công nghiệp, và XN Mộc và trang trí nội thất 1.2 Cơ cấu kỹ thuật của vốn đầu tư Theo cơ cấu công nghệ của vốn đầu tư, vốn đầu tư của công ty được chia theo cac khoản mục chính là: Vốn thiết bị, vốn xây lắp và vốn đầu tư xây dựng cơ bản khác. Nhìn vào cơ cấu vốn đầu tư của công ty trong giai đoạn này ta nhận thấy rằng, vốn đầu tư cho thiết bị luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng vốn đầu tư. Năm 1998, vốn đầu tư cho thiết bị chiếm 66.72% tổng vốn đầu tư, năm 1999 chiếm 67.25% tổng vốn đầu tư, năm 2000 vốn đầu tư cho thiết bị có giảm nhưng vẫn chiếm 65.04% tổng vốn đầu tư. Trong năm 2001, vốn đầu tư cho thiết bị chiếm tới 72.35% tổng vốn đầu tư. Chứng tỏ rằng trong khả năng hạn hẹp về vốn đầu tư, Công ty vẫn chú trọng đến công tác đầu tư cho máy móc thiết bị phục vụ sản xuất, ngày càng nâng cao hơn nữu hàm lượng chất xám trong cơ cấu sản phẩm, giảm dần tiêu hao năng lực vật chất đầu vào cho sản xuất. Do nhu cầu vốn đầu tư lớn nhưng lượng vốn trong nước không đủ để cung cấp vì vậy chế biến ván nhân tạo đã góp vốn liên doanh, liên kết với nước ngoài nhằm tận dụng những lợi thế về vốn, công nghệ trình độ quản lý. Từ việc nghiên cứu tình hình vốn đầu tư của các đơn vị thuộc công ty chúng ta thấy rằng trong thời gian qua nguồn vốn đầu tư cũng như cơ cấu vốn đầu tư của công ty còn nhiều điều bất cập. Trong thời gian tới công ty cần có những điều chỉnh cho phù hợp từ đó thúc đẩy hoạt động đầu tư của công ty phát triển hơn nữa 1.3 Nguồn vốn đầu tư của Tổng công ty. Nguồn vốn đầu tư của công ty bao gồm các nguồn cơ bản ,đó là: nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ doanh nghiệp; Nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp ; Nguồn vốn tín dụng trong nước , nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài và các nguồn vốn khác. +) Nguồn vốn đầu tư của Tổng công ty. Nguồn vốn đầu tư của Tổng công ty bao gồm các nguồn cơ bản ,đó là: nguồn vốn tích luỹ từ nội bộ doanh nghiệp; Nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp ; Nguồn vốn tín dụng trong nước , nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài và các nguồn vốn khác. Cơ cấu nguồn vốn huy động cho hoạt động đầu tư của công ty được thể hiện trong bảng sau: Bảng 2: Cơ cấu các nguồn vốn huy động cho hoạt động đầu tư của công ty chế biến ván nhân tạo thời kỳ 1998-2001. Năm Chỉ tiêu 1998 1999 2000 2001 Số tiền (tr.đ) Tỷ trọng (%) Số tiền (tr.đ) Tỷ trọng (%) Số tiền (tr.đ) Tỷ trọng (%) Số tiền (tr.đ) Tỷ trọng (%) * Tổng vốn đầu tư 1.Vốn NSNN 2.Vốn tín dụng. 3.Vốn KHCB. 4. Vốn tự bổ xung. 5.Vốn khác 81.532 2670 35521 8235 532 7675 100 5.17 57.66 8.76 0.53 6.03 95.453 8715 68.999 2134 1185 2060 100 7.22 56.1 4.75 987 1.25 163.343 5654 20170 6486 14 19345 100 7.52 29.41 10.74 0.02 23.3 259.951 2629 89.380 3167 19876 1223 100 0.67 30.05 0.07 4.29 0.21 *Vốn tích luỹ của doanh nghiệp: Vốn tích luỹ của doanh nghiệp chủ yếu được hình thành từ hai nguồn chính: +Nguồn vốn khấu hao cơ bản. +Lợi nhuận để lại sau thuế. Nhìn chung trong mấy năm gần đây do lợi nhuận của công ty giảm kéo theo nguồn vốn này cũng giảm và rất nhỏ so với các nguồn vốn khác, chẳng hạn trong năm 2000, vốn đầu tư lấy từ lợi nhuận để lại