Đề tài Tình hình đầu tư phát triển kinh tế trang trại miền núi phía Bắc

Mục Lục:

Phần.trang

Phần mởđầu.1.

Phần nội dung.3

Chương 1: Một số lí luận chung. 3

1/ Các khái niệm cơ bản và tất yếu khách quan

sự ra đời mô hình kinh tế trang trại ở nước ta:. 3

2/Vai trò của kinh tế trang trại đối với đời sống kinh- tế xã hội của vùng.7

3/một số mô hình đầu tư phát triển mô hình kinh tế trang trại của vùng.9

4/Những nhân tốảnh hướng tới việc đầu tư phát triển mô hình kinh tế trang

trại vùng trung du và miền núi phía Bắc.12

Chương 2:Tình hình đầu tư phát triển kinh tế trang trại miền núi phía Bắc.14

1/Tổng quát vềđiều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội chung của vùng.14

2.Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư vào việc phát triển mô

hình kinh tế trang trại của vùng.17

3.Thực trạng phát triển kinh tế trang trại của vùng.26

4/Lựa chọn mô hình kinh tế trang trại phù hợp với điều kiện tự

nhiên và kinh tế xã hội của vùng.33

Phần kết luận.40

 

 

docx42 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2869 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình đầu tư phát triển kinh tế trang trại miền núi phía Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình đầu tư phát triển kinh tế trang trại miền núi phía Bắc: 1/Tổng quát vềđiều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội chung của vùng: Với vị trí nằm ở phía Bắc ,thuộc miền khí hậu nhiệt đới gió mùa ,với địa hình chủ yếu làđồi núi thấp, sườn thoai thoải, đặc biệt là năm cánh cung phía đông bắc nên vùng có mùa đông lạnh, thích hợp cho cây ôn đới và cận nhiệt đới phát triển. Bên cạnh đó, vùng có hệ thống đường giao thông khá phát triển ở miền đông bắc. Đó là hệ thống đường sắt từ HN -Đồng Đăng, HN – Thái Nguyên, HN-Lào Cai ...Và một hệ thống đường bộ lối liền các tỉnh trong vùng, nhưđường 4 lối liền các tỉnh biên giới phía bắc, quốc lộ 1B: HN-Lạng Sơn...rất thuận lợi cho việc cho việc luân chuyển hang hoá nhất là nông sản giữa các tỉnh, cũng như với các vùng kinh tế khác trong cả nước.Hơn thế, vùng có hệđộng thực vật rất phong phú vàđa dạng đặc biệt là thuộc miền ôn đới,trong đó có nhiều loài quí hiếm của thế giới. Đặc bịêt, miền là nới tiếp giáp với biên giới Trung Quốc, Lào. Do vậy, rất thuận tiện trong việc giao thương với các nước này ,cũng như làđầu mối quan trọng buôn bán giữa nước ta với các nước bạn. Hiện nay, kinh tế TQ phát triển mạnh, tốc độ tăng trưởng cao vàổn định. Vì vậy, việc phát triển quan hệ hợp tác với TQ còn tạo điều kiện để thâm nhập vào thị trường thế giới.Điều đó càng khẳng định vị trí quan trọng của vùng đối với việc phát triển kinh tếđất nước. Miền núi phía Bắc với diện tích tự nhiên trên 9,3 triệu ha , chiếm 28% diện tích đất trống , đồi núi trọc còn gần 6 triệu ha, trong đó có 67% có thể sử dụng ngay vào sản xuất nông nghiệp , có gần 9 triệu người gồm 42 dân tộc , chiếm 50 % đồng bào các dân tộc ít người của cả nước .Miền núi phía Bắc có nhiều tiềm năng phát triển kinh tế nông nghiệp. Vùng trung du và miền núi phía bắc (bao gồm các tỉnh Lai Châu, Sơn La,Hoa Bình,Phú thọ, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Lào Cai, Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên và Quảng Ninh), là một vùng có tiềm năng phát triển kinh tế hàng hoá nông nghiệp . Đây là vùng có tới 1,2 triệu