Kể từ khi Luật đầu tư nước ngoài được ban hành(1988) đến hết ngày 28/02/2006, Việt Nam đã thu hút được trên 6.090 dự án(còn hiệu lực) với mức vốn đăng ký đạt hơn 52,3 tỷ USD và vốn thực hiện đạt trên 28 tỷ USD.Các doanh nghiệp FDI đã góp phần quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trở thành một thành phần kinh tế trong hệ thống kinh tế quốc dân;
Khu vực đầu tư nước ngoài đã trở thành bộ phận hữu cơ năng động của nền kinh tế, có tốc độ tăng trưởng cao và vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế . Đầu tư nước ngoài đã đóng góp 27% kim ngạch xuất khẩu (không kể dầu khí), 33% giá trị sản xuất công nghiệp, 22% vốn đầu tư xã hội và hơn 14% GDP của cả nước, tạo them việc làm cho hơn 80 vạn lao động trực tiếp và hang chục vạn lao động gián tiếp khác.
36 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5004 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài- FDI vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơn 80 vạn lao động trực tiếp và hang chục vạn lao động gián tiếp khác.
Khu vực FDI đẫ làm tăng khả năng cung ứng hang hoá cho thị trường, giảm nhu cầu nhập khẩu hang hoá thiết yếu , góp phần bình ổn thị trường, nâng cao đời sống xã hội.Mức đóng góp của khu vực đầu tư nước ngoài vào thu ngân sách ngày càng tăng về giá trị tuyệt đối và tương đối, tạo khả năng chủ động trong cân đối ngân sách, giảm bội chi .Trong thơi gian vừa qua, dòng ngoại tệ vào Việt Nam thong qua FDI vẫn lớn hơn rất nhiều dòng ngoại tệ từ Việt Nam đầu tư ra nước ngoài; cộng thêm việc mở rộng nguồn thu gián tiếp từ FDI (qua khách thăm quan, tìm hiểu cơ hội đầu tư, tiền cho thuê đất, tiền lương cho lao động thuộc khu vực đầu tư nước ngoài, tiền cung cấp nguyên vật liệu địa phương và các dịch vụ thu ngoại tệ tại chỗ khác) đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán của đất nước.
Mặc dù phần lớn doanh nghiệp FDI đang trong thời kỳ hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, nhưng nguồn thu ngân sách từ khu vực FDI lien tục tăng, tính bình quân chiếm từ 7-8% nguồn thu ngân sách (nếu tính cả nguồn thu từ dầu khí, tỷ lệ này đạt gần 30% thu ngân sách).
Chỉ tính riêng trong 5 năm gần đây (2001-2005),các dự án ĐTNN đã đạt doanh thu khoảng 74,061USD.Xuất khẩu cảu khu vực doanh nghiệp có vốn FDI tăng bình quân 20%/năm, đã làm cho tỷ trọng của khu vực kinh tế này trong tổng giá trị xuất khẩu cả nước tăng lien tục trong các năm qua.So sánh giá trị xuất khẩu và đóng góp cho GDP như trên với tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội mới thấy hết hiệu quả của khu vưc kinh tế có vốn ĐTNN.Chính vì vậy, cần phải khuyến khích các dự án ĐTNN hoàn thành và đưa vào sử dụng, vì những dự án này sẽ mang lại lơiích lớn về kinh tế cho đất nước, đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, rút ngắn được tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hiện nay, các doanh nghiệp ĐTNN đang hoạt động có hiệu quả và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước.Chỉ tính riêng trong năm 2005 đã đạt tổng doanh thu khoảng 18 tỷ USD( không kể dầu khí), ngang bằng năm 2004. Hơn nữa cả vốn và lao động được bồi bổ them đáng kể.Cụ thể là trong năm 2005, khu vực kinh tế ĐTNN đã thực hiện được 6,338 tỷ USD vốn đầu tư , tăng trên 50% so với năm 2004.
Nhờ hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh được tăng cao hơn mà trong năm 2005, chủ đầu tư của 607 dự án trong khu vực ĐTNN đã đề nghị va được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt cho tăng them vốn đầu tư để mở rộng quy mô hoạt động, với tổng vốn đầu tư tăng them 2,070 tỷ USD, tăng 3,5% so với năm trước. Điều đó cho thấy, nhiều nhà ĐTNN muốn làm ăn lâu dài tại Việt Nam.