sau thuế của dự án chỉ có 19 triệu ,chiếm 0.03% tổng vốn đầu tư.Nguồn vốn này chỉ đủ để đầu tư chiều sâu, cải tạo một số cơ sở có quy mô nhỏ. *Vốn ngân sách Nhà nước cấp: Vốn ngân sách là vốn Nhà nước cấp cho các doanh nghiệp quốc doanh để thực hiện các dự án đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn lâu và ít lợi nhuận, chủ yếu chỉ mang lại những lợi ích kinh tế xã hội cho quốc gia. Chế biến ván nhân tạo là một doanh nghiệp Nhà nước được thành lập theo sự nhất trí của chính phủ và Bộ Lâm nghiệp Việt nam , nên nguồn vốn ngân sách cũng là một bộ phận hết sức quan trọng hỗ trợ cho doanh nghiệp phát triển. Trong thời kỳ bao cấp trước đây, khi mà các thành phần kinh tế chưa tự do phát triển ;nhà nước quản lý bằng các chỉ tiêu pháp lệnh từ đầu vào đến đầu ra đối với hoạt động sản xuất kinh doanh thì vốn ngân sách chủ yếu là được cấp phát trực tiếp hàng năm không theo dự án . vấn đề này đã gây lãng phí rất lớn trong khi các dự án lại không đạt được hiệu quả cao các đơn vị không chủ động sáng tạo trong kinh doanh. Đây chính là lý do khiến các doanh nghiệp Nhà nước thời kỳ đó thua lỗ triền miên. Từ khi chuyển sang cơ chế thị trường vốn ngân sách không còn đống vai trò quyết định mà chỉ đống vai trò định hướng, hỗ trợ phát triển. Trong 4 năm 1998-2001 tổng vốn ngân sách đã cấp cho công ty là 26.928 triệu đồng. Trong năm 2001 , kế hoạch vốn ngân sách nhà nước cấp cho công ty thép chỉ có 2.929 triệu đồng, chiếm 0.77 % tổng vốn đầu tư. Chứng tỏ rằng nguồn vốn NSNN cấp cho hoạt động đầu tư của công ty ngày càng giảm về cả tuyệt đối lẫn tương đối. Cho dù nguồn vốn ngân sách chiếm tỷ trọng không lớn song vẫn phải khẳng định lại chắc chắn rằng nguồn vốn này đóng một vai trò rất quan trọng để tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho sản xuất sản phẩm của công ty phát triển. *Nguồn vốn tín dụng trong nước: Để có thêm vốn đầu tư , tạo điều kiện thuận lợi, chủ động trong công tác đầu tư theo chiều rộng cũng như theo chiều sâu của các đơn vị thành viên thuộc công ty, công ty chế biến ván nhân tạo còn phải tranh thủ sự hỗ trợ của Nhà nước dưới hình thức cho vay ưu đãi với lãi suất thấp và thời gian ân hạn dài. Qua các năm từ 1998-2001, tỷ trọng nguồn vốn này trong Tổng vốn đầu tư luôn lớn nhất so với các nguồn vốn khác. Điều này đã chứng tỏ được tầm quan trọng của nguồn vốn này trong công ty. Nguồn vốn này thường được công ty sử dụng để đầu tư các dự án có quy mô lớn, thời gian đầu tư kéo dài. Tình hình thực hiện vốn tín dụng trong thời gian này được thể hiện trong bảng sau: Bảng 3: Tình hình thực hiện vốn tín dụng của công ty thời kỳ 1998-2001. Năm Chỉ tiêu Đơn vị 1998 1999 2000 2001 1.KH vốn tín dụng Tỷ.đ 50429 73500 135000 135193 2.Vốn tín dụng thực hiện Tỷ. đ 49521 70999 24170 129380 3.Tỷ lệ % thực hiện so với kế hoạch (%) 98.2 96.5 17.9 95.7 Nhìn chung, tình hình thực hiện vốn tín dụng của công ty đạt tỷ lệ tương đối cao.. Có thể nhận thấy rằng, nguồn vốn tín dụng trong nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động đầu tư của công ty. Trong thời gian tới công ty cần khai thác triệt để nguồn vốn này hơn nữa để tạo ra nguồn cung cấp dồi dào về vốn cho công ty để hoạt động đầu tư tiến