hađất nông nghiệp , 2,8 triệu ha đất lâm nghiệp( có 2,1 triệu ha rừng tự nhiên) . Đây là vùng có mật độ dân số thấp thứ hai trong cả nước :gần 100 người/1km2( sau Tây Nguyên). Dân số trong toàn vùng 11.303 nghìn người( 14% số dân số cả nước) trong đó có 42 dân tộc anh em sinh sống, chiếm gần 50% đồng bào dân tộc ít người của cả nước, đất nông nghiệp bình quân 1.182 m2/người. Là vùng có vị tríđịa lí từ 20 đến 23 vĩđộ bắc, hình thành các tiểu vùng sinh thái tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế nông nghiệp hàng hoá. Lợi thế của vùng là phát triển tốt nhiều loại cây công nghiệp ( chề, đỗ tương, mía, đường...); nhiều loại cây dược liệu(quế ,hồi) các loại cây ăn quả( nhãn, vải thiều,cam quýt, mạn mơ..) ;trồng rừng và phát triển chăn nuôi: trâu, bò, lợn, gà, gia cầm đặc biệt là chăn nuôi trâu bò là lợi thế của vùng trung du và miền núi phía bắc nước ta. Vùng trung du và miền núi phía bắc là vùng cóđường biên giới dài 2.300km giáp với Trung Quốc ,Lào; có 250km bờ biển với các cảng lớn ,cảng nước sâu: Cảng Cái lân, Cảng Hải Phòng...Cóđường sắt liên vận nối liền Việt Nam với Trung Quốc, tạo điều kiện giao lưu kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là thị trườngTrung Quốc rộng lớn tạo những lợi thế trong việc khai thác thị trường đầu vào vàđầu ra cho việc phát triển kinh tế trang trại. Mặt khác, khu vực các tỉnh trung du và miền núi phía bắc còn là khu vực có các trung tâm công nghiệp ,trung tâm đô thị và khu vực kinh tế cửa khẩu sôi động. Đây cũng là những điều kiện hết sức quan trọng giúp cho nền kinh tế nói chung , kinh tế trang trại nói riêng phát triển thuận lợi. Với địa hình đồi núi , vùng tập trung khá nhiều đồng bào các dân tộc thiểu số có nền văn hoáđa dạng giàu bản sắc dân tộc. Đồng thời còn có sự giao thoa giữa các nền văn hoá tạo nên nét riêng, đặc sắc của vùng.Bên cạnh đó, giữa các dân tộc có sựđoàn kết cao cùng nhau phát triển kinh tế xã hội của cả vùng.Cũng nhưđồng bào cả nước, nhân dân trong vùng rất cần cù, chịu khó. Tuy có khá nhiều dân tộc sinh sống songnhân dân đều tin vào đường lối phát triển của Nhà nước , nền chính trịổn định. Với mật độ dân số thấp, dân cư trong vùng còn thưa thớt, tập trung theo làng bản dọc triền đồi núi.Các thị xã tập trung kháđông các đồng bào trong vùng,có trình độ phát triển khá cao. Nhìn chung , trong mấy năm gần đây, tốc độ phát triển kinh tế của vùng khá cao vàổn định. Về cơ cấu ngành, đã có sự chuyển dịch tỷ trọng giữa các ngành, tăng công nghiệp và dịch vụ, giảm tỉ trọng nông nghiệp. Song, nông nghiệp của vùng vẫn đóng một vai trò quan trọng và tăng về sản lượng. 2.Tình hình huy động và sử dụng vốn đầu tư vào việc phát triển mô hình kinh tế trang trại của vùng: Để kinh tế trang trại phát triển cần có nhiều yếu tố như vốn, đất đai, khoa học kĩ thuật, giống cây trồng vật nuôi...trong đó vốn là yếu tố rất quan trọng. Bảng1: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các trang trại đến 1 tháng 10 năm 2001 vùng Tổng sốđất đai(ha) Bquân 1trang trại(ha) Tổng lao động Bquân 1 trang trại. Tổng số vốn Bình quân 1 trang trại Tổng thu nhập bquân một trang trại Cả nước 366667 6.08 374.701 6 8294723 136.5 1905849 34.4 ĐBSH 15988 8,7 15.210 8 247923 190.2 85782 46.9 ĐBắc 32757 10.9 14.955 5 240746 80.6 79986 26.8 Tây bắc 2012 14.7 974 7 15852 116.6 3872 28.5 BTBộ 