Theo một báo cáo của Bộ KH&ĐT, trong 5 tháng đầu năm nay cả nước đã thu hút them hơn 2,412 tỷ USD vốn đầu tư đăng ký mới, bao gồm cả vốn bổ sung của những dự án cũ.Trong đó, riêng phần mới cấp phép có 281 dự án, với tổng vốn đăng ký trên 2 tỷ USD,tăng 8,5% về số dự án và tăng 19,5% về vốn so với cùng kỳ năm trước.Lĩnh vực công nghiệp và xây dưng chiếm 74,3% số dự án và 66,1% tổng số vốn đăng ký mới; lĩnh vực dịch vụ chiếm tương ứng là 21,1%và 33,4%; phần còn còn lại thuộc lĩnh vực nông-lâm- thuỷ sản. Đáng chú ý, trong số dự án cấp giấy phép không chỉ có một số dự án có quy mô vốn đầu tư lớn, và còn gắn liền với việc chuyển giao công nghệ cao, như tập đoàn Intel 605 triệu USD, Công ty Tây Hồ Tây 314 triệuUSD, Winvest Invesment 300 triệuUSD,công ty PanasonicCommution 76,36 triệu USD...
Cũng theo báo cáo trên,doanh thu (không kể dầu khí) cảu các doanh nghiệp FDI trong tháng 5/2006 ước đạt 2,55 tỷ USD, đưa tổng doanh thu của khu vực FDI trong năm tháng đầu năm 2006 lên 9,8 tỷ USD, tăng 14% so với cùng kỳ năm 2005.Trong năm tháng đầu năm 2006, giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực FDI tiếp tục tăng trưởng với nhịp độ cao, đạt 18% so với cùng kỳ năm trước, vượt trội so với mức tăng trưởng chung 15,9% của toàn ngành công nghiệp.Kim ngạch xuất khẩu hang hoá của các doanh nghiệp FDI trong 5 tháng đầu năm 2006 tăng 29,5% so với cùng kỳ năm trước, cũng vượt trội so với mức tăng trưởng chung của cả nước là 24,3%.
Sau một năm, kể từ tháng 5/2005 đến nay, không kể dầu khí, tỷ trọng của doanh nghiệp FDI trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước(theo giá sánh năm 1994) đã tăng từ 28,9% lên gần 30,3%; đồng thời trong tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước cũng tăng từ 32,76% lên gần 35,77%. Mặt khác, tổng số lao động trực tiếp trong khu vực FDI đã gia tăng từ 819.000 người ở thời điểm cuối tháng 5/2005 lên 1.057.000 người hiện nay.
Kể từ sau khủng hoảng tài chính khu vực năm 1997, xu hưóng dòng vốn FDI vào Việt Nam tiếp tục phục hồi và tăng trưởng. Các vùng trọng điểm kinh tế vẫn là đầu tàu trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, làm động lực phát triển kinh tế của nước ta,tạo sức lan toả của đầu tư nước ngoài sang những vùng có điều kiện kinh tế khó khăn.Chỉ tính riêng trong năm 2005(tinh đến ngày 20/12/2005)trong tổng số 798 dự án được cấp phép, ngoại trừ 1 dự án dầu khí ngoài khơi thì 797 dự án còn lại được thực hiện trên 40 ỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.Dẫn đầu là TPHCM với 243 dự án được cấp phép,tỉnh Bình Dương với 140 dự án,tỉnh Đồng Nai với87 dự ánvà tỉnh Tây Ninh với 26 dự án .Tại khu vực phía bắc, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, Quảng Ninh, Hưng Yên là các địa phương dẫn đầu vê số dự án FDI được cấp phép hoạt động, trong đó Hà Nội có 103 dự án,Vĩnh Phúc 24 dự án ,Hải Phòng có 21 dự án.Các tỉnh có điều kiện kinh tế-xã hội khó khăn cũng thu hút được các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài như Lào Cai 5 dự án,Cao Bằng 3 dự án, Đắc Nông 2 dự án…
Cơ cấu đầu tư nước ngoài trong năm nay đã có sự chuyển biến theo hướng tăng tỷ trọng của lĩnh vực dĩch vụ, chỉ tính riêng năm 2005(tính đến ngày 20/12/2005),số dự án ĐTNN đầu tư vào ngành dịch vụ cấp mới là 193 dự án chiếm 24,19% với tổng vốn đầu tư gần 1,5 tỷ USD và 50 dự án tăng vốn chiếm 9,77% với tổng vốn tăng thêm gần 228 triệu USD.