hành được hiệ quả cao hơn. 1.4. Vốn đầu tư của công ty chế biến ván nhân tạo được phát triển theo hình thức mở rộng, nhìn vào bảng 1 ta thấy tổng số vốn đầu tư được tăng lên hàng năm, và năm 2001 công ty thực hiện nhiều dự án quan trọng với việc mở rộng chẳng hạn như dự án mở rộng nhà máy Cơ khí Nội Thất và xí nghiệp XN chế biến gỗ công nghiệp, và XN Mộc và trang trí nội thất. Công ty đã đầu tư trang thiết bị, nâng cấp cơ sở hạ tầng hoàn thiện hơn xí nghiệp Cơ khí nội thất và xí nghiệp chế biến gỗ công nghiệp và xí nghiệp mộc và trang trí nội thất. Nhìn chung vốn đầu tư của công ty trong thời gian trước đây và một thời gian sau nay vẫn thực hiện vào đầu tư mở rộng công ty, vì công ty muốn trang bị cho mình một cơ sở thật chất lượng nhất, sau đó mới thực hiện đầu tư chiều sâu nhằm phát triển công ty hơn nữa. Ngoài ra công ty cũng đã thực hiện đầu tư vốn theo chiều sâu, nhưng với hình thức và quy mô đang còn hạn chế: xí nghiệp đầu tư chiều sâu sản phẩm nội thất với tổng vốn đầu tư khoảng 5 tỷ đồng; Dự án đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm nhà máy cơ khí có vốn đầu tư hơn 5 tỷ đồng; Mua và lắp đặt thêm nhiều dây chuyền máy cơ khí nhầm nâng cao khả năng sản xuất ván nhân tạo 2. Thực trạng hoạt động đầu tư của công ty chế biến ván nhân tạo thời kỳ 1998-2001. Công tác đầu tư của công ty chế biến ván nhân tạo thời gian qua có rất nhiều chuyển biến và đạt được nhiều kết quả, không chỉ mang lại lơi ích đối với ngành thép mà còn đối với cả các ngành khác có liên quan trong nền kinh tế quốc dân. Hoạt động đầu tư của công ty đã diễn ra thực sự sôi động trong hai năm 2000-2001 vừa qua với rất nhiều dự án quan trọng được thực hiện. Công ty chế biến ván nhân tạo đã chỉ đạo các đơn vị chú trọng đầu tư chiều sâu với nội dung đổi mới,hiện đai hoá công nghệ và thiết bị nhằm giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Với chủ trương trên năm 2000, công ty đã đầu tư công nghệ hiện đại vào nhà máy cơ khí nội thất, xí nghiệp chế biến gỗ công nghiệp, cùng với xí nghiệp mộc và trang trí nội thất được năng cấp về cơ sở hạ tầng, cùng với công nghệ vối tổng nguồn vốn 100,4 tỷ đồng Đặc biệt trong năm 2000, Tổng công ty đã triển khai xây dựng, hoàn thiện một số đề án chiến lược dài hạn quan trọng của ngành như: Quy hoạch phát triển sản phẩm của công ty đến năm 2010, quy hoạch kinh doanh 2001-2006, kế hoạch 5 năm (2001-2005), chiến lược cạnh tranh sản phẩm...Đến nay hầu hết các đề án đã được phê duyệt, đặc biệt quy hoạch chiến lược phát triển sản xuất ván nhân tạo của công ty sau quá trình kiên trì kiến nghị đã được chính phủ phê duyệt, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xem xét, phê duyệt các dự án đầu tư lớn của công ty. Năm 2001, tổng số vốn được cấp cho các dự án đầu tư là 380 tỷ đồng, so với năm 2000 tăng khoảng 572%. Việc giải ngân vốn của các dự án còn chậm do dự án mở rộng cải tạo cải tạo xí nghiệp chế biến lâm sản xuất khẩu Việt Trì, và xí nghiệp Mộc Văn Điển Nhìn chung công tác đầu tư ở công ty trong thời gian qua có nhiều chuyển biến tích cực. Hầu hết các đơn vị chủ lực của công ty được đầu tư rất thoả đáng,mang lại hiệu quả đầu tư cũng như hiệu quả sản xuất kinh doanh cao cho công