34763 11.4 974 7 269930 89.2 76785 25.4 NTBộ 18684 6.4 17327 6 407346 140.0 125241 43.1 TN 34260 5.67 32704 5 1155694 191.7 143099 23.7 ĐNBộ 82455 6.47 101267 8 3151005 248.1 461253 36.3 ĐBSCL 112606 4.58 170624 5 2706227 86.9 929831 29.9 Từ bảng ta thấy, tổng số vốn vùng đông bắc và tây bắc là: ( 240746+15852) =256598(trđ), so với tổng số vốn của cả nước là 8294723(trđ) thì cả vùng chiếm 3,1%.Như vậy có thể nói vốn đầu tư vào trang trại của hai vùng còn thấp so với cả nước. Trong đó , chủ yếu tập trung ở vùng đông bắc( 240746 trđ). Tuy nhiên mức vốn trung bình của một trang trại đạt mức trung bình thấp so với cả nước. Trong đó vùng tây bắc lại có mức bình quân mỗi trang trại là 116.6 trđ, cao hơn vùng đông bắc(chỉđạt 80.6 trđ).Như vậy vốn đầu tư vào mỗi trang trại vùng đông bắc thấp hơn vùng tây bắc. Điều đó cho thấy, vùng chưa thu hút được nhiều vốn đầu tư vào phát triển mô hình kinh tế trang trại. Tương ứng với vốn đầu tư là thu nhập của các trang trại trong vùng so với mức bình quân chung của cả nước. Từ bảng trên ta thấy, tổng thu nhập các trang trại vùng đông bắc và tây bắc là (79986+3872)=83858(trđ), so với cả nước là 1905849(trđ) thì vùng chiếm tỉ lệ =4.4%.Kết quả trên cho thấy, thu nhập của vùng chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng thu từ trang trại của cả nước.Đồng thời thu nhập trung bình một trang trại vùng tây bắc cao hơn vùng đông bắc. Điều đó cho thấy vùng tây bắc tuy số trang trại ít hơn vùng đông bắc nhưng hiệu quả hơn trang trại vùng đông bắc. Theo một thống kê mới nhất của Câu lạc bộ trang trại, trong 67 bản đăng kí nhu cầu của các chủ trang trại tại 14 tỉnh, thành phố trong cả nước thìđã có 58 chủ trang trại có nhu cầu vay vốn với tổng số vốn vay lên tới 20975 triệu đồng. Nhu cầu vay vốn bình quân của một chủ trang trại là 362 triệu đồng . Chủ trang trại có nhu cầu vay vốn thấp nhất là 30 triệu đồng và có nhu cầu cao nhất là 9 tỷđồng. Có khoảng 30 trang trại muốn vay vốn trong thời hạn từ 2-5 năm, 8 trang trại muốn vay từ 10 năm trở lên. Song khi tiến hành vay vốn ngân hàng, các chủ trang trại còn nhiều băn khoăn về vấn đề thế chấp. Theo một số chủ trang trại, số tiền họđược ngân hàng cho vay còn quá thấp so với giá trị tài sản đưa ra thế chấp. Bên cạnh đó thủ tục vay vốn nhìn chung còn rườm rà và chưa tạo điều kiện thực sự thuận lợi cho các chủ trang trại vay vốn đểđầu tư phát triển mô hình kinh tế trang trại. Đồng thời nhà nước cần có chính sách tạo ra sự bình đẳng để các thành phần kinh tế cùng phát triển. Trong số những kênh vốn đến với kinh tế trang trại thì kênh cho vay của hệ thống Ngân Hàng thương mại là lớn nhất, trong đó NHNo&PTNT chiếm thị phần chủ yếu. Tại các tỉnh miền núi phía bắc , gần 100% vốn tín dụng NH là do hệ thống NHNo&PTNT VN chi phối . Cho đến cuối năm 2002 mới có 2.436 trang trại có quan hệ tín dụng với ngân hàng , với doanh số cho vay 27440 trđ và dư nợ 50419 trđ, một con số quá khiếm tốn so với nhu cầu vốn cho kinh tế trang trại trong vùng. Những nguyên nhân của thực trạng trên là do: _ Các chủ trang trại chưa được cấp giấy chứng nhận là kinh tế trang trại để nhận những ưu đãi do mô hình kinh tế trang trại đem lại theo qui định của chính phủ. _Nguồn vốn của ngân hàng thương mại không đáp ứng đủ yêu cầu vốn của kinh tế trang trại , nhất là nguồn vốn trung ,dài hạn. _Việc