Theo Cục Đầu tư nước ngoài(Bộ Kế hoạch và Đầu tư), nhiều dự án lớn về đầu tư nước ngoài sẽ đổ vào Việt Nam trong thời gian tới.Dự kiến năm 2007 cả nước sẽ thu hút trên 12 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong tháng 2/2007 có 38 lượt dự án bổ sung thêm vốn với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 360 triệu USD gấp 3 lần tổng vốn tăng thêm so với cùng kỳ 2006
Thái Lan là nhà đầu tư có số vốn đăng ký lớn nhất trong 2 tháng đầu năm 2007, chiếm 33,8% tổng vốn đăng ký(dự án giấy Kraf Vina của tập đoàn SCG SamCement tại Bình Dương với số vốn 220 triệu USD).
Vốn đầu tư đăng ký tập trung vào lĩnh vực công nghiệpchiếm 49% dich vụ chiếm 45% số còn lại thuộc lĩnh vưc nông-lâm – ngư nghiệp.
Bình Dương là địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút đầu tư nước ngoài với vốn đầu tư chiếm 35% tổng vốn đăng ký, tiêp theo là Bà Rịa Vũng Tàu 27% và Thái Nguyên 16%.
Bên cạnh đó, trong tháng 2/2007 các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã góp vốn thực hiện là 350 triệu USD tăng 34% so với cùng kỳ năm trước.Doanh thu của các doanh nghiệp ĐTNN trong tháng 2/2007 ước tính đạt 1.980 triệu USD tăng 25% so với cùng kỳ năm ngoái và thu hút thêm 9000 lao động đưa tổng số lao động trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài lên 1.145.000 người tăng 11% so với cùng kỳ năm trước.
Nhìn chung tình hình thu hút đầu tư nước ngoài 2 tháng đầu năm 2007 được đánh giá khả quan với vốn cấp mới và tăng thêm là 1,91 tỷ USD tăng 45% so với cùng kỳ năm trước.Nhiều người hy vọng 2007 là năm bội thu về thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
Theo ông Phan Hữu Thắng Cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài, năm 2006 cả nước thu hút được 11 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và năm 2007 đang phấn đấu thu hút từ 12 tỷ trở lên.
Cũng theo ông Thắng hiện nay có nhiều nhà đầu tư lơn đang tìm kiếm cơ hội đầu tư tại Viêt Nam với các dự án lớn. Tại Hà Nội, Tập đoàn Gamuda(Malaixia) dự kiên đầu tư 1 tỷ USD xây dựng khách sạn,trung tâm hội nghị, văn phòng căn hộ cao cấp và Tập đoàn River(Nhật Bản) xin đầu tư xây dựng khách sạn 5 sao với vốn 500 triệu USD.
Tại Bắc Ninh và Bắc Giang, tập đoàn Foxcon(Đài Loan) dự kiến đầu tư 5 tỷ USD xây dựng thành phố công nghệ sản xuất các sản phẩm điện tử cao cấp, trong giai đoạn đầu (năm 2007) đầu tư 1 tỷ USD. Ngoài ra còn rất nhiều dự án lớn khác của tập đoàn Trung Quốc đầu tư vào Viêt Nam.
Thời gian tới Cục Đầu tư nước ngoài sẽ kết hợp với 14 tập đoàn truyền thong nước ngoài và trong nước tổ chức hội nghị về thu hút đầu tư nước ngoài tại TPHCM nhằm thong qua đó đẩy mạnh thu hút đầu tư vào Việt Nam.