ty. 3. Thực trạng đầu tư phát triển của công ty chế biến ván nhân tạo 3.1 Đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là một nhân tố hết sức quan trọng để có thể nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Chất lượng sản phẩm bảo đảm, đạt tiêu chuẩn quy định thì khách hàng sẽ ưa chuộng hơn. Đặc biệt là khi nền kinh tế phát triển như hiện nay thì yêu cầu của khách hàng đối với sản phẩm sẽ cang cao hơn buộc các doanh nghiệp phải tìm cách nâng cao chất lượng hàng hoá dịch vụ của mình. Có rất nhiều phương thức nâng cao chất lượng sản phẩm. Chẳng hạn tăng cường đầu tư chiều sâu, đổi mới máy móc thiết bị công nghệ để tăng hàm lượng chất xám ttrong sản phẩm, thực hiện đo lường, kiểm tra các tiêu chuẩn kỹ thuật của sản phẩm trước khi xuất xuởng... Trong thời kỳ 1991-1995, thị trường sản phẩm lâm sản đang mất cân đối cung nhỏ hơn cầu, công ty chế biến ván nhân tạo đã hoạt động theo phương châm tăng nhanh sản lượng nhằm cắt giảm cơn sốt sản phẩm lâm sản và đã không quan tâm đến chất lượng sản phẩm. Nhưng trong những năm gần đây từ 1998-2001, Tổng công ty đã chú trọng đầu tư theo chiều sâu nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của thị trường. Trong giai đoạn này hàng loạt các dự án đầu tư theo chiều sâu đã được thực hiện ở các đơn vị thuộc Tổng công ty như: Nhà máy cơ khí nội thất: Đầu tư chiều sâu sản phẩm nội thất với tổng vốn đầu tư khoảng 5 tỷ đồng; Dự án đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm nhà máy cơ khí có vốn đầu tư hơn 5 tỷ đồng; Mua và lắp đặt thêm nhiều dây chuyền máy cơ khí nhầm nâng cao khả năng sản xuất ván nhân tạo Công ty còn triển khai một số đề tài ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nhằm cải thiện các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật, nâng cao chất lượng sản phẩm. Sản xuất thành công những sản phẩm ván nhân tạo nhằm phục vụ trong sản xuất công nghiệp, cũng như tạo ra được những sản phẩm tiêu dùng. *Xí Nghiệp chế biến gỗ công nghiệp: Công ty đã duy trì và đẩy mạnh việc áp dụng các công nghệ vật liệu mới trong sản xuất những loại gỗ để phục vụ trong công nghiệp, trong xây dựng *Xí nghiệp mộc và trang trí nội thất: Công ty đã khắc phục được những hạn chế của thiết bị cũ, đã áp dụng những thành tựu của khoa học để đưa những công nghệ tiên tiến của thế giới áp dụng vào việc chế biến sản phẩm, trang trí nội thất bằng máy móc giúp phần tạo ra những sản phẩm có tính chính xác và mẫu mã đep hơn, cũng như chất lượng được tốt hơn. Có thể nhận thấy rõ vai trò tích cực của đầu tư trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty. Sản phẩm của tổng công ty đều đã được khẳng định về chất lượng, được cơ quan kiểm tra chất lượng của nhà nước kiểm nghiệm và công nhận. công ty cần phải ngày càng phát huy hơn nữa lợi thế này của mình để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, xứng đáng với vị trí là doanh nghiệp chủ lực của ngành. 