xác định thơi hạn vay vốn bằng việc xác định theo chu kì sản xuất của cây trồng vật nuôi lại được xác định theo nguồn vốn của NH hoặc ý chí chủ quan của đội ngũ cán bộ tín dụng nhiều khi thiếu trình độ , thiếu thực tế và trách trong việc tính toán cho vay. _Lãi suất cho vay còn quá cao so với lợi nhuận bình quân do sản xuất kinh doanh nông lâm trại tạo ra. _Thủ tục vàđiều kiện cho vay vốn của hệ thống ngân hàng thương mại còn quá phiền hà , quá nhiều thủ tục với quá nhiều loại giấy tờ. _Mức cho vay vốn không cần tài sản thế chấp quá thấp, không đủđáp ứng nhu cầu của các chủ trang trại trong quá trình mở rộng qui mô sản xuất và tập trung tích tụ tư liệu sản xuất. _Hầu hết các chủ trang trại cần vốn sản xuất kinh doanh lại không đủ tài sản thế chấp để vay vốn, hoặc tài sản thế chấp không đủđiều kiện pháp lí nhu chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng ruộng đất hợp đồng thuê mướn tư liệu sản xuất trong sản xuất kinh doanh của chủ trang trại chưa hợp pháp hoá trong thủ tục dân sự . Do đó cũng không tiếp cận vay vốn được các NH. Nguồn vay của trang trại rất đa dạng ,một số tỉnh chủ yếu dựa vào nguồn vay trực tiếp của ngân hàng phần lớn là các tỉnh phía nam.Một số tỉnh khác dựa vào đầu tưứng trước ,như Sơn La chiếm 53,17% ,Yên Bái dựa vào vốn vay của dựán 37,37% ... Về cơ cấu tư liệu sản xuất va tài sản chủ yếu bình quân trang trại :giá trị vườn cây lâu năm chiếm 62% giá trị tài sản cốđịnh có nguồn gốc kĩ thuật (nhà xưởng, chuồng trại, máy móc ,phương tiện vận tải máy móc khác)khoảng 10%,giá trị rừng trồng hơn 2%,giá trị nuôi trồng thuỷ sản hơn 5 %, chi phí sản xuất dở dang7,3%,tiền mặt trong kinh doanh hơn 6%. Tuỳ thuộc vào điều kiện sản xuất của từng địa phương ,từng hướng kinh doanh chính mà cơ cấu giá trị tư liệu sản xuất và tài sản chủ yếu có sự khác nhau. Kinh tế trang trại phát triển ở các tỉnh vùng núi phía bắc , trong đó có Yên Bái ,Bắc Giang là những tỉnh tiên phong ,từđó toả sang nhiều tỉnh khác như Sơn La ,Hoà Bình , lao Cai, Phú Thọ...Việc lựa chọn mô hình kinh tế trang trại làđúng đắn ,là hình thức tổ chức sản xuất hàng hoá nông sản phù hợp ,là bước chuyển thích hợp từ nông nghiệp tự cấp tự túc sang sản xuất nông sản hàng hoá lớn. Từ lượng vốn tự có ban dầu còn nhỏ của hộ nông dân , của cán bộ ,bộđội hưu tríđã biết tập trung đầu tư vào việc khai thác tiềm năng đất đai(quĩđất trống đồi trọc còn to lớn), khí hậu nguồn lao động tại chỗđể phát triển kinh tế trang trại gia đình.Với phương châm lấy ngắn nuôi dài, tự tích luỹ bằng cách khai thác tối đa nội lực ,đến nay cac tỉnh phía bắc đã hình thành những cơ sở ban đầu của kinh tế trang trại. Theo kết quảđiều tra,lượng vốn bình quân một trang trại đạt 103,5trđ, chủ yếu dựa vào vốn tự có ,chiếm 85,64% , vốn vay chiếm 11,59% và vốn khác chiếm 2,77% ...Phần lớn các trang trại vùng núi phía bắc tập trung vào cây công nghiệp lâu năm ,cây ăn quả ,lâm nghiệp ,nuôi trồng thuỷ sản. Tính bình quân toàn vùng có 57,07% số trang trại hướng kinh doanh chính là cây công nghiệp lâu năm 20,86% hướng vào cây ăn quả ,12,41% hướng vào lâm nghiệp ,5.52% hướng vào thuỷ sản. Tỉ suất hàng hoá của các trang trại toàn vùng đạt 76,53% .Các trang trại phía bắc nhìn chung qui mô nhỏ ,tính chuyên môn hoá chưa thật rõ,phân bổít chênh lệch giữa các ngành. Một số trang trại đã kết hợp sản xuất với