2.2.Những thuận lợi của Việt Nam khi thu hút FDI
Thu hút đầu tư nước ngoài là một trong những thành tích ấn tượng của Việt Nam trong năm 2006, với con số kỉ lục 10,2 tỷ USD. Vượt xa kế hoạch và con số dự báo. Tuy nhiên, cũng xin lưu ý con số hơn 10 tỷ USD mới chỉ dừng lại ở cam kết. FDI và ODA cùng đạt mức kỉ lục trong năm là những dấu hiệu rất quan trọng và tích cực đối với Việt Nam. Điều này chứng tỏ các tổ chức quốc tế, các chính phủ và các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá tích cực hơn về môi trường đầu tư của Việt Nam.
Đạt được kết quả này phải kể đến nỗ lực của nhà nước Việt Nam nhằm cải thiện môi trường đầu tư và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Đó là sự nỗ lực hết mình để đáp ứng nhà đầu tư.
Nỗ lực tích cực về phía nhà nước Việt Nam được xem như là các điều kiện cần và đủ-chủ yếu liên quan đến các vấn đề chính sách vĩ mô-được xây dựng một cách rõ ràng và nhất quán để chuyển biến những tiềm năng thành hiện thực.
2.2.1.Những nỗ lực nhằm cải thiện chất lượng môi trường bên trong:
2.2.1.1.Điều đầu tiên phải nhắc đến là hai thế mạnh của Việt Nam: sự ổn định chính trị và an toàn những yếu tố đã được các nhà đầu tư nước ngoài thừa nhận. Bên cạnh đó nhà nước đã có chủ trương tiếp tục cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư, mở cửa thị trường theo các cam kết quốc tế. Quốc hội đã thông qua Luật Đầu tư chung và Luật Doanh nghiệp thống nhất, tạo ra “một sân chơi bình đẳng” và “có thể tiên đoán” được cho các nhà đầu tư và kinh doanh trong và ngoài nước.
Theo Luật Đầu tư mới, sẽ mở rộng phạm vi về ngành nghề, địa bàn, phương thức cho các nhà đầu tư lựa chọn. Từ đó, có thể tăng cường sức lan tỏa của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FIE) trong nền kinh tế, thực hiện chuyển giao công nghệ. Cũng vì thế, luật đầu tư được đánh giá là thực sự cởi mở và thông thoáng hơn các luật hiện hành.
2.2.1.2.Thực hiện chủ trương chung của Đảng và nhà nước ta trong quá trình đổi mới, việc phân công thực hiện đầu tư đã được tiến hành mạnh mẽ. Trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư nước ngoài, việc phân cấp này được giao trách nhiệm cho các địa phương, ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất và khu kinh tế.
Chẳng hạn, trước đây các nhà đầu tư có vốn đến 5 triệu USD được giao cho các địa phương cấp phép. Thì nay thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đã được quyết định các dự án đầu tư lớn hơn. Ban quản lý các khu công nghiệp được quyết định các dự án có vốn đầu tư lên đến 40 triệu USD. Nhờ vậy đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Thậm chí đã có những địa phương thí điểm cấp phép qua mạng, khiến việc cấp phép đầu tư được nhanh chóng hơn.
Trong luật đầu tư mới, phần lớn chỉ còn có đăng kí đầu tư với quy trình đơn giản và thời hạn ngắn, quy mô đầu tư phải xem xét được nâng lên mức cao. Chỉ với các dự án lớn, có vốn đến khoảng 200 triệu USD (300 tỉ đồng) chiếm chừng 2% doanh nghiệp mới cần phải thẩm định. Sẽ tăng cường khuyến khích đầu tư bằng biện pháp hậu kiểm cũng làm đơn giản hơn các thủ tục thẩm định. Các vấn đề tranh chấp cũng được xử lý theo thông lệ quốc tế.
2.2.1.3.Sự thay đổi lớn trong việc cải thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam là sự lắng nghe và tôn trọng của chính phủ xung quanh các ý kiến từ các doanh nghiệp. Cầu nối này trước đây chỉ thể hiện ở cấp chính phủ thì nay hầu hết các địa phương trọng điểm như thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Đồng Nai… đều có.
Đây là điều mà không phải ở bất cứ quốc gia nào cũng có được. Khi một nhà đầu tư nước ngoài mang một số tiền lớn cùng với công nghệ và máy móc đến một nơi “đất khách quê người” làm ăn thì thái độ thiện chí của chủ nhà sẽ tạo nên sự an tâm cho họ.