3.2 Đầu tư vào tài sản cố định, đổi mới máy móc thiết bị, công nghệ ở doanh nghiệp: Công nghệ có thể hiểu là tập hợp các công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực sản xuất thành sản phẩm nhằm mục đích sinh lời. Công cụ gồm hai phần là phần cứng và phần mềm. Phần cứng của công nghệ là máy móc thiết bị, công cụ dụng cụ...Phần mềm của công nghệ là kỹ năng, bí quyết công nghệ, kinh nghiệm quản lý. Như vậy khái niệm công nghệ bao gồm cả máy móc thiết bị. Đầu tư đổi mới máy móc thiết bị công nghệ là một hình thức của đầu tư phát triển nhằm hiện đại hoá dây chuyền công nghệ và trang thiêt bị, tăng năng lực sản xuất kinh doanh cũng như cạnh tranh của sản phẩm. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng và để đối phó với các đối thủ cạnh tranh tạo chỗ đứng vững chắc trên thị trường , doanh nghiệp cần phải quan tâm đổi mới máy móc thiết bị công nghệ, tăng năng suất lao động. Khi đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, các doanh nghiệp cần phải phân tích thực trạng doanh nghiệp cũng như phân tích các yếu tố liên quan đến máy móc thiết bị. Các yếu tố trong nội bộ doanh nghiệp ảnh hưởng đến khả năng lựa chọn công nghệ đó là khả năng tài chính của doanh nghiệp, quy mô vốn có thể huy động và đặc điểm kinh tế kỹ thuật đặc thù của ngành. Một nhân tố nữa cũng rất quan trọng cần phải xem xét là trình độ của đội ngũ lãnh đạo, nhất là năng lực lãnh đạo kỹ thuật và trình độ nghề nghiệp của công nhân trực tiếp sản xuất. Các nhân tố liên quan đến máy móc thiết bị cần phải xem xét như: xem xét xu hướng lâu dài của máy móc, thiết bị và công nghệ để đảm bảo tránh sự lạc hậu hoặc những khó khăn gây trở ngại cho việc sử dụng máy móc thiết bị(khan hiếm về nguyên liệu hoặc vật liệu mà máy móc thiết bị sử dụng...(trong khi thu hồi vốn ;xem xét lựa chọn thiết bị có khả năng thay thế; xem xét lựa chọn công nghệ có nguồn cung cấp để không bị sức ép về 3.3. Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn lao động; Trong thời đại ngày nay, trí tuệ, tri thức đã trở thành yếu tố bao trùm quyết định tính chất , đặc trưng của thời đại và ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển của tất cả các quốc gia. Quốc gia nào nắm được nhiều tri thức, quốc gia đó sẽ ở vị trí chi phối nền kinh tế toàn cầu, khu vực nào hội tụ được nhiều tri thức nhất khu vực đó sẽ trở thành trung tâm của nền kinh tế thế giới. Chính điều này đã tạo ra những thời cơ, những vận hội lớn cho bất kỳ quốc gia nào biết đầu tư có hiệu quả làm tăng nhanh chất lượng của nguồn lực con người trong quả trình cạnh tranh. Bên cạnh đó, nó cũng đặt ra những thách thức mới, những nguy cơ tụt hậu, lạc hậu ngày càng xa đối với các quốc gia đang trên đà phát triển. Việt Nam đang ở vào giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chính vì thế nhân tố con người càng được coi trọng hơn bao giờ hết. Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn lực là một đòi hỏi khách quan và vô cùng cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần phải quan tâm tới các nội dung sau: *Chính sách tiền lương. *Đầu tư tuyển dụng và đào tạo lao động. *Đầu tư cải thiện môi trường, điều kiện làm việc. *Khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần của người lao động. *Tổ chức quản lý lao động. Công ty chế biến ván nhân tạo Hà Nội cũng nhận thức được đầy đủ về vấn đề này. Công ty luôn coi nhân lực là đầu vào quan trọng nhất để phát tri

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0051.doc