chế biến nông sản .Tuy nhiên số trang trại này chưa nhiều mà phần lớn là bán nguyên liệu thô cho các xí nghiệp chế biến. Về tiêu thụ sản phẩm ,các trang trại bán cho xí nghiệp chế biến, thương nhân thu mua hoặc thị trường tự do. Trong quá trình tiêu thụđã xuất hiện nhiều ách tắc như giẩc không ổn định trong việc lựa chọncác hướng sản xuất kinh doanh. Theo hướng sản xuất kinh doanh ,nhóm trang trại trồng cây công nghiệp lâu năm có tổng từ trồng trọt (trong đó chủ yếu từ cây công nghiệp lâu năm) chiếm khoảng 90%, gía trị chăn nuôikhoảng hơn 4%... Phía nhà nước: Trong một vài năm tới ,với sựđầu tư ngày càng tăng của nhà nước cho nông nghiệp,nông thôn,với sự nỗ lực cao của nông dân,sản xuất nong nghiệp nước ta sẽ có bước phát triển đáng kể so với hiện nay,nhưng vẫn chưa thể trở thành nền nông nghiệp hiện đại. Sản xuất nông nghiệp tuy năng suất lao động còn thấp ,thu nhập do khu vực này mang lại chưa cao ,song nó vẫn là nơi giải quyết việc làm thu nhập cho đại bộ phận lao động thộ . Điều này có nghĩa là ,trong một vài năm tới các vùng đất chật, người đông ,khả năng tập trung ruộng đất vào đại bộ phận nông dân cóđiều kiện và kinh nghiệm sản xuất để hình thành kinh tế trang trại sẽ diễn ra rất khó khăn và phức tạp.Vì vậy, cần tập trung phát triển mạnh kinh tế trang trại ở trung du và miền núi và những vùng có diện tích đất nông nghiệp bình quân nhân khẩu tương đối cao.Như vậy chúng ta có thể khai khẩn thêm đất đai ,mặt nước đưa vào sản xuất nông lâm thuỷ sản làm cho quĩđất nông nghiệp tăng lên ,thu hút lao độngvà giải quyết việc làm ,bảo đảm thu nhập cho một bộ phận lao động đang dư thừa trong nông thôn,góp phần làm tăng khối lượng các loại nông sản hàng hoáđáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu ,đồng thời việc phát triẻn kinh tếở các vùng hoang hoá,vùng đồi núi sẽ góp phần đáng kể vào việc tăng cường an ninh quốc phòng của đất nước và bảo vệ môi trường sinh thái. Theo một thoả thuận mới nhất vừa được kí kết giữa NHNo&PTNTVN với CLB trang trại ngày 18/7/2002, NH này cam kết hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi cho 100% chủ trang trại được vay vốn tại các chi nhánh của mình đồng thời sẽ kết hợp một cách linh hoạt các biện pháp bảo đảm vốn vay. NH sẽ bố tríđủ và kịp thời vốn vay ngắn hạn tối đa 12 tháng vàáp dụng hạn mức tín dụng trung hạn tối đa 5 năm và dài hạn trên 5 năm đối với các dựán hiệu quả vàđược hai bên thoả thuận. Phát biểu tại buổi toạđàm ,ông Lê Văn Sở, TGD NHNo&PTNTVN khẳng định : “Thời hạn vay vốn không phụ thuộc vào đối tượng cho vay mà do NH và khách hàng thoả thuận với nhau căn cứ vào chu kỳ sản xuất kinh doanh ,thời hạn thu hồi vốn của dựán, khả năng trả nợ của khách hàng và nguồn vốn cho vay của NH. Mức vốn tự có của khách hàng đối với dựán vay vốn ngắn hạn tối thiểu là 10% và 20% đối với dựán trung dài hạn trong tổng nhu cầu vốn .Riêng đối với các khách hàng có tín nhiệm thì mức vốn này còn có thể thấp hơn. Ngoài ra, NHNo&PTNT còn được dùng toàn bộ nguồn vốn trung ,dài hạn và 30% vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung dài hạn”. NHNo&PHNT có thểáp dụng nhiều phương thức cho vay như cho vay nhiều lần ,cho vay theo hạn mức tín dụng ,cho vay hợp vốn ,cho vay theo dựán đầu tư...