Mặt khác, sự lắng nghe này còn có ý nghĩa quan trọng ở chỗ chính phủ đã biết vận dụng vào thực tế nhằm cải thiện môi trường đầu tư thông qua những điều chỉnh trong chính sách.
2.2.2.Chúng ta không chỉ phải lo tốt các điều kiện bên trong mà phải còn lo tốt hoạt động xúc tiến đầu tư, tiếp thị với nhà đầu tư bên ngoài và ngược lại. Bởi lẽ hai công việc này sẽ hỗ trợ, bổ sung cho nhau.
Hiện cục đầu tư nước ngoài đang triển khai thiết lập ba trung tâm xúc tiến đầu tư tại cả 3 miền Bắc Trung Nam. Mục tiêu là xây dựng nên những địa chỉ tin cậy của các nhà đầu tư, quan tâm đến tâm tư nguyện vọng của nhà đầu tư, cung cấp các dịch vụ miễn phí cho nhà đầu tư. Cục đầu tư nước ngoài cũng đang khảo sát và sẽ sớm tổng kết những vướng mắc, từ các loại hình dịch vụ cho đến hệ thống luật lệ, chính sách, quản lý điều hành… trình lên chính phủ để rà soát điều chỉnh lại, làm sao xây dựng cho được một môi trường đầu tư hết sức thông thoáng, thoải mái... Nếu chúng ta tạo điều kiện hỗ trợ, giúp đỡ các nhà đầu tư đang làm ăn phát đạt tại Việt Nam thành công, tức là làm tốt được “chân trong” sẽ tạo hiệu ứng tốt cho công tác xúc tiến đầu tư ra bên ngoài.
Lấy sự thành công của khu chế xuất Linh Trung làm ví dụ. Hiện công ty hạ tầng đã làm hoàn tất Khu chế xuất Linh Trung 1,2 và đang xây dựng Linh Trung 3 tại Tây Ninh. Sự thành công này có được là do đơn vị kinh doanh hạ tầng đã không bỏ mặc nhà đầu tư, không thực hiện theo kiểu cho thuê đất xong rồi thôi mà họ đã đồng hành hỗ trợ nhà đầu tư tất cả các khâu: cung cấp dịch vụ, làm visa, giải quyết các quan hệ lao động. Từ kinh nghiệm của Khu chế xuất Linh Trung có thể thấy rằng sau khi cấp phép chúng ta không thể để các nhà đầu tư phải tự xoay xở những vướng mắc nhỏ nhặt nhưng lại gây khó chịu, ảnh hưởng tâm lý nhà đầu tư…l
Những nỗ lực như trên thực sự đã được các nhà đầu tư nước ngoài công nhận, khi ông Norio Hattori, Đại sứ Nhật tại Việt Nam, ghi nhận Việt Nam hiện là Quốc gia có khả năng cạnh tranh cao về thu hút FDI trong khu vực. Trong khi chỉ cách đây 3 năm, môi trường đầu tư tại đây không có gì hấp dẫn so với các lân cận.Như vậy, thị trường Việt Nam thực sự sẽ tự do hơn, mở cửa hơn và tính cạnh tranh cũng cao hơn rất nhiều. Để các nhà đầu tư nước ngoài đã, đang, sẽ đến Việt Nam. Và sẽ tuyệt vời hơn khi Việt Nam giữ chân họ, khiến họ có thể kéo thêm những người khác “xếp hàng” đến đây.
2.3.Một số hạn chế trong thu hút FDI tại Việt Nam.
Mặc dù đã đạt mức tăng trưởng cao, nhưng kết quả thu hút đầu tư nước ngoài trong năm qua vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, vẫn thấp hơn mức đạt được của năm 1996 (8,8 tỷ USD). Môi trường đầu tư và kinh doanh tuy đã tiếp tục được cải thiện nhưng vẫn có những dự án vì những lý do nào đó, sau khi nhà đầu tư khảo sát tại Việt Nam đã thôi không đầu tư nữa hoặc chuyển sang đầu tư nước khác.