Đối với hộ nông dân sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và các chủ trang trại. NH khuyến khích khách hàng vay theo hạn mức tín dụng,vừa tiết kiệm thời gian, vừa thuận tiện cho cả khách hàng và NH. Về vấn đề tài sản thế chấp, NHNo&PTNT cho rằng vấn đề quan trọng để quyết định cho vay là có hiệu quả và có khả năng trả nợ. Việc thế chấp nhàđất không đòi hỏi phải có bìa đỏ mà chỉ cần có xác nhận của chính quyền địa phương làđất đó thuộc quyền sử dụng đã nhiều năm và không có tranh chấp. Hiện NHNo&PTNT đang thực hiện thíđiểm phương thức bảo hiểm tín dụng trong dựán tài chính DN nông thôn ADB với số vốn là 47 tr$ vàđối tượng vay là các DN vừa ,nhỏở nông thôn có trang trại . Cụ thể làđối với các dựán không đủ tài sản thế chấp , NH sẽ cho vay vớ lãi suất cao hơn lãi suất thồn thường là 0,25% /tháng. Số chênh lệch này sẽđược dùng để lập quỹ bảo hiểm rủi ro. Hiện NHNo&PHNT đang đưa ra một mức lãi suất để khách hàng có thể thoả thuận với các NH cơ sở, trong đó cho vay ngắn hạn là 1%/tháng và cho vay trung , dài hạn là 1,5%/tháng. Khung lãi suất này là cơ sởđể thỏa thuận giữa khách hàng và NH. Riêng đối với các khách hàng làm ăn hiệu quả , trả lãi sòng phẳng ,có tín nhiệm thì giám đốc NH nơi đó có thể thoả thuận mức lãi suất thấp hơn .Có những nơi vay theo lãi suất thấp tới 0,8%/tháng , 0,65%/tháng thì NH vẫn chấp nhận cho vay chứ không chỉđóng khung theo lãi suất công bố. Về vốn đầu tư , bình quân một trang trại xấp xỉ 50 triệu đồng , chủ yếu là vốn tự có 74,3% , vốn vay 25,7% , trong đó vay ngân hàng chỉ có 13%. Theo kết quảđiều tra, thu nhập bình quân của 1 trang trại qua các năm đều đạt khoảng 15-20% .Năm 2000, đạt khoảng 27 triệu đồng, cao gấp 3-4 lần so với hộ nông dân trong vùng. Các chính sách ưu đãi đối với kinh tế trang trại của nhà nước: Duy trì hạn điền cho một sốđịa phương đặc biệt, mà mức hạn điền đó mức qui định ỏ nghịĐịnh NQ03 NQ-CP hoặc kéo dài thời hạn sử dụng hoặc cho thuê với giáưu đãi ,nhưđãđề cập ở gần hạn điền ở trên . Cho thuê dài hạn từ 10 –20 năm nên tích vượt hạn điền với giá khuyến khích với các trường hợp: +khai hoang phục hoáở những vùng cóđiều kiện sảm xuất kinh doanh khó khăn. +khai thác sử dụng có hiệu quả kinh tế và bảo vệđược môi trường khoán đất đang sử dụng vàđất khoán ở luật đất đai đang sử dụng vàđất khoán ở luật đất đai hiện hành. Chính sách thuế của nhà nước: Thuế là một công cụ tài chính có tác động trực tiếp đến việc khuyến khích hoặc cản trở kinh tế trang trại đang trên đà phát triển . Mặc dù thuế thu nhập đối với kinh tế trang trại đãđược điều chỉnh về mức thu nhập chịu thuế( từ mức thu nhập trên 30 triệu đồng là trên 50 triệu) và thuế suất <( từ 32% xuống 15%), song vẫn còn nhiều ý kiến đề xuất là tuỳ vào qui mô và vốn sản xuất –kinh doanh , có thể nâng mức thu nhập chịu thuế lên trên mức 100 triệu đồng-Có như vậy các trang trại mới cóđiều kiện đầu tư kĩ thuật ,tích tụ sản xuất và dự trữđề phòng rủi ro cũng như chịu ảnh hưởng của biến động về quan hệ cung cầu không có lợi cho sản xuất kinh doanh của các trang trại . Có một sốý kiến cho rằng chỉ nên đánh thuế gián thu thay vì thuế trực thu hiện hành. Cũng có một sốý kiến cho rằng nên áp dụng thuế thu nhập cá nhân đối với kinh tế trang trại . Điều này sẽ cho phép xác định hợp lí hơn mức thu nhận đóng góp của kinh tế hộ gia đình. -Về chếđộưu đãi đối với kinh tế trang trại ,các kiến nghịđược tập trung vào những khía cạnh sau: +áp dụng chính sách ưu đãi thuế(miễn hoặc giảm có thời hạn) đối với hàng hoá nông sản tìm kiếm được thị trường xuất khẩu để tạo khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững. +miễn hoặc giảm thuế từ 3-5 năm cho việc chuyển đổi cơ chế chính sách khuyến khích của nhà nước . +miễn giảm thuế có thời hạn thích hợp gắn với đặc điểm canh tác, đối với đất khai hoang cóđiều kiện sản xuất khó khăn , đất được khai thác sử dụng có hiệu quả. +miễn giảm thuế từ 3-5 năm cho các trang trại đầu tư kĩ thuật công nghệ theo chiều rộng hoặc chiều sâu để phát triển sản xuất –kinh doanh. -Chính sách đầu tư: Đầu tư của nhà nước cũng là biện pháp hỗ trợđối với hoạt động sản xuất –kinh doanh của kinh tế trang trại. Thực tế, đầu tưđầu tư của nhà nước đối với trang trại ở nhiều địa phương chỉđạt2000-3000đ/người. +Nhà nước cần kết hợp đầu tư cho kinh tế từ nhièu nguông như: ngân sách nhà nước , nguông đóng góp của các trang trại, huy động ngày công lao động nghĩa vụ ...đề xây dựng cơ sở hạ tầng tạo môi trường cho kinh tế trang trại phát triển. +Có thể nghiên cứu thành lập quĩ phát triển đầu tư phục vụ cho kinh tế trang trại ,đặc biệt đối với những vùng kinh tế tran trại tập trung và có qui mô lớn. +ưu tiên đầu tư của nhà nước đối với hoạt động liệt kết, hợp tác của kinh tế trang trại trong sản xuất chế biến-tiêu thụ sản phẩm ,làm hạt nhân cho kinh tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH-Bởi sự hợp tác và lien kết đóđòi hỏi có sựđầu tưđáng kể về khoa học –công nghệ-vốn và nhân lực. -Chính sách tín dụng: Nhà nước cần có biện pháp để tăng vốn tín dụng cho nông nghiệp ,đặc biệt đối với kinh tế trang trại đang được khuyến khích phát triển . Theo tính toán sơ bộ, hiện tại hệ thống tín dụng nông nghiệp nói chung và kinh tếtrang trại nói riêng nhằm đẩy nhanh tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng CNH thì rõ ràng vai trò tín dụng nông nghiệp là không nhỏ. Đa dạng hoá hệ thống tín dụng nông nghiệp(NH và phi NH) với mạng lưới rộng khắp ở nông thôn dưới nhiều hình thức và thành phần kinh tế tham gia. Mở rộng cho vay trung hạn và dài hạn đối với kinh tế trang trại. Với đặc điểm của kinh tế trang trại vốn tín dụng trung hạn và dài hạn là nhu cầu bức xúc. áp dụng mức cho vay không thế chấp tài sản (10,20,50 triệu ) đối với các trang trại có qui mô vừa và lớn thuộc các lĩnh vực sản xuất –kinh doanh , có kết hợp với những đặc điểm sản xuất –kinh doanh của chúng. _Chính sách giá cả và trợ giá: Trong điều kiện kinh tế thị trường ,giá cả phần lớn tuỳ thuộc vào quan hệ cung cầu hàng hoá. Tuy nhiên nhà nước cũng cần can thiệp vào những truờng hợp cần thiết vì sựổn định và phát triển bền vữn của nông nghiệp cũng như lợi ích của người sản xuất. +Nhà nước Thành lập quỹ trợ giáđối với sản phẩm nông nghiệp , trong đó có sựưu đãi đối với kinh tế trang trại sản xuất kinh doanh được nhà nước khuyến khích . Quĩ trợ giá này thực hiện chức năng chủ yếu: Trợ giáđối với những sản phẩm nông, lâm, ngư nghiệp cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến thực phẩm xuất khẩu. Việc trợ giá này nhằm khắc phục tình trạng lệ thuộc vào quan hệ cung cầu không có lợi,buộc người sản xuất phải thường xuyên thay đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi , làm thiệt hại đến người sản xuất và không ổn định cho công nghệ chế biến. Bao tiêu đối với những