Việt Nam là một trong số rất ít các nước đang phát triển được các nhà đầu tư nước ngoài đánh giá cao về các lợi thế đầu tư, đặc biệt là trên 4 phương diện: sự ổn định chính trị, vị trí địa lý, khả năng khống chế tỷ lệ lạm phát và quản lý tỷ giá. Tuy nhiên, Việt Nam cũng là một trong các quốc gia còn yếu trong việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, hiệu quả của các dịch vụ hành chính, cơ sở hạ tầng, hệ thống thuế và khung pháp luật cho hoạt động đầu tư nước ngoài, một số nhà đầu tư có tâm lý chờ đợi các văn bản hướng dẫn thi hành các luật mới. Ngoài ra, các tình trạng đình công chưa được ngăn chặn kịp thời; tình trạng tranh chấp kéo dài và triển khai dự án chậm chưa được xử lý dứt điểm cũng gây ảnh hưởng xấu đối với môi trường đầu tư.
Một điều nữa là chính sách thu hút ĐTNN của các nước trong khu vực quả thật có những điểm hấp dẫn hơn. Nếu nhìn lại, có thể thấy trong vấn đề này Trung Quốc có lợi thế hơn ta khi thị trường trong nước của họ lớn hơn ta rất nhiều. Đấy cũng là lý do khiến một số nhà đầu tư rút khỏi Việt Nam để chuyển hướng sang Trung Quốc.
-Tỷ lệ các dự án đầu tư nước ngoài có sử dụng công nghệ cao, công nghệ nguồn còn thấp. Trong số các đối tác nước ngoài, thì Châu Âu và Hoa Kỳ đầu tư chưa lớn và chưa tương xứng với tiềm năng của họ.
-Nhìn chung, tiến độ thực hiện dự án còn chậm so với luận chứng kinh tế kỹ thuật của dự án. Những dự án được cấp trước thời kỳ khủng hoảng tài chính khu vực vẫn không triển khai hoặc mới chỉ triển khai một số ít hạng mục. Nhiều dự án bất động sản vẫn dậm chân tại chỗ do vướng cơ chế chính sách. Một số dự án gặp vướng mắc kéo dài chưa được xử lý dứt điểm gây ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư. Kết quả là chênh lệch giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện còn lớn; tốc độ tăng vốn thực hiện chưa cao.
-Một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không thực hiện đúng những quy định của luật pháp về việc sử dụng lao động là người Việt Nam; như kéo dài thời gian học nghề, trả lương thấp hơn mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định, không thực hiện đúng chế độ bảo hiểm xã hội, kéo dài thời gian lao động trong ngày, thậm chí có những hành động xử phạt trái với pháp luật và đạo lý. Trong khi đó, nhiều người lao động không nắm được quy định của pháp luật, cộng thêm việc thiếu các tổ chức công đoàn, các cán bộ của Bên Việt Nam không bảo vệ được quyền lợi chính đáng của người lao động..., đó chính là những nguyên nhân chủ yếu xảy ra các tranh chấp về lao động trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
-Tỷ lệ các dự án giải thể trước thời hạn vẫn còn ở mức cao, nhất là các dự án được cấp phép trong những năm trước khủng hoảng.
-Chủ trương phân cấp đầu tư trong thời gian qua đã cho thấy đây là một chính sách đúng đắn cần được phát huy và mở rộng, nhưng cũng đã bộc lộ những vấn đề mới, như việc ban hành văn bản vượt khuôn khổ pháp luật, việc quản lý về đầu tư nước ngoài tại các địa phương còn khác nhau, không được xử lý một cách thống nhất, cạnh tranh trong thu hút đầu tư giữa các địa phương đã ảnh hưởng đến lợi ích chung..
-Cơ sở hạ tầng yếu kém( thiếu sân bay, bến cảng hệ thống giao thông…), việc đi lại khó khăn.
-Chưa tạo ra được động lực để kích thích hướng dẫn cho các nhà đầu tư, môi trường cạnh tranh chưa có , quy mô các dự án còn nhỏ .
-Chưa xác định được rõ nơi đâu (nước nào ) và ai là những nhà đầu tư tiềm năng để đưa ra chiên lược thích ứng , có trọng điểm kêu gọi đầu tư. Vẫn chưa xác định những lợi thế đang có, để hoạch định chiến lược dài hạn ; còn rất nhiều lúng túng ,thiếu tự tin khi giới thiệu tiềm năng và nguồn nhân lực .