sản phẩm nông ,lâm, ngưđược nhà nước khuyến khích nhằm ổn định thị trường trong nước , cạnh tranh với thị trường quốc tế... 3/Thực trạng phát triển kinh tế trang trại của vùng: 3.1/Thành tựu: Kinh tế trang trại là một bước phát triển mới của kinh tế hộ với mục tiêu sản xuất hàng hoá qui mô lớn ,góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn theo hướng tăng tỷ trọng trong sản xuất hàng hoá, tạo ra các vùng sản xuất tập trung ,làm tiển đề cho công nghiệp chế biến nông lâm sản, đưa công nghiệp và các ngành dịch vụ vào nông thôn, tăng tốc độ phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Kinh tế trang trại phát triển đã góp phần huy động lượng vốn đầu tư khá lớn trong dân ,có thể lên tới nhiều tỷđồng đểđầu tư cho phát triển sản xuất nông lâm,ngư nghiệp hàng hoá. Kinh tế trang trại phát triển đã góp phần khai thác thêm diện tích đất trống đồi trọc, diện tích còn hoang hoá , đưa vào sản xuất nông lâm hải sản , nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Kinh tế trang trại đã góp phần giải quyết việc làm cho lao động và xoáđói giảm nghèo trong nông thôn. Nhoài 30 vạn lao động của gia đình còn thuê thêm 10 vạn lao động thường xuyên và 30 triệu ngày công lao động thời vụ hàng năm. Kinh tế trang trại phát triển hình thành những vùng sản xuất tập trung gắn với công nghiệp chế biến .Hàng năm làm ra giá trị tổng sản lượng gần 12000 tỷđồng, trong đó 87% là sản phẩm hàng hoá gồm số lượng lớn: cà phê, chè, điều, hồ tiêu, của nhà nước. Bước đầu hình thành đội ngũ chủ người mới trong nông nghiệp, mạnh dạn đầu tư công của, áp dụng khoa học kĩ thuật sản xuất kinh doanh trên qui mô lớn ,đổi mới cách nghĩ ,cách làm trong nông nghiệp nông thôn phù hợp với cơ chế kinh tế mới. Trong những năm đổi mới vừa qua , kinh tế trang trại đã thể hiện lợi ích cụ thểđối với nước nhà :góp phần tăng trưởng nông nghiệp lên đến 4-4,5% /năm, góp phần đưa nước ta trở thành nước xuất khẩu gạo nhất nhì thế giới, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp và nông thôn theo hướng có hiệu quả nhất làđã tạo ra một số vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá . Hiện nay , bình quân thu của một trang trại là 30-50 triệu đồng/năm, nhiều trang trại –nhất làở các tỉnh phía nam-thu nhập hàng năm lên đến trên 100 triệu hoặc thậm chíđến trên 200 triệu đồng. ước tính hàng năm 10 vạn trang trại Việt Nam đã tạo thêm việc làm vàổn định đời sống cho khoảng 40-50 vạn người. Cóđóng góp lớn như thế nhưng trang trại nước nhàđã tự lo vốn và bỏ công sức đểđầu tư sản xuất , để xây dựng cơ sở hạ tầng và khai hoang , phục hoá, góp phần xoá trồng trọc cho một phần đồi núi. Do trồng cây lâu năm, cây lâm nghiệp, chăm sóc ,bảo vệ rừng nên phải thấy rằng trong việc làm tăng độ che phủ của rừng từ 22% đến gần 28% và cơ bản là bảo vệđược môi trường sinh thái đã cóđóng góp không nhỏ của các trang trại. Bảng2: cơ cấu theo loại hình trang trại và vùng lãnh thổ tính đến tháng 10 năm 2001 Stt Loại hình trang trại vùng lãnh thổ Tổng số Trang trại trồng cây hàng năm Trang Trại trồng cây lâu năm Trang trại chăn nuôi Trang trại lâm nghiệp trang trại nuôi trồng thuỷ sản Trang trại kinh doanh tổng hợp 1 ĐBSH 1829 183 288 153 41 1028 136 2 Đông Bắc 2987 46 937 20 636 597 751 3 Tây Bắc 1

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxKTCT-73.docx
Tài liệu liên quan