-Cơ cấu nghành nghề còn đơn điệu , chưa có những chương trình giới thiệu và quảng bá hình ảnh đất nước một cách thuyết phục , hệ thống thông tin dữ liệu còn nghèo nàn , chưa được quan tâm đúng mức .
-Hoạt động xúc tiến đầu tư phân tán , rời rạc , thiếu tính liên kết ; còn nặng về hình thức, nhưng thiếu tính chuyên nghiệp . Các giải pháp thu hút đầu tư thiên về ban phát , mời mọc ban đầu , nhẹ xây dựng thiết kế và tinh thần trách nhiệm của bộ máy .
-Thiếu thân thiện cởi mở với các nhà đầu tư, vẫ còn lắm thủ tục nhiễu khê, phiền phức trong việc đón tiếp ,làm việc với người nước ngoài
-Về nhận thức , mới chỉ thấy đầu tư nước ngoài là cần , nhưng vẫn chưa thấy đến mức phải tập trung chỉ đạo từ phân tích đánh giá đến xây dưng chương trình (đồng bộ ) và tổ chức thực hiện . Kinh nghiệm về thu hút vốn đầu tư nước ngoài còn thiếu
-Một yếu tố nữa cũng làm cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian qua là ĐTNN vẫn còn tập trung tại các vùng kinh tế trọng điểm . Tại các vùng kinh tế có lợi thế về điều kiện tự nhiên và kết cấu hạ tầng và thị trường tiêu thụ hấp dẫn các nhà đầu tư còn các vùng thứ yếu chưa được quan tâm . Điều này cho thấy các chính sách khuyến khích đầu tư vào các tỉnh miền núi , vùng sâu , vùng xa chưa mang lại kết quả . Điều này đòi hỏi trong thời gian tới cần có những giải pháp hữu hiệu hơn nữa nhằm hạn chế tình trạng mất cân đối về ĐTNN giữa các vùng kinh tế .
Chương 3
Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của một số nước từ đó rút ra bài học và giải pháp đối với Việt Nam
3.1. Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc.
FDI là nhân tố đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng và phát triển ở nhiều quốc gia. Việc nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm quốc tế để rút ra bài học cho Việt Nam trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài phục vụ có hiệu quả công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá hiện nay là một việc có ý nghĩa cả về lí luận và thực tiễn.
Trong số các quốc gia đang phát triển ở khu vực Châu Á, Trung Quốc được coi là một quốc gia thành công trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài cho quá trình Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá; và đã đạt được những thành tựu đáng kể về thu hút FDI sau hơn 20 năm cải cách và mở cửa. So sánh với Việt Nam, Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng cơ bản về điều kiện phát triển và sự lựa chọn những mô hình kinh tế chuyển đổi.Hơn nữa, Việt Nam đã chậm hơn so với Trung Quốc gần 10 năm trong việc thu hút FDI. Vì vậy, việc xem xét, học tập kinh nghiệm thu hút FDI phục vụ quá trình hiện đại hoá ở Trung Quốc là rất bổ ích đối với nước ta.
3.1.1 Lựa chọn và qui định các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài hợp lí
Việc lựa chọn và qui định các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài hợp lí là một phương thức để thu hút có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài. Hầu hết các nước đều chú trọng lựa chọn hình thức này và các nhà đầu tư cũng chú trọng lựa chọn hình thức đầu tư để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của mình.
Kể từ khi tiến hành công cuộc đổi mới kinh tế (1978) và đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, Trung Quốc đã đưa ra các qui định về các hình thức đầu tư mà nhà đầu tư nước ngoài được phép thực hiện tại Trung Quốc.Các hình thức đầu tư được Trung Quốc áp dụng khá đa dạng và liên tục được bổ sung, sửa đổi phù hợp với mục tiêu thu hút đầu tư của Trung Quốc.Các hình thức này bao gồm:
3.1.1.1 Xí nghiệp liên doanh:
Đây là hình thức đầu tư được thành lập giữa đối tác nước ngoài là công ty, cá nhân hoặc tổ chức kinh tế nước ngoài với đối tác Trung Quốc để tiến hành các hoạt động đầu tư.Các bên cùng góp vốn, cùng quản lý, cùng phân chia lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo mức độ góp vốn.Quyền lợi và nghĩa vụ của các bên được qui định trong hợp đồng liên doanh.
Đây là hình thức được Trung Quốc coi trọng thành lập và tạo điều kiện thuận lợi nhằm tranh thủ đầu tư nước ngoài để học tập kinh nghiệm quản lý, đào tạo tay nghề cho người lao động Trung Quốc, phát triển thị trường nội địa, mở rộng xuất khẩu, tiếp nhận công nghệ nước ngoài…
Trong giai đoạn đầu thu hút vốn đầu tư, hình thức này đã được hưởng khá nhiều chính sách ưu đãi hơn so với các hình thức đầu tư khác như: miễn thuế xuất nhập khẩu, thủ tục hải quan…và chỉ một số lĩnh vực thương mại và dịch vụ mới được phép thành lập xí nghiệp dưới hình thức liên doanh.
Tuy nhiên, hình thức đầu tư này cũng bộc lộ những hạn chế nhất định, như: phía Trung Quốc đễ bị thiệt hại do thiếu kinh nghiệm liên doanh, đặc biệt là những thua thiệt trong quá trình đàm phán để kí kết hợp đồng liên doanh.
3.1.1.2. Xí nghiệp liên doanh hợp tác:
Đây là hình thức đầu tư, trong đó bên nước ngoài đóng góp toàn bộ hoặc phần lớn tiền vốn và kĩ thuật, còn phía Trung Quốc góp vốn bằng đất đai, nhà xưởng hiện có và một phần nhỏ vốn đầu tư. Hai bên cùng phối hợp hoạt động hoặc cùng hợp tác sản xuất kinh doannh.Tỷ lệ và phương thức phân phối lợi nhuận giữa các bên hợp tác được áp dụng khá linh hoạt.
Xí nghiệp được thành lập theo hình thức này có thể là thực thể kinh tế độc lập có ban giám đốc điều hành, cũng có thể do các bên tiến hành hợp tác với tư cách là pháp nhân độc lập của từng bên thành thực thể kinh tế kết hợp mà các bên cùng phối hợp với nhau để thực hiện các hoạt động quản lí kinh doanh.Khi các bên không thành lập một pháp nhân mới, việc giám sát, kiểm tra, kiểm soát các hoạt động của hình thức đầu tư này khá phức tạp, đặc biệt về các mặt tài chính.
Các giao dịch tài chính không rõ ràng, việc trốn thuế, thiếu trung thực trong các báo cáo tài chính, báo cáo thu nhập, lãi, lỗ…dễ xảy ra đối với hình thức đầu tư này.
3.1.1.3. Xí nghiệp sở hữu nước ngoài hoàn toàn:
Đây là hình thức đầu tư trong đó toàn bộ vốn góp thuộc sở hữu nhà đầu tư nước ngoài. Loại hình này thường được tổ chức theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn.
Việc thành lập loại hình xí nghiệp này được đánh giá là mang lại nhiều lợi ích cho phía Trung Quốc. Cụ thể là: Trung Quốc sẽ tiếp nhận được trình độ kĩ thuật khá cao; không phải quan tâm nhiều đến việc chuẩn bị vốn đầu tư để góp vốn vào dự án với nhà đầu tư nước ngoài; không phải chịu rủi ro từ hoạt động đầu tư, mà chỉ thu tiền thuế của các hoạt động kinh doanh của xí nghiệp loại này; không có những sự xung đột, tranh chấp về quản lý và điều hành kinh doanh trong xí nghiệp giữa phía Trung Quốc và phía nước ngoài.
Tuy nhiên, với hình thức đầu tư này, Trung Quốc cũng phải chịu những thua thiệt nhất định, cụ thể là: Trung Quốc không chủ động tiến hành cải tạo các doanh nghiệp hiện có; nhiều nhà đầu tư nước ngoài trốn thuế nghiêm trọng, thậm chí thay đổi cả mục tiêu dự án; khó đạt được mục tiêu tiếp nhận công nghệ nguồn của các công ty xuyên quốc gia.
3.1.1.4. Hình thức hợp tác phát triển:
Đây là cách rút gọn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 69488.DOC